Ngày Mậu-Thìn, 10 tháng mười một năm Ất-Mão -1087, niên hiệu Thái-Ninh thứ tư đời vua Lý Nhân-tông của Đại-Việt, bên Trung-nguyên là niên hiệu Hy-Ninh thứ tám đời vua Thần-tông nhà Tống. Không gian đế đô Thăng-long, trấn Thanh-hóa, trấn Thiên-trường, trấn Đồn-sơn muốn nổ tung lên vì những cuộc chuyển quân vĩ đại. Dân chúng, gia đình tướng sĩ chen chúc nhau ở bến thủy-quân để tiễn thân nhân lên đường vào giúp Chiêm-quốc chống với Chân-lạp. Tại Thanh-hóa, hạm đội Âu-Cơ cập bến. Cờ xí phất phới, những cánh buồm lớn mầu nâu kéo lên, nổi bật trên nền trời xanh lơ. Trên bờ hai hiệu Thiên-tử binh Hùng-lược, Vạn-tiệp dàn ra; cờ xí bay rợp trời, gươm đao sáng ngời, trống thúc vang dội. Trong cái khí thế nghiêng trời lệch đất đó, Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân ruổi ngựa duyệt qua hàng binh. Đi cạnh vương là hai đô-thống Ngô Ức, Tạ Duy với hai phu nhân Phương-Dược, Phương-Quế. Phía sau các hàng quân là vợ con, gia đình bình tướng đi tiễn đưa. Binh tướng cũng như gia đình đều được thông báo rằng quân trẩy đi lần này để tham chiến tại Pandurango giúp Chiêm-thành chống Chân-lạp. Sau khi duyệt binh rồi, Trung-Thành vương trao cho đô-đốc Trần Phúc, đô-thống Ngô Ức, Tạ Duy một bức thư niêm phong kín và dặn nhỏ: - Đây là mật chỉ của hoàng-thượng. Khi hạm đội ra khơi, thì cả ba vị cùng hội nhau lại, mở phong thư này và thi hành. Một chiếc chiếc pháo lệnh bắn vọt lên trên trời. Chiếc pháo nổ tung ra bốn phía. Đoàn hùng sư hướng các cầu tầu, lên chiến hạm. Thoáng một cái, hơn hai vạn người ngưa đã rời khỏi bờ. Sau ba hồi trống, hạm đội nhổ neo hướng ra khơi, phút chốc đã biến mất vào chân trời mờ mịt. Đô-đốc Trần Phúc thấy hạm đội đã rời bờ khá xa, trông vào đất liền chỉ còn thấy một mầu xanh lơ của nước biển, dưới chân mây; những con hải-âu đang đo cánh trên nền trời... ông mới nói với Ngô Ức, Tạ Duy: - Xin mời hai đô-thống, hai phu nhân vào khoang cùng mở mật chỉ để thi hành. Năm người vào trong khoang lớn, Trần Phúc mở bao thưa ra. Nhìn tờ giấy in hình chim ưng, mỗi chân cặp một thanh kiếm, thì cả năm đều biết là lệnh của Khu-mật viện. Trong lệnh vỏn vẹn có mấy giòng: « Lệnh nói rằng tham chiến ở Pandurango là hư kế để lừa địch. Hãy quay thuyền lên phía Bắc, rồi giảng giải cho quân sĩ biết rõ những âm mưu xâm chiếm Đại-Việt của Tống; vì vậy ta phải đánh Tống trước để tự vệ. Khi tới ngoài khơi Thiên-trường, sẽ gặp hạm đội Bạch-đằng chở hai hiệu Bổng-thánh, Bảo-thắng. Khi tới cửa sông Hồng, sẽ gặp hạm đội Động-đình chở hiệu Thần-điện. Ba hạm đội đi theo hàng một. Hạm đội Âu-Cơ đi đầu, thứ đến Bạch-đằng. Hạm đội Động-đình đi thứ ba. Tới Đồn-sơn, sẽ gặp hạm đội Thần-phù chở hai hiệu Vũ-thắng, Long-dực đi thứ tư. Bấy giờ sẽ có lệnh chi tiết sau ». Năm người chia nhau đến từng chiến hạm giảng giải cho binh sĩ. Nghe các chúa tướng kể chi tiết về vụ Tống chuẩn bị đánh Đại-Việt, nên mình phải ra tay trước, binh sĩ hoan hô nhiệt liệt. Phu-nhân của đô-thống Tạ Duy là Phương-Quế, đứng trên đỉnh một chiến thuyền khích lệ tướng sĩ: - Chư quân đã nghe, đã hiểu mục đích việc ra quân của chúng ta rồi phải không? - Nghe, hiểu. - Chư quân từng học, từng nghe, từng quỳ gối lễ đền miếu thờ các anh hùng đời trước chết cho Đại-Việt. Con người ta, ai sinh ra cũng phải chết, không chết trước thì chết sau. Nếu như được chết cho Đại-Việt, sẽ thành thần, đời đời trăm họ tôn thờ mới là cái chết xứng đáng. Có phải vậy không? - Đu...