Cũng dùng những điển tích khá nhiều, nhưng không có tính cách đặc biệt như ánh văn Thành Hồ, Tuyết Tâm, nên chúng tôi không chép vào đây.
Thấy chàng xấu hổ vì bài họa, Thục Lai gửi cho chàng hai câu thơ mách nước:
Sông Tương bến đẹp con thuyền đậu Gió thơ xuôi ngược đến Trần Châu
Lương Thục Lai tái bút
Chàng đỏ mặt vì quá hồ đồ không biết là nàng đã gửi cho chàng bài thơ thuận nghịch Chàng đọc lại: (đọc ngược bài thơ trên)
Mai nay chúc khách hội long vân Đạo Thục nan quên chẳng lữa lần Hai một hãy danh khoa tỏ bảng Xếp thu quyền mẫu phụ theo tuân Mai bên Trúc ấy duyên đâu chắc Bút mực duyên trao chẳng ngại ngần Ai nhớ sân Trình, Lai cách bức Đài trang một khóa kín mây Tần
Nàng chúc chàng mau thi đỗ, nhưng cũng nhắc chàng, tuy khó khăn nàng cũng giữ gìn « Thục Đạo » cho chàng, lại còn « mách nước » ( phải được lòng nhạc mẫu thì mọi việc xong xuôi (xếp thu quyền mẫu, phụ theo tuân!)Mai trúc, phận vợ chồng là duyên số, đâu hiện chắc, nhưng duyên văn tự cứ việc trai chàng, chẳng ngại ngần! Thực là trái ngược khi thuận độc…Đã đành sân Trình có nhiều khóa sinh khác, nhưng ở Thục Lai, Mây Tần, mỹ nhân vẫn đóng kín ở Đài trang, đừng có lo…
Mấy ngày ở lại làng Thượng, không có chuyện gì quan trọng. Nguyên Thái có dịp đàm đạo với Lương Sĩ Quý, được biết tiên sinh sắp đi nhận chức vụ Đại sư hiệu trưởng Trấn Bắc, tiên sinh muốn chàng mau về trường. Một ý nghĩ hơi đên tối thoáng qua trí óc. Thục Lai và Đức Trình liên lạc thơ văn đã mấy năm, nhưng nàng vẫn khất lần ngày thành hôn. Nếu nàng theo cha mẹ đi Trấn Bắc, thì chàng lại có hy vọng nộp đơn. Ý nghĩ chỉ thoáng qua, khi trở về gặp Đức Trình, chàng lại thương bạn, chàng cáo từ, sửa soạn khăn gối lên đường, cảm tưởng vô lý nhưng làm một hy sinh to tát!
Đang sửa soạn thì có một tiểu đồng mang đến danh thiếp của Thiên Hoa Nương, xóm Đông, mời hai người dự dạ hội Quỳnh Hoa đêm mai. Đức Trình nhất định giữ bạn, vả lại Nguyên Thái cũng biết Thiên Hoa Nương xóm Đông là một thiếu phụ đặc biệt. Đã ngoài ba mươi, chưa hề lập gia đình. Tài riêng là trồng hoa, ghép hoa, gây ra nhiều thứ hoa lạ. Chuyên gia trồng lan, các thứ lan và mấy thứ hoa quí hiếm.
