watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
15:50:3426/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50 - Trang 19
Chỉ mục bài viết
Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Trang 37
Trang 38
Trang 39
Trang 40
Trang 41
Tất cả các trang
Trang 19 trong tổng số 41



Chương 40a

Không Thù, Chẳng Oán

Chiến thắng Ngọc-sơn được ngựa trạm báo về An-Nam đạo hành doanh mã bộ quân đô tổng quản chiêu thảo sứ kiêm tuyên-phủ sứ Kinh, Hồ, Quảng ở Quế-châu. Đây là chiến thắng đầu tiên của quân Tống. Quách Quỳ vội sai ngựa lưu-tinh phi bất kể ngày đêm, tâu về triều. Ngày Bính-Tý, tháng 9, niên hiệu Hy-Ninh thứ 9 -1072, vua Tống họp đại thần ở Thiên-chương các để công bố tin mừng. Đặc biệt buổi hội này còn có Tuyên-Nhân hoàng thái hậu 0 buông rèm thính chính. Bởi hậu đã cùng vua Anh-tông, Dư Tĩnh, Lý Hiến, đại sư Pháp-Nhẫn nam du, hiểu rất rõ tình hình Giao-chỉ. Sau khi đọc biểu tâu của Quách Quỳ, chính tể-tướng Vương An-Thạch thảo tờ chiếu gửi cho Quách Quỳ, chỉ dụ rằng:
« Binh mã đi An-Nam chẳng bao lâu nữa sẽ ra khỏi nước. Phải làm một cái gì để gia tăng sĩ khí. Nhâm Khởi đánh được trại Ngọc-sơn, tuy công không lớn, nhưng cũng là lần đầu phấn khích sĩ tốt. Ai lập công, phải thưởng ngay, rồi tâu lên, ta sẽ phong tặng, bố cáo cho sĩ dân biết ». 0.
Hữu tể tướng Ngô Sung công kích:
- Với một cái đồn Ngọc-sơn cô lập ở biên thùy, quân đồn trú chưa quá nghìn rưởi, lại là quân thuộc hiệu Đông-triều, tức quân địa phương; thế mà Nhâm Khởi hy sinh mất ba nghìn quân Cổ-vạn, hơn nghìn quân thuộc hiệu Đông-triều của tên Thanh-Nhiên đầu hàng, một vạn hơn quân Quảng-Đông, tức một đổi mười. Như vậy mà cũng gọi là chiến thắng ư? Nếu nay triều đình tuyên chỉ khen thưởng, thì muốn thắng mười lăm vạn quân Giao, ta phải hy sinh một trăm năm mươi vạn binh ư?
Tuyên-Nhân hoàng thái hậu tuyên chỉ:
- Quân hùng hay hèn, căn cứ vào ba điều. Một là quân khí, hai là quân kỷ, ba là quân tâm. Một cái đồn nghìn rưởi quân Việt, mà ta hy sinh vạn rưởi người, như vậy là chiến thắng lớn rồi. Vì sao? Nghĩ cho cùng, người Việt bị ta đuổi từ Kinh, Hồ xuống Nam, mấy nghìn năm nay, uất khí kết đọng; bây giờ ta đánh họ, họ bị cùng đường, thì quân khí phải mạnh. Điều này quân ta không thể so với quân Việt. Về quân kỷ, thì Khai-Quốc vương đã để ra cả đời, lấy chủ đạo của tộc Việt soạn ba chương sách luyện thần cho binh tướng. Binh tướng Việt chỉ có tiến mà không có lùi. Nếu có kẻ nào lùi, sau này, đồng đội, hương đảng chế diễ, xấu hổ, rồi cũng đến phải tự tử. Điều này quân ta lại cũng không bằng quân Việt. Ba là quân tâm, thì với cái đồn nhỏ ở biên thùy, mà Linh-Nhân hoàng thái hậu hy sinh bằng cách thuận cho bạn thân nhất là Trần Ngọc-Huệ theo chồng ra trấn thủ. Ta nghe nói, Ngọc-Huệ luyện được hơn trăm nữ binh, gả cho nam binh, rồi đem chúng theo để cùng chiến đấu; cặp vợ chồng này lại ăn cùng, nghỉ cùng với binh tướng. Hỏi sao quân tình không mạnh? Nhâm Khởi đánh được đồn Ngọc-sơn phải coi là chiến công lớn vậy.
Triều Tống đều biết Tuyên-Nhân hoàng thái hậu nhũ danh Cao Thái-Vân là người có cái học bao la, uyên thâm cùng cực, võ công bà cao siêu; mỗi lời luận bàn của bà đều chính trực, phân minh. Ngặt một điều, bà sùng Nho, lại trọng những văn gia, thi sĩ, mà những người này hầu hết chống đối Tân-pháp của Vương An-Thạch, nên bà không thích y.