úng! - Vậy đây là dịp duy nhất để chư quân được chết cho Đại-Việt, được thành thần. - Nghe! Thuyền tiếp tục đi về hướng Bắc. Sau một ngày thì gặp hạm đội Bạch-đằng. Sang ngày thứ ba lại gặp hạm đội Động-đình. Đến ngày thứ tư, thì chu-sư tới Đồn-sơn. Đây là căn cứ thủy quân chính của Đại-Việt. Bốn hạm đội dàn ra thành một hành dài. Chim ưng mang lệnh của đại đô đốc Lý Kế-Nguyên tới, mời các đô-đốc chỉ huy hạm đội, bẩy đô-thống cùng phu nhân chỉ huy bẩy hiệu Thiên-tử binh đến soái hạm họp. Chư tướng có mặt đầy đủ. Trên bàn chủ-toạ, nguyên-soái Thường-Kiệt ngồi chính giữa. Bên phải là đại đô đốc Lý Kế-Nguyên, bên trái là Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn. Tín-nghĩa vương mỉm cười: - Chắc chư tướng ngạc nhiên vì sự hiện diện của cô-gia ở đây phải không? Bởi trước đây trong cuộc nghị kế Bắc phạt, Linh-nhân hoàng thái hậu ban chỉ cho cô gia giữ nhiệm vụ tổng trấn từ Hải-vân tới Thanh-hóa, mà sao nay cô gia lại hiện diện phải không? Thưa đó là hư kế để lừa giặc mà thôi. Nguyên-soái Thường-Kiệt để kiếm lệnh lên bàn: - Trước hết bản soái loan báo cho các vị biết tình hình mặt trận trên bộ. Đầu tiên là trận Cổ-vạn. Bề ngoài là Tô-mậu hầu Vi Thủ-An chỉ huy, nhưng trên thực tế là Côi-sơn công chúa với Tôn phò mã. Như kế đã định trước: Ngày 15 tháng 9 lợi dụng địch mang quân sang đánh ta. Ta chia quân làm hai. Một mặt đi đường tắt đánh úp Cổ-vạn; một mặt chặn đánh địch ở đèo Vong-thiên. Toàn bộ năm nghìn quân Quảng, bốn nghìn Bảo-binh vừa bị bắt, vừa đầu hàng, vừa bị giết. Tả-lãnh vệ đại tướng quân Chu Am bị bắt. Bát tác sứ Toàn Hưng, thủ-lĩnh trại Cổ-vạn Nùng Hiệp-Thành bị giết. Sau khi lên tận nơi kiểm kê chiến lợi phẩm, thái-hậu phải rùng mình, vì số lương thảo tích trữ tại đây có thể nuôi mười vạn quân trong một năm, số vũ khí có thể trang bị cho năm vạn quân. Đó là một bằng chắng Tống định dùng lương thảo đó nuôi quân đánh ta, và d;ung vũ khí đó, bắt dân ta nhập ngũ để đánh Liêu. Chư tướng vỗ tay. - Ngày 1 tháng 10, Lưu Di mới được tin Cổ-vạn mất. Y tâu về triều rằng đó là những đụng chạm giữa các khê động. Có lẽ giờ này Tống triều cũng chưa biết rõ cuộc hành quân vĩ đại của ta với chủ đích gì? Chư tướng lại vỗ tay. - Ngày 2 tháng 10, cánh quân Quảng-nguyên, Lạng-châu, Tô-mậu đồng loạt tấn công vào các ải Thái-bình, Hoành-sơn, Vình-bình, Tây-bình, Lộc-châu. Trong ba cánh, thì cánh Quảng-nguyên đánh vào Tây-bình, Lộc-châu. Cánh này do phò-mã Thân Cảnh-Phúc với hai đô-thống Lý Đoan, Trần Ninh chỉ huy, ba vị phải đối đầu với quân số đông đảo của Tống gồm hai vạn Bảo-giáp, năm nghìn quân Quảng, ba nghìn kị binh. Nhờ ta tập kích bất ngờ, nên chiếm hai châu này dễ dàng. Bọn Nùng Toàn-An, Nùng Tông-Đán chạy thoát. Sau khi kiểm kê lương thảo, Thân phò mã ước tính rằng số lương tiền của Tống chứa tại đây có thể nuôi năm vạn quân trong một năm. Số vũ khí có thể trang bị cho bẩy vạn quân. Đó là hai bằng chứng về âm mưu của Tống. Trong lúc Tây-bình thất thủ, Trấn-viễn đại-tướng quân Lưu Khả của Tống đang dẫn quân Quảng, quân kị đi thao diễn cách đó hơn năm chục dậm. Bọn Nùng thoát thân, khẩn khoản xin Lưu đem quân về chiếm lại Tây-bình. Nhưng Khả là đại tướng trí dũng tuyệt vời. Y biết rằng đem quân chiếm lại Tây-bình rất khó, sao bằng đem quân đi đường tắt vượt biên đánh vào Lạng-châu, như vậy ta phải rút quân về để tự cứu. Đến đó ông ngừng lại uống nước, làm chư tướng nóng ruột muốn lên tiếng hỏi: Rồi ra sao? Nhưng quân chế thời Lý rất nghiêm, nên mọi