Thường thường hoa quỳnh chỉ nở đêm hè, mà nay mùa lạnh, nàng mời dự Quỳnh Hoa Dạ Hội? Đức Trình bảo Nguyên Thái:
- Đối với Thiên Hoa Nương thì hoa nở không mùa! -
Tên « Thiên Hoa Nương » là người đời gán cho. Nàng họ Đào, tên Thị Hạnh, một thân thế cũng đặc biệt. Cách đây gần hai chục năm, nàng ở phủ Kinh Môn, nơi nguyên quán. Hoa khôi của phủ, nàng bị tuyển đem đi cung Phủ Trịnh. Cần nhắc lại, việc tuyển chọn cung phi cho phủ Trịnh và cung Lê là một hoạt động quan trọng của bọn quan liêu. Chúa hay vua cũng thế, không đích thân lựa chọn cung phi. Có khi trong cung hàng mấy trăm cung phi chờ đợi xe dê dẫn ngài ngự đến phòng. Nhưng ngài ngự không lúc nào cũng có sức lực như con gà trống trong sân nuôi gà vịt. Thế là có cung phi đến già cũng không thấy « mặt rồng ». Ảnh hưởng chính trị không nhỏ. Vị quan nào tuyển được một cung phi mà vua hay chúa say mê, sẽ khuếch trương quyền thế,« sai bảo » vua hay chúa qua cung phi ấy… Trong lịch sử nước ta, và nước Trung Hoa, những chuyện đổ vỡ chính trị, vì các cung phi và bọn nội giám lộng quyền, không đếm nổi. Nếu chúa Trịnh Sâm khó khăn về tranh chấp về Dương Hậu và Đặng Phi…thì con cháu Chu Nguyên Chương, thủy tổ nhà Minh, cũng bị bọn nội giám chuyên quyền. Tác phẩm Cung Oán ngâm khúc nói lên cái thất vọng vô biên của cung phi bị « bỏ quên »…
Xin lỗi độc giả, nói chuyện trên để giải thích chuyện nàng Thị Hạnh trong vài dòng sau đây:
Khi được quan phủ Kinh Môn bào nàng « được » tuyển vào phủ chúa, nàng vô cùng thất vọng. Mấy lần định bỏ đi, nhưng e liên lụy đến song đường, nàng đành thúc thủ. Người bạn lòng, Đỗ Đình Sơn, đau buồn sinh bệnh. Thị Hạnh có trình với quan phủ là đã đính hôn với Đình Sơn, nhưng quan phủ nói như vậy là trái phép, bởi vì, dù cha nàng không phải là đương quan, nhưng chức phủ hàm cũng coi tương tự. Như vậy, nàng Đỗ Thị Hạnh, không có quyền đính hôn với ai trước 17 hay 18 tuổi! Khi nào đến tuổi, không phải tuyển vào cung chúa hay cung vua, mới được tư do kết hôn. « Phép nước » là thế. Đôi trẻ Hạnh, Sơn, vô kế khả thi, nhiều lần muốn liều lĩnh cùng nhau tự do « chung đôi », nhưng không dám, vì con gái được tuyển vào cung mà mất trinh thì bố mẹ mất đầu…Tri phủ đe doạ bắt Sơn đi lính thú thành ra Hạnh khuyên Sơn nhẫn nại đợi chờ.
Ngày lành tháng tốt đã đến. Hoa khôi Kinh Môn, Đỗ Nương, lên kiệu hoa về Kẻ Chợ. Từ Kinh Môn đến Kẻ Chợ không phải một ngày đến nơi, mà ít nhất ba bốn ngày, dù kiệu hoa có quân binh hộ vệ hỏa tốc.
Trong kiệu hoa, không phải một mình người đẹp Kinh Môn, còn hai người nữa ở hai huyện lân cận.
Khỏi địa hạt Kinh Môn, khi tới Đông Triều (nơi xảy ra vụ án Lệ Chi Viên, mà toàn gia Nguyễn Trãi bị phe chính trị đối lập sát hại), kiệu hoa bị cướp chặn đánh.