Hy-Ninh đế bênh An-Thạch, nói với Ngô Sung:
- Đúng như mẫu hậu chỉ dụ, đây là chiến thắng. Còn quân ta chết nhiều, chết ít, còn tùy hoàn cảnh địa phương. Bổn phận đấng quân phụ là phải cổ võ chiến công. Khanh không nên bàn nữa.
Tiếp theo Vương An-Thạch tâu trình về hệ thống phòng thủ của Đại-Việt bằng ba phòng tuyến: Phòng tuyến một dùng trang động làm mỏi mệt, kéo dài thời gian của quân Tống. Phòng tuyến hai là bốn ải kiên cố Ngọc-sơn, Đâu-đỉnh, Quyết-lý, Giáp-khẩu làm tiêu hao nhân lực. Phòng tuyến ba là chiến lũy Vạn-xuân, Tam-đảo, Như-nguyệt. Ngoài ra, còn bốn hạm đội hùng hậu luôn đe dọa lãnh hải từ Khâm, Liêm đến Quảng-châu.
Cuối cùng y kết luận:
- Ngọc-sơn là ải vừa nằm trên phòng tuyến một lẫn phòng tuyến hai. Nay ta chiếm được, thì có thể dùng thủy quân vượt sông Bạch-đằng đánh vào Thăng-long.
Nghe An-Thạch nhắc đến những địa danh Chi-lăng, Bạch-đằng, trên gương mặt Hy-Ninh đế cho đến các đại thần đều hiện ra những nét không vui. Bởi đó là những chiến trường cổ, mà quân Trung-nguyên đã để lại hàng trăm vạn bộ xương. Biết thế Vương An-Thạch tâu:
- Thời vua Thái-tông, ngài ủy việc Nam chinh cho Hầu Nhân-Bảo, Quách Quân-Biện, Triệu Phụng-Huân. Chư tướng, chư quân thiếu chuẩn bị, lại nữa lương thiếu, quân ít; các tướng vội vã nên mới bị thất bại. Còn lần này, ta ra quân có chính nghĩa, quân đông gấp đôi, lương thực dư thừa, lại do triều đình đứng chủ động, thì há sợ bọn Giao-chỉ kia sao? Trước kia ta ra quân chỉ với mục đích nhắm vào triều đình chúng, nên bỏ qua các khê động. Lần này ta chiếm Giao-chỉ, đặt làm quận huyện, nên phải thanh toán cái nút chặn này trước.
An-Thạch đem tấu chương của Triệu Tiết ra dọc, rồi phân tích:
- Nay Triệu Tiết hiến kế: Trước hết phải giải quyết xong 207 khê-động của Việt đã. Bằng không, quan quân tiến xuống Chi-lăng, chúng có thể thừa hư đánh sang Ung-châu, hay chặn đường vận lương. Đầu tiên ta dùng lợi nhử chúng: Họ nào đầu hàng, thì động trưởng được phong chức tước, dân chúng năm năm miễn thuế, binh dịch. Còn động nào chống lại, thì sẽ giết đi vài động để thị oai.
Y nhìn nhà vua:
- Thấy rằng nếu ty Chiêu-thảo chiêu dụ được khê động nào, rồi tâu về triều để phong chức tước, e lâu quá. Nên năm trước, triều dình gửi cho Quách Quỳ một trăm bằng để trống tên. Hễ động trưởng nào đầu hàng, thì điền tên vào, rồi nói rằng, đã tâu về triều, được triều đình cấp bằng phong thưởng. Hiện các tướng Đào Bật, Khúc Chẩn, Yên Đạt, Tu Kỷ là những tướng biết nói tiếng Việt đã đi cùng những người của ta đến tận các khê động chiêu dụ chúng.
Y nhìn Ngô Sung:
- Cái khó khăn nhất là tụi thủ lĩnh. Thủ-lĩnh Quảng-nguyên là Lưu Kỷ cai quản 50 khê động, thủ lĩnh Môn-châu là Hoàng Kim-Mãn cai quản 40 khê động, thủ lĩnh Lạng-chậu Thân Cảnh-Long cai quản 117 khê động, thủ lĩnh Tô-mậu là Vi Thủ-An cai quản 20 khê động. Vi Thủ-An đã theo hàng, rồi cùng với Nhâm Khởi đánh Ngọc-sơn, nhưng y tử trận.
Ngô Sung nhăn mặt:
- Tôi biết, vừa rồi những bọn này từng mang quân sang phạm cảnh, mà bây giờ ta chiêu dụ chúng. Liệu chúng có theo không?
- Không khó! Trước hết ta chiêu dụ từng khê động nhỏ, như tằm ăn dâu. Khi các khê động nhỏ theo ta, thì tụi thủ lãnh trơ như con cá thối, chỉ còn bộ xương. Bấy giờ chúng không hàng cũng không xong. Khi giải quyết xong 207 khê động rồi, ta dùng đại quân đánh thẳng vào Chi-lăng, Bạch-đằng, trả cái thù từ thời vua Thái-tông.
