- Thưa thúc thúc, cháu có thể tự hào là từ nhỏ đến nay, lúc nào cũng đường hoàng minh chính! quả thực, cháu không biết chuyện gì! -
Xã trưởng xuống ngựa, trong khi hai cảnh vệ cũng xuống ngựa. Cả ba buộc ngựa vào hàng rào, kể cả con ngựa thứ tư không người cưỡi dắt theo. Hai cảnh vệ đứng hai bên xã trưởng, tay trên chuôi kiếm sẵn sàng.
Xã trưởng dịu giọng:
- Tôi biết lắm, những phút sa ngã đến rất bất ngờ, với tất cả mọi người, kể cả những kẻ đàng hoàng minh chính như hiền điệt nói. Theo tôi, tội này có phương pháp cứu chữa để thuần phong mỹ tục được toàn vẹn. Gần trăm năm rồi, Vị An chưa hề xảy ra chuyện đáng tiếc như ngày nay. -
Nguyên Thái bắt đầu mất kiên nhẫn, giọng hơi bực tức, nhưng vẫn lễ phép:
- Thưa thúc thúc, quả thật cháu không biết chuyện gì. Nếu thúc thúc không nói, cháu xin phạm tội vô lễ với thúc thúc, cháu tiếp tục đường đi. Mà cháu sẽ chống lại, và phá tan những cản trở trên đường! -
- Tạm tin là hiền điệt không biết chuyện, hay nói đúng chưa biết chuyện. Hỏi hiền điệt có biết ni cô Lương Trinh ở chùa Vạn Đức? -
Nguyên Thái:
- Cháu biết ni cô Lương Trinh. Ni cô cổ kim uyên bác. Cháu có mấy dịp thảo luận văn chương, triết lý ở Hồng Thạch Trụ và lại được chơi cờ với ni cô. Ni cô rất cao cờ. Vì là tu hành không dự những giải cờ ở Vị An. Cháu có thể nói, nếu ni cô được dự, chắc hẳn giật giải quán quân…Ni cô Lương Trinh làm gì nên tội? Hay xẩy ra chuyện gì cho ni cô? -
Xã trưởng:
- Không, người ta đã cứu được ni cô Lương Trinh…và…và đứa con gái mới sinh! -
Nguyên Thái giật mình:
- Sao lại như vậy? Cháu không để ý. Không thấy chuyện gì khác thường mỗi khi gặp ni cô trên đường từ vườn chè đến Hồng Thạch Trụ, nơi có bàn đá hoa, khách bộ hành, khách thập phương ngừng chân, ngắm phong cảnh Vị An. Như vậy có liên lạc gì đến cháu! -
Xã trưởng:
- Chính vì cái nghi ngờ có liên lạc giữa cháu với ni cô Lương Trinh nên Hội Đồng mới ra lệnh bắt hiền điệt. -
Nguyên Thái:
- Cháu không có trách nhiệm gì về việc này. Chú cho phép cháu lên đường, xin chú thanh minh hộ cháu. -
Xã trưởng:
- Không được. Người quân tử đường hoàng minh chính không nên lén lút bỏ đi. Cháu hãy tự mình thanh minh trước hội đồng. Tôi bắt buộc phải đưa cháu về tạm giữ ở công quán. Có dẫn theo ngựa. Vậy cháu lên ngựa về công quán cùng chúng tôi. Người ta nghi hiền điệt và ni cô Lương Trinh…-
Nguyên Thái:
- Nếu thế thì, cháu lấy danh dự không bỏ Vị An đi nơi khác, chỉ xin thúc thúc cho phép cháu ở lại Chiêm Tinh Tự. Cháu xin nộp võ khí và tự cho là tù nhân của Vị An, cho tới khi thanh minh câu chuyện! -
Dứt lời, Nguyên Thái hai tay dâng xã trưởng bảo kiếm. xã trưởng đỡ lấy nhưng trả lại Nguyên Thái:
- Đáng lẽ việc này, chánh cảnh vệ phải dẫn thủ hạ đến bắt hiền điệt, nhưng tôi nửa tin nửa ngờ nên đích thân lên đây, sợ rằng chánh cảnh vệ lỗ mãng gây chuyện đáng tiếc. Tôi nhận lời hứa danh dự của hiền điệt. Hiền điệt cứ ở lại Chiêm Tinh Tự. Tôi về tường trình hội đồng ngay. -