Bọn cướp khoảng mười lăm người, dáng dấp trẻ trung, đều bịt mặt nạ đen, võ phục màu đen. Tướng cướp oai phong trên mình ngựa, hét bảo bọn quan quân hàng phục, bọn này chỉ muốn cướp kiệu hoa. Bọn quan quân không thể hàng phục, họ cho là thừa lực chống cự. Cho nên cuộc chiến đấu kéo dài gần hai giờ. Bọn cướp dũng mãnh, anh hùng. Bọn quân chính quyền tử thương hơn mười người, còn bọn cướp năm người…Sau cùng, quân chính quyền bỏ chạy. Kiệu hoa bỏ lại bên đường. Tướng cướp lại bên kiệu vén mành và gọi lớn:
- Đỗ huynh ! Đỗ huynh ! -
Không có tiếng trả lời. Tướng cướp kiểm điểm mấy bạn tử thương. Thì ra Đỗ Đình Sơn được bạn giúp cướp kiệu hoa đã qua đời trong trận này. Vừa lúc nàng Đào Thị Hạnh bước ra khỏi kiệu hoa, nhận ra người tình vì mình bỏ thân, nàng ôm thi thể khóc thảm thiết, rồi trong lúc bất ngờ, dùng ngay kiếm của Sơn tự vẫn. Tướng cướp không kịp can ngăn, đành cùng đồng bọn mang những người tử nạn về sào huyệt chôn cất.
Về đến nơi, bà mẹ của thủ lĩnh sơn lâm thấy Đỗ Thị Hạnh còn thoi thóp tuy mất nhiều huyết. Bà cũng là bực lương y, chữa cho nàng…ba bốn tháng sau bình phục. Mũi kiếm tự tử không phạm vào cơ quan chính trong thân thể. Đỗ nương ở lại sơn trại, phụ trách cái vườn hoa có một không hai của bà mẹ thủ lĩnh. Bà đã truyền cho nàng bí quyết trồng hoa, ghép giống. Đỗ nương giữ trinh tiết với Đình Sơn, nên khước từ hết những kẻ rắp ranh bắn sẻ sau này.
Nghe ngóng mấy năm, không thấy gia đình bị truy tố, (sự thực tri phủ Kinh Môn sợ tội lây, nên đã ỉm nội vụ, không hề làm tờ trình lên cấp trên) – Nàng về làng Thượng sinh sống về nghề trồng hoa. Những cây cảnh 0 của Thiên Hoa nương nổi tiếng ở Kinh Kỳ.
Đêm dạ hội Quỳnh Hoa, khách từ Kẻ Chợ sang khá đông. Ai ai cũng muốn dự chuyện lạ: Quỳnh nương khai hoa mùa lạnh !
Sảnh đường sáng trưng. Hơn trăm ngọn bạch lạp thi nhau tỏa sáng. Không có phân ngôi chủ khách, vì ba chân tường đều có ghế đôn sứ. Còn bức tường thứ tư có một cửa sổ rộng lớn, gần chiếm cả bức tường. Có một màn che màu lá úa, như màn che sân khấu. Vào sảnh đường, một bầu không khí ấm nóng như mùa hè. Dân làng Thượng, những kẻ « sành điệu » đều có mặt, lẽ dĩ nhiên cả Lương tiên sinh.
Tiên sinh chưa hề từ chối một thiếp mời của Đỗ Nương.
Quan khách, đây năm, kia ba, nói chuyện ồn ào…nhất là sau một hai chầu Ngọc Hà Hoa Tửu, và những bánh ngọt đặc biệt, từ Kẻ Chợ mang sang.
Khoảng nửa đêm, Thiên Hoa Nương tuyên bố cho Quỳnh Nương ra mắt. Cử tọa, chen vai thích cánh trong sảnh đường. Thiên Hoa Nương hối gia nhân mở màn…Hai cánh màn lá úa từ từ chạy sang hai bên:
Một gốc Quỳnh, gốc độc nhất, hoa bắt đầu nở…mọi người nín thở. Cánh hoa như có sức mạnh vô hình, từ từ mở ra…nhị vàng và màu tím sẫm, tương phản với màu trắng bạch ngọc…đóa hoa độc nhất nở trước một tường lá xanh thẫm. Bên trái, phía trên, một đèn tròn như mặt trăng ; phía dưới, rất kín đáo sau tường, mấy chục ngọn bạch lạp chiếu sáng bức tường lá…
Cái bí quyết của Thiên Hoa Nương là đánh lừa nàng Quỳnh bằng hơi nóng của các ngọn bạch lạp, nàng Quỳnh tưởng mình trong mùa hạ, đã khai hoa trước công chúng đang tấm tắc ngợi khen. Cách đánh lừa ấy, Thiên Hoa Nương đã thi hành tư hai ba tháng trước, bằng cách để gốc hoa trong một khoảng kín sáng, luôn luôn có một lò than hồng nhỏ phát khí nóng…(Ngày nay chúng ta nuôi hoa trong nhà kính có máy điều hòa lạnh nóng…và phát hơi nước – culture en serre).