người cố nín nhịn ngồi chờ. Ông hỏi chư tướng: - Các vị thử đoán xem, tình hình sẽ như thế nào? Đô-đốc chỉ-huy hạm đội Thần-phù là Trần Hải đáp: - Từ mấy chục năm nay, ở Bắc-biên dù thời chiến hay thời loạn, lúc nào trên thời cũng có Thần-ưng, dưới đất có Thần-ngao canh phòng; còn quân sĩ, thì cứ ba đội, một đội ứng trực. Chỉ cần ba hồi tù và là có thể lâm chiến. Vì vậy chắc Lưu Khả thất bại. Phu-nhân đô-thống Trần Di là Phương-Lý lắc đầu: - Thưa đô-đốc không hẳn như thế. Bởi trong đêm, hai bên cùng có cuộc chuyển quân lớn, Thần-ưng, Thần-ngao khó có thể phân biệt. Mà dù có phân biệt, báo động kịp thời, thì ta cũng không thể ứng chiến được ngay, vì kị kinh phi như bay! Có thể như thế này: Quân Tống tràn vào đánh mấy trang ấp sát biên. Mồi trang ấp đều có lũy tre kiên cố bảo vệ, cổng có hoàng-nam, Thần-ngao canh phòng. Vì vậy Tống phải khó khăn lắm mới chiếm được vài trang ấp. Bấy giờ lực lượng Bắc-biên mới tiếp cứu. Thường-Kiệt hài lòng: - Quả đúng như Phương-Lý ước tính. Câu hỏi khác được đặt ra: Nếu các vị là vua bà Thiên-Thành, hay phò-mã Thân, các vị phản ứng ra sao? Đô-đốc Trần Phúc chỉ huy hạm đội Âu-Cơ, đô-đốc Trần Lâm chỉ huy hạm đội Động-đình cùng đáp: - Thưa sư huynh, đệ tạm ngừng tiến quân, cho quân của Thân phò mã đánh quặt trở về, quân phòng thủ Bắc-biên cố thủ trong trang ấp. Như vậy chỉ hai ngày quân Lưu Khả hết lương, ắt tan vỡ. Tuy nhiên sẽ có trận đánh quyết tử của Tống với ta, mà số tổn thất của ta cũng không nhỏ. Ghi chú , Thường-Kiệt là con Ngô An-Ngữ. Mà Ngô là đệ tử của Trần Tự-An. Còn Trần Phúc là cháu nội Trần Kiệt; Trần Lâm là con Trần Phụ-Quốc. Vì vậy so vai vế Thường-Kiệt thuộc vai sư đệ Trần Lâm, và vai sư huynh Trần Phúc. Đô-thống Quách Y đáp: - Giặc cùng chớ đuổi. Nếu trường hợp đó xẩy ra, ắt Thân phò mã sai hai đô-thống Lý Đoan, Trần Ninh đem quân về cứu Lạng-châu. Hai trự Đoan, Ninh sẽ không ngại ngùng gì mà bắt hết vợ con tướng sĩ Tống chở ra mặt trận cho đi trước, rồi đội cung thủ núp sau, để đe dọa: Ai hàng thì tha cho cả bản thân và gia đình. Ai chống thì cứ tiến lên, bắn ra để vợ con chết trước! Cả năm đô-đốc Lý Kế-Nguyên, Trần Phúc, Trần An, Trần-Hải, Trần-Lâm đều lắc đầu, phì cười: - Hành sự như vậy thì thành công đấy, nhưng thiếu tinh thần võ-đạo! Giặc nó cười mình rằng hèn, rằng chơi cùi! Thiếu anh hùng tính. Đô-thống Tạ Duy cãi: - Trường hợp này mới đúng võ đạo. Đúng đứt đuôi con nòong nọoc đi chứ lị. Các vị có biết không, khi còn sinh thời, sư-phụ dạy: « Trong việc hộ quốc, nếu phải làm bất cứ việc gì, dù dơ bẩn, dù ác độc, cũng làm. Vả phép dụng binh, làm sao đổ máu càng ít, thì dù phải có hành vi bần tiện đến đâu cũng làm ». Vì vậy bọn đệ đã hẹn nhau, khi chơi với Tống, nếu cần thì bóp dế, xài cẩu quyền cũng xài, nếu phải chơi cùi cũng chơi! Uy tín Khai-Quốc vương cực kỳ lớn trong thời Lý, vì vậy khi nghe Tạ Duy nhắc đến ngài, tự nhiên mọi người ngồi ngay ngắn lại. Thường-Kiệt gật đầu: - Quả đúng như lời Tạ đô-thống nói. Khi được tin Lưu Khải đem quân tràn vào biên giới ta, Thân phò mã sai hai đô-thống Lý, Trần đem thú-binh, kị-binh, cùng Thần-nỏ trở về tiếp cứu. Còn vua bà Thiên-Thành thì đem hai hiệu binh Hồng-châu, Kinh-Bắc ứng chiến. Trong khi hai bên đối trận, Đô-thống Trần Ninh đem năm mươi xe, trên chở bố mẹ, vợ con các tướng Tống ra, rồi cho đội Thần-nỏ, Thần-tiễn Long-biên đi sau. Tới trước trận, đô-thống gọi các tướng sĩ Tống: « Phía trước, các người tiến lên đánh các trang