Nguyên Thái:
- Xin cám ơn thúc thúc. Nhưng câu chuyện xảy ra thế nào? -
Xã trưởng:
- Khoảng mười giờ đêm qua, trên đường xuống bến thuyền xuôi Kẻ Chợ, người ta thấy một thiếu phụ nằm lăn bất tỉnh bên vệ cỏ. Đến cấp cứu thì thiếu phụ trở dạ đẻ một con gái. Sau khi đỡ đẻ, họ nhận ra Ni cô Lương Trinh. Cả vị An được tin xôn xao bàn tán lo lắng. Việc này rất quan trọng đối với Vị An. Hội Đồng hương chính tộc biểu họp ngay để điều tra. Nhiều nhân chứng khai họ trông thấy hiền điệt và ni cô nhiều lần ở Hồng Thạch Trụ. Đối với Vị An, ni cô Lương Trinh là dâm phụ, lại thêm là nhà tu hành tội nặng gấp bội. Theo lệ làng từ mấy trăm năm rồi. Có lời thề của bà Thần Hoàng làng nếu có con gái không chồng mà chửa hoang không tìm ra gian phu, thì làng phải chịu nhiều tai hoạ…Trái lại tìm ra gian phu, nếu đôi bên hối lỗi ăn năn thì hội đồng hương chính cùng tộc biểu có thể tìm ra giải pháp ổn thoả và làng sẽ tránh được những tai ương không thể đo lường trước. Đã gần trăm năm không xảy ra chuyện gì. Nay chuyện này lại là một ni cô, cho nên qua tầm quan trọng. Nói rõ để cháu hiểu tình hình. Nếu cháu bỏ trốn thì tôi phải trách nhiệm với Hội đồng. -
Nguyên Thái đến trước Hoàng xã trưởng nhìn thẳng:
- Nguyên Thái tôi không bao giờ hèn nhát bỏ trốn, nếu Nguyên Thái tôi làm nên tội. Nguyên Thái tôi vô tội, việc gì phải trốn chạy nơi nào? Xin thúc thúc cứ yên tâm, tiếp tục cuộc điều tra. -
Xã trưởng cùng hai cảnh vệ trở lại Vị An, còn Nguyên Thái về Chùa yết kiến sự cụ Hòa Tín, vừa đi tản bộ về. Nghe chuyện, sư cụ ngạc nhiên. Sư cụ nói sư bà Vạn Đức rất nghiêm khắc, làm sao lại có chuyện này. Và sự cụ phủ dụ Nguyên Thái. Năm tháng sống ở chùa, sư cụ không tin là Nguyên Thái đã làm nên tội. Nguyên Thái cám ơn sư cụ, nhưng bắt đầu không yên tâm. Định đi điều tra lấy nhưng ở tình thế bị can, khó lòng tìm ra manh mối.
Hai ngày liền, Nguyên Thái không ra khỏi chùa.
Sáng sớm ngày thứ ba, hai cảnh vệ lên Chiêm Tinh đòi chàng ra mắt hội đồng. Đó là phiên xử công khai. Dân chúng đông nghịt ở sân công quán, bên cạnh đình làng. Theo như tục lệ. Chánh án Tôn Vĩnh Bạt tiên chỉ, chánh tộc biểu, vẻ mặt nghiêm nghị, ngồi giữa, còn chia ra hai bên hội viên hương chính, tộc biểu ba chục người đầy đủ, sau một bàn dài, đặt trên bục cao. Dân chúng, có kẻ mặt đỏ bừng bừng, tức giận, muốn trừng phạt thật nặng những kẻ làm càn. Nhất là tiên chỉ Tôn Vĩnh Bạt là người sẵn sàng lên án, không cần phải nghe nhân chứng. Không khí tôn nghiêm bao trùm. Dân làng vừa dự một buổi tế lễ long trọng, ở Đình, trước khi sang công quán. Họ khấn vái, hứa với thần hoàng làng sẽ trừng phạt xứng đáng những kẻ có tội. Lại thêm bố trí quân sự, canh phòng cẩn mật. Nguyên Thái đưa mắt quan sát: Ni cô Lương trinh ngồi giữa bốn cảnh vệ, bên cạnh có nôi mây của đứa nhỏ mới sinh. Đằng sau Nguyên Thái, sáu cảnh vệ sẵn sàng can thiệp. Đặc biệt, bọn này có ba khẩu súng, kiểu tối tân như súng Mãn Thanh.