Thiên Hoa Nương không giữ bí mật. Sau vài câu giải thích, nàng để mọi người vào cõi mộng mơ.
Một con bướm vàng cũng bị đánh lừa vì ánh sáng bạch lạp, bay ra đậu vào cánh hoa. Thục Lai cảm hứng, ra giá vẽ Quỳnh Hoa và Hoàng Điệp. Dân làng Thượng muốn tranh thủ thời gian với khách Kẻ Chợ, họ hô hào đòi Đức Trình đề thơ…Đức Trình ngập ngừng…họ gọi Nguyên Thái. Họ vẫn coi Nguyên Thái là người của làng Thượng. Vừa lúc chấm phá của Thục Lai vừa đến đoạn chót…
Nguyên Thái liền đến bên cạnh Thục Lai, ngắm nhìn bức họa, quay lại vòng tay cúi chào cử tọa, xin phép đề thơ. Khách Kẻ Chợ chưa ai kịp ra.
Nguyên Thái cầm bút viết bài thơ ngũ ngôn bên bức vẽ:
Quỳnh Hoa dạ hội tứ
(Ngũ ngôn cổ phong) Đơn, đơn, minh đơn hoa Diệp, diệp, bích diệp diệp Lệ hoa sơ hàm tiếu, Song sa đông nguyệt chiêm. Quỳnh nương vạn lý đáo Tương kỳ, thiên hữu lai… Đồng ca tỳ bà hành, Đơn tấu tha hương hận… Dạ hoa, nhất dạ kiến Hoàng điệp bách niên hoài…
Trần Nguyên Thái cảm đề
Thục Lai đọc bài thơ chữ Hán, nhớ lại xưa kia vẫn chơi đùa với Nguyên Thái, người viết, kẻ dịch. Nàng vội vàng, dịch ý bên bài thơ, bằng Quốc ngữ mới:
Đêm hội Quỳnh hoa
Riêng, riêng, một đóa quang hoa Giữa tường lá biếc, dệt tòa thắm xanh Nụ cười vừa chớm trên cành, Trăng đông đã trộm vén mành bên song Nàng Quỳnh, vạn dậm, đường lòng Hẹn hò, ngàn bạn tới cùng gặp hoa… Đồng hòa hận khúc Tỳ Bà, Nhớ quê hương ấy đơn ca tiếng Nàng. Hoa đêm, phút gặp bàng hoàng Trăm năm bướm nặng cánh vàng nhớ thương !
Lương Thục Lai dịch ý
Cử toạ vỗ tay nhiệt liệt tán thưởng. Đào Đức Trình không được vui lòng lắm. Chàng cũng có thể đề thơ, chắc hẳn không duyên dáng bằng người bạn trẻ, nhưng đề thơ trên bức họa của Thục Lai, đáng lẽ phải để chàng ưu tiên ! Nguyên Thái thoáng nhìn khoé mắt của bạn, giật mình hối hận…Nhưng đã trót.