ấp, thì trang ấp kiên cố, đánh không nổi. Các người lùi trở về, thì Tây-bình, Lộc-châu bị chiếm, vợ con, của cải trong tay chúng ta. Này! Các người nên nhớ quân Đại-Việt là quân nhân nghĩa, nếu các người buông vũ khí đầu hàng, thì không những tính mệnh được tha, mà của cải cùng gia thuộc cũng được an toàn ». Binh tướng Tống kinh hoàng, một vài người buông vũ khí đầu hàng, lập tức bị Lưu Khải chém đầu tại chỗ, rồi hô tiến lên. Đô-thống Lý Đoan chụp ngay hai đứa trẻ còn bế ngửa, trong đám con của binh-sĩ Tống xé tét làm hai mảnh. Tướng sĩ Tống kinh hoàng, đồng buông vũ khí đầu hàng. Tây-hồ thất kiệt cười khoái trá: - Bọn Long-biên ngũ hùng chơi mánh này hay thực! Đô-đốc Lý Kế-Nguyên lắc đầu: - Xé xác trẻ con vô tội như vậy e tổn thương đến đức hiếu sinh của Thượng-Đế. Muôn ngàn lần không nên. Tây-hồ thất kiệt lại bưng miệng cười. - Tôi bàn vậy không đúng sao? Lý Kế-Nguyên cau mày: Không lẽ đây cũng là võ đạo? Đô-thống Mai Cầm bật cười: - Thưa quan Thái-phó! Quan Thái-phó là thầy của Thái-hậu, cũng như thầy của bọn cháu. Bọn cháu đâu đám bảo Thái-phó sai? Nhưng Thái-phó ơi! Người tắm trong đạo của đức thánh Khổng, thì khó mà hiểu được bọn ăn này, móc túi như bọn cháu. - ?!?!?! - Cháu chắc Lý Đoan đã dùng vải bọc xác con chó, con thỏ gì đó, giả làm trẻ nít, rồi đem xé để hù bọn Tống mà thôi, chứ đâu có xé xác trẻ thơ! Thường-Kiệt bật cười: - Lý đô-thống quả đã hành sự như Mai đô-thống ước tính. Lý Kế-Nguyên là một thứ quân tử đầy đức khiêm-cung, biết mình lý giải sai, ông cung tay hướng Mai Cầm: - Nguyên này thực không bằng Mai đô-thống. - Cháu không dám. Đa tạ Thái-phó đã dạy cho cháu một bài học về đức khiêm-cung của người quân tử. Thường-Kiệt tiếp: - Nhưng Lưu Khải với đội võ-sĩ trực thuộc không chịu hàng. Chúng xông vào trận định bắt hai đô thống Lý Đoan, Trần Ninh. Chỉ hai chiêu Lưu đánh Lý, Trần phun máu miệng bỏ chạy. Cũng may Thân phò mã vừa tới. Lưu thách Thân phò mã đấu tay đôi. Thân phò mã với Lưu đấu đến hơn trăm chiêu bất phân thắng bại. Vì Lưu đã ở vào tuổi gần bốn mươi, công lực thâm hậu vô song, trong khi Thân phò mã mới vừa tới tuổi hai mươi lăm. Chư tướng đều suýt xoa về bản lĩnh của Lưu hải, bởi bản lĩnh của phò-mã Thân Cảnh-Long đứng vào hàng số một số hai Đại-Việt. - Dần dần, Thân phò mã yếu thế. Phò-mã đành đánh một chiêu, rồi nhảy ra ngoài chịu thua. Người giữ lời hứa, thả cho Lưu về Tống. Lưu đắc chí cười nhạt: « Ta tưởng Mục-ngưu thiền chưởng của Nam-man xuất ra từ Thiền-công là vô địch thiên hạ, hóa ra cũng tầm thường thôi ». Y vừa giật cương cho ngựa đi, thì một mã phu Đại-Việt tung cái túi vải to bằng quả dưa vào người y. Cái túi bay rất chậm, nhưng quay rất mau. Y vung tay định đỡ, thì cái túi vỡ tan ra, rồi hai viên sỏi trúng vào huyệt Khúc-trì, hai viên khác trúng vào huyệt Dương-lăng-Tuyền của y, khiến chân tay y cứng đơ; rồi một cái đùi chó trong túi bay ra chui tọt vào miệng y, khiến y ngậm lại không được. Mọi người cùng bật lên tiếng kêu: - Mộc-tồn Vọng-thê hòa thượng. - Đúng thế. Quả là ngài! Thường-Kiệt tiếp: Thình lình một viên kị mã Tống tung người lên; ông vỗ vào vai Lưu Khải một cái, khiến huyệt đạo của y được giải khai. Y lấy cái đùi chó trong miệng ra rồi chửi: - Đồ hèn hạ đánh trộm. Nếu Mộc-tồn Vọng-thê có giỏi hãy xuất hiện cùng mỗ đấu vài ngàn hiệp. Bấy giờ chư quân mới nhìn người giải huyệt cho Lưu Khải, thì ra y là một nhà sư mặc áo cà-sa đại hồng. Mộc-tồn Vọng-thê hoà thượng từ trong quân