Nghĩ thầm, trong tình trạng này, biết rằng có thể tự cứu mình, nhưng không đủ sức che chở cho ni cô Lương Trinh và đứa con. Nghe đồn, nếu không tìm ra gian phu thì tội ni cô phải chịu. Hình phạt dã man, nhưng làm sao được? Đó là luật làng Vị An. Án sẽ thi hành ngay sau khi tuyên án. Ni cô sẽ bị xử giảo, còn đứa nhỏ sẽ để ở trong nôi, rồi thả theo dòng sông. Dân làng không được ai đón nhận.
Nhiều tộc biểu đỏ bừng hơi men, vì tuần rượu trong phiên tế lễ vừa rồi. Tình thế khẩn trương. Về phần Nguyên Thái, đủ bằng chứng tỏ mình vô tội. Hai bức thư nhận được hai ngày vừa qua, còn nguyên trong túi sẽ chứng tỏ thanh danh của chàng. Nay chàng chỉ còn tính mưu kế cứu mẹ con ni cô.
Định rằng khi cần, sẽ phi thân đến Tôn Vĩnh Bạt, kề gươm vào cổ, bắt bọn cảnh vệ thả ni cô và đứa con. Nếu không sẽ giết tiên chỉ. Đó chỉ là doạ nạt mà thôi. Thành công không chắc một phần nhỏ nào! Tinh thần nghĩa hiệp ở nơi đây, là võ lực hay mưu kế? Chưa biết? Chờ thời cơ. Sáng nay, từ Chiêm Tinh Tự xuống Vị An, có nhiều thì giờ suy nghĩ, và nhớ đến trường hợp gặp ni cô Lương Trinh mấy tháng trước đây.
Chiều ấy, trên đường từ Vị An lên chùa, Nguyên Thái chậm rải. Nắng vàng như ngừng lại để chiều lòng người mến cảnh. Khi đi khỏi chùa Vạn Đức, tới khúc đường dốc, chợt thấy lưng chừng một ni cô cố sức gánh đôi thùng gỗ đầy nước, chắc là vừa múc ở giếng Thùy Dương. Đôi thùng nước quá nặng, ni cô bỗng nhiên ngã xuống đất, cố bám vào một cành cây bên đường, thành ra không lăn xuống cuối dốc như hai thùng nước. Nguyên Thái vội chạy nhanh tới thì vừa lúc ni cô bỏ cành cây lăn xuống bất tỉnh. Nguyên Thái vừa kịp đón đỡ, để ni cô nằm xuống vệ đường. Chẩn mạch, lúc mạnh lúc yếu bất thường. Thần sắc xanh tái. Nguyên Thái nhìn quanh không thấy ai qua lại, đành chạy xuống giếng, dấp khăn ướt, đắp vào trán ni cô. Hơi lạnh của nước làm ni cô hồi tỉnh.
Nhìn thấy chàng trai, ni cô cố ngồi dậy chắp tay:
- Nam mô A di đà Phật, xin cám ơn chư vị thập phương. -
Nguyên Thái:
- Chỉ có mình tôi vừa đến khi sư cô ngã lăn bất tỉnh. -
Ni cô như không nghe thấy câu trả lời, vẫn tiếp tục: « chư vị thập phượng ». !-
Chợt ni cô hốt hoảng kiểm tra túi vải đeo bên. Lấy ra hai cuốn sách, một cuốn kinh, và một tập vở cùng bút nghiên. Ni cô nói:
- May quá không bị ướt, xin cám ơn quý vị thập phương! -
Nguyên Thái tỏ vẻ ngạc nhiên thì sư cô tiếp:
- Tôi nghiên cứu kinh sách, muốn dịch ra tiếng ta, để mọi người hiểu thấu mỗi khi tụng niệm, dùng mãi chữ Phạn, thì một số người hiểu được mà thôi -
Ni cô định giải thích thêm nhưng Nguyên Thaí khuyên ni cô ngồi yên tại chỗ, chờ hồi sức rồi bái biệt..