Về nhà, sang văn phòng Đức Trình. Đức Trình không lạnh lùng nhưng im lìm không nói gì, trí óc như bận bịu chuyện khác. Sau cùng Nguyên Thái xin lỗi, lấy cớ vì vội vàng, không muốn người Kẻ Chợ đề thơ trước dân sở tại. Có thế thôi. Nguyên Thái không có tình ý khác. Đức Trình hiền lành, tin tưởng. Đôi bạn tri kỷ như xưa. Lại thêm, sáng sau Nguyên Thái sẽ cáo từ lên đường…
Thực may, không phải giải thích khóe mắt kín đáo đầy tình tứ Thục Lai gửi chàng đúng khi chấm dứt bài dịch ! Thực may vì Đức Trình chỉ để ý đến câu thơ:
« Song sa đông nguyệt chiêm ! » mà Thục Lai đã dịch: Đức Trình chữa bạn:
« Song sa hạ nguyệt chiệm ! »
Trăng hè đã trộm vén mành bên song !
bởi vì, bởi vì, trăng mùa đông ít khi ló mặt. Quỳnh Hoa theo lẽ tự nhiên của tạo hóa, nở mùa hè…Vậy dù mùa lạnh cũng cứ dùng « trăng hè »…bởi vì thi sĩ có những mùa tự do trong trí óc… !Nguyên Thái rất sung sướng thấy bạn không lo phiền, chỉ chú trọng thơ văn, chàng hát, trong khi Đức Trình đệm đàn kìm:
« Nụ cười vừa chớm trên cành, Trăng hè đã trộm vén mành bên song ! »
Sáng sau, Nguyên Thái cáo từ. Đức Trình bịn rịn. Thái nắm tay bạn, nhắc lại câu thơ bạn gửi Thục Lai:
… « Muốn đốt Tần san, đường vào Thục, Cùng ai giồng Trúc, ghép bên Mai !… » rồi chàng thêm:
- Anh Đức Trình, Tần San đã đốt rồi. Nguyên Thái này không về Thục nữa ! Tạm biệt, tạm biệt hiền huynh. -
Đức Trình cảm động, cầm tay không nỡ rời. Sau cùng Nguyên Thái vòng tay chào tạm biệt, đi nhanh lên bờ đê, nhìn làng Thượng từ trên cao tơ lòng bối rối. Ngoảnh sang phía sông Hồng oán trách: đã bao phen nước sông Hồng tràn qua khúc đê mong manh, rồi làm vỡ tan, theo dòng nước biết bao công trình con người ngày đêm xây đắp. Nhớ lại trước khi đến Thiện Thành, chàng có đóng cọc, để đo con sông bên lở bên bồi…Khi nào thái bình an lạc, khi nào thái bình an lạc nhỉ, chàng sẽ cùng Bùi Đình Quý và Phạm Nguyệt Hà (trong trận Thạch Đào) chuyên môn thủy lợi, nghiên cứu một hệ thống đê điều vững chắc, cùng đập cừ giữ nước, cho dân chúng tránh thủy tai…Buồn vời vợi, nhắc lại biết bao giờ thái bình an lạc nhỉ?
Xua đuổi những ý nghĩ yếm thế, người bộ hành là Nguyên Thái, đôi chân không bao giờ mỏi mệt, thẳng đường Kinh Bắc. Để tay vào thắt lưng chạm phải cái cẩm nang nhỏ của Cúc Xuyên cho mà chàng đeo luôn bên mình. Nguyên Thái lẩm bẩm: Thì ra mình cũng có cái bí mật phải đeo bên người ! Chàng liên tưởng đến chiếc vòng mà Đức Trình luôn đeo ở cổ. Đó là chiếc dây đeo một chiếc vòng bạc nhỏ hơn, chiếc vòng nhỏ nanh hổ này là con của trẻ sơ sinh thường đeo ở đồng bằng, và ở mạn ngược, thuộc gia đình khá giả quyền quý. Chiếc vòng nanh hổ này, Đức Trình đeo từ lâu…từ hồi mười lăm mười sáu tuổi khi song đường lâm nguy bị vu cáo là đồng đảng, hay dư đảng của giặc Nguyễn Hữu Cầu.