Việt tung mình nhảy ra. Binh sĩ Việt đồng chắp tay vái: - Nam mô Mộc-tồn Vọng-thê bồ-tát. Hoà-thượng hất hàm hỏi Lưu Khải: - Nhất sinh ta không chấp bọn hậu bối các ngươi. Ngươi đấu võ với tên bé con Cảnh-Long, ngươi thắng y, y rộng lượng tha cho mi sống; đáng lẽ mi phải lủi ngay mới phải. Đây mi lại nhục mạ võ công Đại-Việt, nên ta mới trừng phạt mi. Vậy ta ra chiêu đây, nếu mi đỡ được của ta ba chưởng, thì ta tha cho mi sống. Đỡ đi, chiêu thứ nhất này. Nói rồi ngài phát chiêu, đó là chiêu Thiên-vương trấn thiên. Lưu Khả vận đủ mười thành công lực đỡ. Ầm một tiếng, người y bay bổng lên cao. Y rơi xuống đất như trái mít rụng, miệng ứa máu ra. Con ngựa của y thì bị tan làm năm sáu mảnh, máu me, ruột gan bay tứ tung. Mộc-tồn hoà thượng nói: - Nếu ta đánh một chưởng nữa, thì người mi sẽ bẹp như con tép bị ngựa dẵm lên. Vậy ta cho mi thở trong mười tức, rồi ta đánh chiêu thứ nhì. Lưu Khả thở đến tức thứ bẩy thì lảo đảo đứng dậy. Mộc-tồn hoà thượng phát chiêu thứ hai, đó là chiêu Lôi-đả Ân-tặc. Chưởng chưa ra hết mà Lưu Khả đã ngã lăn xuống đất. Bỗng có bóng vàng thấp thoáng, nhà sư giải huyệt cho Lưu Khải nhảy ra vung chưởng đánh cắt vào giữa chưởng của ngài. Ầm một tiếng, nhà sư đó bật tung lại sau ba bước liền. Mộc-Tồn hòa thượng cười nhạt: - Người chẳng là đại-sư Pháp-Nhẫn, thủ tọa Đạt-ma đường chùa Thiếu-lâm đấy ư? Là cao tăng, mà sao người lại theo quân Tống xâm lăng Đại-Việt? Hãy đỡ chiêu nữa của ta. Bồ-tát lại đánh tiếp chiêu thứ ba. Đại-sư Pháp-Nhẫn đưa cả hai chưởng ra đỡ. Mọi người thét lên kinh khủng, vì dù với chiêu đó, thì cả ông với Lưu Khả đều tan xương nát thịt ra mà chết. Bỗng có tiếng quát thanh thoát: - Xin Bồ-tát dung tình! Rồi hai nhà sư náo nâu tung mình ra cùng đỡ chưởng thứ ba của ngài. Ầm một tiếng, đại sư Pháp-nhẫn với hai nhà sư áo nâu đều lảo đảo muốn ngã. Một nhà sư áo nâu chắp tay hành lễ: - Đại bồ-tát, tiểu tăng lớn mật dám xin đại bồ-tát tha mạng cho vị đại sư Pháp-Nhẫn. Bởi người là một cao tăng đạo cao đức trọng. Mộc-tồn hoà-thượng cười nhạt: - Thì ra hai thánh tăng Minh-Không, Đạo-Hạnh đấy ư? Tại sao người lại cứu bọn Tống? Nghe đến Minh-Không, Tây-hồ thất kiệt đồng đưa mắt nhìn nhau, vì ngài chính là Minh-Không bồ tát thời Thuận-thiên tái giáng sinh. Trong thời thơ ấu, khi bẩy vị còn ăn xin lang thang ở Thăng-long, ngài đã phát tâm bồ-đề gửi Tín-Nghĩa vương nuôi dạy, rồi được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử, cho nên ngày nay mới thành đại tướng. Minh-Không đại sư chắp tay: - Bạch bồ tát! Trước đây đại-sư Pháp-Nhẫn không những đã cản trở vua Tống Anh-Tông đem quân đánh Đại-Việt mà thôi, ngài còn khuyên nhà vua không cho đem quân sang đánh tất cả các nước lân bang nữa. Vì Lưu tướng quân là đệ tử của đại sư. Đứng trước cái chết của đệ tử, hỏi ai đang tâm đứng nhìn? Vì vậy đại sư phải ra tay cứu Lưu tướng quân, đó là lẽ thường tình. Mộc-tồn bồ-tát chắp tay hành lễ với đại-sư Pháp-Nhẫn ba lễ rồi móc trong túi ra năm viên thuốc trao cho ngài: - Thiên tai! Thiện tai! Mộc-tồn này kiến văn hủ lậu, nên không biết được tâm bồ tát của đại-sư. Mong đại sư hỷ xả ân xá cho. Rồi ngài bỏ năm viên thuốc vào miệng đại sư Pháp-Nhẫn. Đại-sư Pháp-Nhẫn nuốt thuốc, sau khi vận khí mấy tức, ngài mửa ra một búng máu, rồi đứng dậy chắp tay vái Mộc-tồn bồ tát: - Đa tạ Bồ-tát ban thuốc. Mộc-tồn bồ tát hướng phò-mã Thân Cảnh-Long nói: - Bé con, ta mang Lưu Khải đi nhé! Rồi ngài chụp Lưu Khải cặp vào