Ni cô đứng dậy chắp tay chào, rồi cứ xuống dốc, nhặt dôi thùng, múc đầy nước, cho vào quang gánh lại bắt đầu lên dốc, mệt nhọc từng bực đá.
Khoảng chừng mươi bước, ni cô mệt quá lại dựa vào gốc cây. Thấy thế, Nguyên Thái vội ngược lên dốc. Tới nơi ni cô, Nguyên Thái, nâng gánh nước. Ni cô vội vàng:
- Xin cám ơn « chư vị thập phương », bần ni khổ ải đã quen. -
Nguyên Thái làm như không nghe tiếng, nhắc gánh nước bước nhanh đặt lên trên đầu dốc, lại như vụng dạị, để mất mỗi thùng một ít nước. Cố tình để ni cô gành nhẹ về chùa. Khi trở lại ngang ni cô. Ni cô chắp tay cúi đầu, ngước đôi mắt lệ trào.
Nguyên Thái rảo bước lên Chiêm Tinh Tự, vào phòng trai, lấy bút nghiên, họa « ni cô gánh nước dốc cao » với một mối sầu man mác trong trí óc. Bỗng giật mình, tại sao lại vẽ ni cô vào hàng các mỹ nhân gặp trên đường đi. Ni cô tuy xinh đẹp, cũng xinh đẹp. Nhưng đã « ở ngoài đời » rồi…Định xoá đi nhưng lại thôi, giữ bức họa, và Nguyên Thái đề thêm bốn câu thơ:
Đoá sen nặng nợ đường trần Nước non một gánh chia phần với ai Sớm hôm quỳ dưới Phật đài Dốc cao khổ hạnh, luân hồi gánh mang. Đó là lúc gặp ni cô lần đầu.
Hôm nay, nghĩ lại mới hiểu ni cô lúc đó có mang, mà đến lượt mình quẩy nước, vẫn đi làm nhiệm vụ. Còn mấy lần sau, cũng chỉ tình cờ, không cố ý.
Một hôm, khi tới Hồng Thạch Trụ, nơi có bàn đá, lưng chừng đèo, thấy ni cô ngồi viết. Còn hai ni cô khác ngồi ghế đá nhìn xuống Vị An. Chàng lại gần, chắp tay:
- Thưa ni cô, ni cô đã hồi phục? -
Ni cô:
- Cám ơn chư vị thập phương, bần ni ơn trời phật, được bình thường, con tráng sĩ ra sao? -
Nguyên Thái nhận thấy lần đầu tiên không dùng danh từ thập phương, lại gọi mình là tráng sĩ. Chàng nói:
- Cám ơn ni cô. Lại xin hỏi ni cô, dịch kinh Phạn ra tiếng ta, nhưng dùng chữ nôm…hay…-
Ni cô:
- Hiểu ý tráng sĩ, hiện thời tôi dùng Nôm. Biết rằng Nôm khó gấp đôi, vì muốn đọc được Nôm phải biết qua Hán. Lớp Quốc ngữ mới bắt đầu ở Vị An…tôi muốn xuống học, nhưng không có quyền. Nghe đâu hội đồng tộc biểu Vị An không bằng lòng Quốc ngữ mới lắm, vì nể xã trưởng nên tráng sĩ được mở lớp thí nghiệm, tôi quan tâm đến phân biệt Đông Tây. Chữ Phạn từ tây Tạng và Ấn Độ tới…vậy Quốc ngữ mới từ Thái Tây đến có sao? Vả lại đạo Gia Tô dùng Quốc ngữ mới, nên những người theo đạo Gia Tô chóng biết đọc biết viết…-
Nguyên Thái không ngờ ni cô Lương Trinh cởi mở, một thôi không ngừng, như thuyết khách. Chàng rất sung sướng có đồng minh. Cho nên mấy lần gặp nhau ở Hồng Thạch Trụ, chàng cùng ni cô Lương Trinh và mấy ni cô khác nghiên cứu Quốc ngữ mới. Có thế thôi. Không có lần nào gặp riêng ni cô Lương Trinh. Vả lại cuộc thảo luận Quốc ngữ cùng mấy ni cô chỉ là việc « nhĩ mục quan chiêm », người qua lại Hồng Thạch Trụ rất đông.