nách, cùng đại sư Minh-Không, Đạo-Hạnh, Pháp-Nhẫn tung mình vào rừng mất hút. Đô-thống Triệu Thu hỏi: - Trình nguyên-soái, đạo quân đánh Tây-bình, Lộc-châu coi như xong. Thế còn đạo quân đánh Vĩnh-bình, Thái-bình, Hoành-sơn ra sao? - Vì những thù hận giữa Môn-châu với Vĩnh-bình, nên khi lệnh tấn công ban ra, Trấn-Bắc thượng tướng quân Hoàng Kim-Mãn cùng đô-thống Vũ Quang xua quân đánh tràn sang như nước vỡ bờ. Quân Vĩnh-bình chống cự rất mãnh liệt. Hoàng-nam của Môn-châu chết khá nhiều, mà không lọt được vào ải. May nhờ phu nhân của đô-thống Vũ Quang là Võ Kim-Liên rất can đảm, bà thân cầm đao đi đầu, chỉ huy đội binh thú tấn công: Trên trời Thần-ưng đánh xuống, bên dưới Thần-nỏ bắn yểm trợ, rồi cho Thần-phong nhào xuống đốt; đợi khi quân phòng thủ rối loạn, mới cho Thần-hổ, Thần-báo, Thần-ngao, Thần-tượng xung phong. Bấy giờ quân ta mới lọt vào trong ải. Ông đưa mắt nhìn chư tướng một lượt rồi tiếp: - Khi chiếm Vĩnh-bình xong, Đô-thống Vũ Quang kiểm kê tài sản báo cáo về rằng số lương thảo, tiền bạc chất ở đây có thể nuôi mười vạn quân trong một năm. Số vũ khí có thể trang bị cho năm vạn quân. Đây là bằng cớ thừ ba về âm mưu của Tống. Chiến thắng vẻ vang, quân hầu Hoàng Kim-Mãn cùng ba con trai mới nghĩ đến trả thù năm xưa bị Tô Tá xua quân sang hãm hiếp vợ con hầu trước mặt hầu, giết không biết bao nhiêu dân Vĩnh-bình. Mặc dù có sự can thiệp của Đô-thống Vũ Quang, phu-nhân Võ Kim-Loan, nhưng Hoàng quân hầu cũng cứ trả thù. Ông thở dài lắc đầu: - Hầu sai đem mẹ, vợ, con của tướng sĩ Vĩnh-bình, Tô Tá ra hành hình. Lối hành hình thực kinh khủng, dã man, tàn bạo chưa từng có: Sai đặt tiệc rượu để những tướng sĩ Môn-châu có vợ con, gia thuộc bị Tô Tá cho hãm hiếp, chém giết trước đây, vừa ăn vừa coi. Còn tướng sĩ của Tô Tá bị trói vào cọc gần đó để thấy bố, mẹ, vợ, con họ bị xẻo từng miếng thịt, hoặc lấy dùi nung trong bếp than, rồi xiên vào thịt. Tội nhân gào khóc thê thảm, mà không chết được. Cuộc hành hình kéo dài suốt một ngày, đám già trẻ khốn nạn đó mới chết. Hôm sau, Hoàng hầu lại đem đám tướng sĩ Môn-châu tẩm mật lên người, rồi để trước các ổ kiến lửa cho kiến bò lên cắn. Tội nhân rên rỉ suốt hai ngày mà chưa chết. Đứng trước vụ này, đô-thống Vũ Quang nảy ra ý mời Mộc-tồn bồ-tát can thiệp. Nhưng không biết ngài ở đâu? May thay, giữa lúc đó, sứ giả của Ưng-sơn song hiệp đem thanh kiếm tới nói với Hoàng hầu phải chọn một trong hai điều: Hoặc là tha tất cả tội nhân, trao cho sứ giả mang về Vạn-thảo sơn trang trị bệnh; tự hậu không được giết hay đánh tù binh, dân chúng Vĩnh-bình; phải ngăn cấm binh sĩ cướp bóc, hãm hiếp dân chúng. Hoặc là dùng thanh kiếm này tự tử ngay. Nếu trong ba ngày không thi hành xong, thì Ưng-sơn sẽ giết cả nhà hầu, đến con chó, con mèo cũng không tha. Hoàng hầu kinh hãi, vội chọn điều thứ nhất. Lý Thường-Kiệt sai thân binh đem nước trà mời chư tướng uống cho ấm bụng, rồi tiếp: - Trong bốn cánh quân, thì cánh Quảng-nguyên thiếu may mắn nhất. Thái-tử thiếu bảo, Phiêu-kị đại tướng quân, Quảng-nguyên hầu Lưu Kỷ chia quân làm hai. Chính hầu đem quân Bắc-biên, hoàng-nam đánh Hoành-sơn; đô-thống Phạm Dật, với phu nhân Lê Kim-Liên mang quân đánh Thái-bình. Không may cho ta, tế-tác của Trấn-Nam tướng quân Thái Bằng biết tin trước một ngày, nên y cho một nửa quân đóng ngoài trại, một nửa quân đóng trong trại làm thế ỷ dốc. Khi quân ta đến nơi, hai bên giao tranh cực kỳ ác liệt. Cánh quân của đô-thống Phạm Dật gồm hiệu Thiên-tử binh Ngự-long do chính đô-thống chỉ huy với đội Thần-ngao. Phu nhân Lê Kim-Liên chỉ huy thú binh, Thần-nỏ, đội Thần-tiễn Long-biên xung phong bốn lần đều bị đánh bật ra. Cuối cùng ban đêm phu nhân cho đội Thần-hầu đột nhập ải Thái-bình đốt doanh trại, nhà cửa. Trong lúc quân Tống lo cứu hỏa, quân ta mới đánh vào được. Trấn-Nam tướng quân Thái Bằng đem tàn quân bỏ chạy, An-viễn tướng quân Lâm Mậu-Thăng bị chết tại trận. Có lẽ đây là cuộc giao tranh khốc liệt nhất. Còn Lưu quân hầu đánh Hoành-sơn có phần cơ cực hơn. Sau ba ngày giao tranh bất phân thắng bại, hoàng-nam, quân Bắc-biên chết quá nhiều, Lưu hầu định rút lui. Giữa lúc đó, đô-thống Phạm Dật đem quân tiếp viện. Sau hơn ngày giao chiến cực kỳ khó khăn, quân ta có vẻ thắng thế, thì một tướng Tống đấu với Lưu hầu hơn trăm hiệp. Hầu bị trúng chưởng suýt bỏ mạng. May thay lúc đó, phu-nhân Ngô Cẩm-Thi xuất hiện cứu hầu. Phu nhân đấu với tướng đó đến ba trăm chiêu mới hạ được y. Thì ra y là Yên Đạt. Nguyên y vâng lệnh triều Tống đi kiểm tra lương thảo ở Nam thùy, giữa lúc y ở Hoành-sơn thì xẩy ra cuộc chiến. Sau khi Yên Đạt bỏ chạy, ta chiếm Hoành-sơn. Trần-Nam tướng quân Thái Bằng bị bà Ngô Cẩm-Thi giết chết, quản hạt Ngũ Cử bị Lê Kim-Liên giết, giám-áp trại Quách Vĩnh-Nghiêm bị đô-thống Phạm-Dật giết. Lưu hầu kiểm kê chiến lợi phẩm ở hai trại này mà phát rùng mình: Lương thảo đủ nuôi hai mươi vạn binh trong một năm, vũ khí đủ trang bị cho năm vạn quân. Đây là bằng chứng thứ tư về âm mưu của Tống định đánh ta. Tín-Nghĩa vương suýt xoa: - Tổng cộng lương tiền cả vùng Nam-thùy mà ta thu được, tính ra có thể nuôi năm mươi vạn quân trong một năm, vũ khí có thể trang bị cho ba mươi vạn binh. Như thế đủ hiểu rằng Tống đã chuẩn bị xong để đem trăm vạn người đánh ta trong sáu tháng, không cần tiếp tế. Số vũ khí dự trù bắt người mình để thành lập đạo quân ba mươi vạn, rồi đem lên đánh Liêu, đánh Hạ. Thường-Kiệt để cho chư tướng nghỉ một khắc, rồi tiếp: - Đạo trên bộ đã xong. Nay ta được tin Lưu-Di sai chuyển tất cả quân ở Khâm-châu, Liêm-châu kéo về chiếm lại Cổ-vạn, Tây-bình, Lộc-châu. Họ đã khởi hành hai ngày rồi. Bây giờ ta thừa cơ đánh úp Khâm, Liêm châu. Các vị được cái danh dự đánh trận này. Các tướng vỗ tay nhiệt liệt phấn khởi. Thường-Kiệt tiếp: - Lực lượng chúng ta đây có bốn hạm đội, bẩy hiệu Thiên-tử binh, một đạo kị binh, một lữ Thạch-xa, một lữ Thần-nỏ, thêm đội Giao-long Tây-hồ. Chúng ta có nhiệm vụ đánh chiếm Khâm-châu, Liêm-châu. Đánh Khâm-châu, thì chỉ cần đổ lên bờ biển, là tiến tới nơi. Tuy nhiên che mặt Nam cho Khâm-châu gồm các ải dọc biên giới Như-hồng, Như-tích, Để-trạo, Thiên-long. Ta phải đánh bốn trại này trước. Sau khi chiếm các trại biên phòng, ta tiến về Ung-châu. Trên đường đi, phải đánh Dung-châu, Bạch-châu, Nghi-châu. Giữa cái không khí trang nghiêm của lịch sử ấy, chư tướng cùng im lặng, đến nỗi những người ngồi bên nhau có thể nghe thấy tiếng tim đập của nhau. Trong khoang có tới hơn trăm người, mà im lặng như trong đêm khuya. Thường-Kiệt tiếp: - Ta chia quân làm ba cánh. Cánh thứ nhất đánh vào các ải trực thuộc Khân-châu là Như-hồng, Như-tích, Để-trạo, Thiên-long. Tại vùng này Tống có đạo binh-triều thứ 34, một lữ kị-binh 44, nhưng họ đã tiến về phía Tây để cứu Cổ-vạn rồi, thành ra họ chỉ có bảo-giáp giữ nhà mà thôi. Mỗi ải có khoảng hai nghìn người, được luyện tập cực kỳ tinh nhuệ như binh triều. Thế mà ta phải đánh thực nhanh, bằng không đạo binh cứu viện lại lộn trở về, thì khó thành công. Ông hướng vào Tín-Nghĩa vương: - Lực lượng đánh vùng này gồm hạm đội Thần-phù của đô-đốc Trần Hải, bộ binh gồm hai hiệu Thiên-tử binh Vũ-thắng của đô-thống Trần Di, Phương-Lý, Long-dực của đô-thống Dương Minh, Phương-Cúc. Tổng chỉ huy là hoàng-tử Chiêu-Văn. Tín-Nghĩa vương cùng chư tướng đứng dậy nhận lệnh. - Cánh thứ hai có nhiệm vụ đánh chiếm căn cứ thủy quân ở cửa biển Khâm-châu. Tống thiết lập căn cứ thủy quân Khâm-châu với mục đích đánh ta, vì vậy họ đã chỉnh đốn, thao luyện hạm đội Nam-thùy, giao cho đô-đốc Dư Tấn chỉ huy từ mấy năm nay. Tấn nguyên xuất thân từ bang Đường-lang, võ công rất cao, lại giỏi thủy chiến. Trước khi xuống Quảng-Đông, y tâu xin vua Tống cho thu dụng hết bọn vong mạng, bọn cướp biển ở vùng Mân-Triết xung quân., Vì thế tuy quân số khoảng một vạn người, nhưng rất thiện chiến. Tấn còn bắt tất cả thợ mộc, thợ rèn ở Quảng-Đông, mở xưởng đóng thuyền. Số thợ tới hơn vạn người nữa, nhưng đám này không luyện tập võ nghệ, binh bị, ta không cần để tâm. Mục đích đánh Tống của ta là bằng mọi giá phải phá cho căn cứ thủy quân này của Tống. Nếu không thì cánh thứ ba tiến đánh Khâm-châu sẽ bị hở lưng. Lực lượng đánh căn cứ thủy quân cần tinh nhuệ, chứ không cần nhiều. Bản soái quyết định để hạm đội Động-đình của đô-đốc Trần Lâm, hiệu Thần-điện, đội Giao-long Tây-hồ của đô-thống Triệu Thu với Phương-Liễu. Tổng-chỉ huy là đại đô-đốc Lý Kế-Nguyên. Lý Kế-Nguyên cùng chư tướng đứng dậy nhận lệnh. - Cuối cùng là lực lượng đánh Khâm-châu. Tại Khâm-châu, Tống có đạo binh 31 do giám-áp Văn Lương, Ngô Phúc chỉ huy; một lữ kị 41 hai viên chỉ-huy sứ Tống Đạo, Đinh Toại chỉ huy. Ngoài ra còn có viên tuần-kiểm chỉ huy ba nghìn bảo-binh nữa. Đúng ra đạo binh triều với đạo kị này đã lên đường cứu Cổ-vạn, Tây-bình. Nhưng họ còn chờ quân Liêm-châu xuống thay thế. Nếu như ta đánh úp được khi chúng chưa kịp tập họp quân thì nhất rồi. Còn như trái lại bắt buộc ta phải chấp nhận giao-chiến, e tổn thất không ít. Tướng trấn thủ Khâm-châu là Trần Vĩnh-Thái. Y xuất thân từ phái Hoa-sơn, đỗ tiến sĩ, là đệ tử út của Tây-sơn lão nhân, tức sư đệ của công-chúa Huệ-Nhu, của Triệu Tiết, bản lĩnh y rất cao thâm. Y được Kinh-Nam vương nâng đỡ. Sau thời gian chiến đấu ở mặt trận Tây-hạ, Bắc-liêu, y được phong Đông-hưng hầu, lĩnh ấn Vân-ma đại tướng quân, rồi đề bạt cho làm trấn thủ Khâm-châu. Nhưng phải cái chứng y tự cao, khinh địch. Ngoài ra còn có giám-thuế Âu-dương Dẫn coi về binh lương. Tất cả bọn quan trấn thủ Khâm-châu đều là chân tay Vương An-Thạch sai xuống Nam chuẩn bị đánh ta, nên rất hung hăng. Ông chỉ lên bản đồ: - Đây là thành Khâm-châu. Tất cả đạo binh 31, kị-binh 41 đều đóng trong thành. Ta có hai hạm đội, bốn hiệu Thiên-tử binh. Vậy... Ông chỉ đô-đốc Trần An: - Hạm đội Bạch-đằng do đô-đốc Trần An chỉ huy chở, hiệu Bổng-thánh của đô-thống Mai Cầm với Phương-Đơn, hiệu Bảo-thắng của đô-thống Quách Y với Phương-Tiên. Sau khi cập bến lập tức hiệu Bổng-thánh đem theo đội Thần-nỏ, đội Thần-hổ, Thần-báo tràn vào cửa Đông, đánh vào trung ương, bắt chiếm dinh tổng-trấn, bắt hết quan lại. Hiệu Bảo-thắng của đô-thống Quách Y với Phương-Tiên đánh chiếm trại kị-binh. Hạm đội Âu-Cơ của đô-đốc Trần Phúc chở hiệu Hùng-lược của đô-thống Ngô Ức với Phương-Dược; hiệu Vạn-tiệp của đô-thống Tạ Duy với Phương-Quế. Sau khi cập bến, hiệu Hùng-lược đánh chiếm hai cửa Nam, Tây; hiệu Vạn-tiệp đánh chiếm cửa Bắc, Đông.