Tuyên-Nhân hoàng thái hậu tỏ vẻ lo lắng:
- Ta nghe người trấn Lạng-châu là phò-mã Thân Cảnh-Long với vợ là công-chúa Thiên-Thành, thì không hy-vọng gì họ đầu hàng đâu. Nếu quân ta đánh Thăng-long, chỉ có con đường độc nhất để tiến quân, mà con đường này phải qua Lạng-châu, thì trận chiến sẽ khủng khiếp lắm. Sau Lạng-châu là ải Quyết-lý, do em gái, em rể Kinh-Nam vương tử thủ. Ta sợ giờ này, có khi vương đang ở bên cạnh em gái để chỉ dạy cho ả cách chống quân ta, mới là điều đáng sợ.
Nghe nói đến Kinh-Nam vương, trên từ Hy-Ninh đế cho tới văn võ bách quan đều cảm thấy phát ớn da gà, bất giác mọi người cùng đưa mắt nhìn nhau, rồi nhìn xung quanh; người người đều có cảm giác như Ưng-sơn đang vung kiếm chặt đầu, giết cả nhà, cho đến con chó, con mèo cũng không từ.
- Phía sau Quyết-lý là Chi-lăng.
Thái-hậu tiếp: Ải hiểm trở này do vợ chồng Đinh Hoàng-Nghi trấn thủ. Y là người mưu trí, có tài dùng quân khiến cho đối thủ không biết đâu mà lường. Dưới quyền hai người là hiệu Thiên-tử binh Quảng-vũ. Ta nghe, trong trận Côn-lôn, Đại-giáp, Ngọc-tuyền, mỗi Thiên-tử binh này chiến đấu như một con sư tử. Vậy triều đình phải tìm kế sách vẹn toàn, chứ không thể tin vào việc chiêu hàng, mà hỏng việc.
Tuyên chỉ xong, Thái-hậu hồi cung.
Nhà vua ban chỉ:
- Trong khi ta tìm kế vạn toàn, thì hãy tạm cho quân xuống Nam đã. Đại quân hiện ở Quế-châu, vậy hãy ban chỉ cho Quách Quỳ rằng: Hãy chuyển đại quân xuống Ung-châu ngay.
Đến đó, bãi triều.
Nhà vua vẫy tay gọi An-Thạch theo vào nội cung. Khi không có ai bên cạnh, nhà vua tuyên chỉ:
- Vương tể tướng. Khanh hãy tuyển lấy mấy võ sĩ, âm thầm xuống Ung-châu duyệt xét tình hình, rồi về tâu lại cho trẫm. Nhớ, phải tuyệt đối giữ bí mật, đến vợ con cũng không cho biết. Thôi khanh lui, nội trong ba ngày phải lên đường ngay.
Nhà vua tưởng dụ cơ mật này chỉ có mình với Vương biết. Ông quên mất viên Tổng-lĩnh thị-vệ Lý Hiến theo hộ vệ bên cạnh. Từ lâu rồi Lý Hiến căm thù Vương An-Thạch, chỉ chờ dịp trả thù. Ngay chiều hôm đó, y đến cung Tuyên-Nhân, mật tấu với Tuyên-Nhân hoàng thái hậu 0.
Nguyên do Hiến thù Thạch như sau: Vốn có võ công cao siêu, lại lầu thông binh pháp, nên trước đây Lý Hiến từng được Tần-vương Triệu Thự với vương phi Cao Thái-Vân cho tháp tùng sang Đại-Việt. Sau khi nhà vua lên ngôi, y nghiễm nhiên trở thành người hiểu các vấn đề Nam thùy bậc nhất trong hậu cung, cùng bàn bạc với hoàng hậu. Nay nhà vua băng, hoàng hậu thành thái hậu, y được thái hậu dùng làm tai mắt riêng. Vì vậy, y hy vọng được cầm quân đánh Đại-Việt, khi trở về sẽ được lĩnh tước hầu, tước công. Nào ngờ y bị Vương An-Thạch bênh Triệu Tiết, tâu với nhà vua bãi chức y, gạt y ra khỏi việc cầm quân. Từ đấy, y tìm đủ mọi cách trả thù Thạch. Y bỏ ra không biết bao nhiêu tiền bạc để thu nhặt tin tức xấu về Tân-pháp, rồi tâu lên Tuyên-Nhân hoàng thái hậu.
Hôm nay y thu được khá nhiều tin đặc biệt, trong đó có việc nhà vua sai An-Thạch mật công cán Nam thùy, y đem tâu với thái hậu. Y đâu ngờ trong khi y tâu, lẫn trong đám cung nga phục thị thái hậu, lại có sự hiện diện của hai nữ sứ giả do Linh-Nhân hoàng thái hậu sai sang dâng lễ vật mừng sinh nhật ngài.
Nguyên trước đây, khi vua Anh-tông còn là thái tử, tước phong Tần-vương. Vương cùng vương phi Cao Thái-Vân nam du mật nghiên cứu tình hình Đại-Việt. Trong lần đó vương với vương phi đã dạy võ, ban vàng cho cô thiếu nữ cùng khổ Lê-thị Minh-Đệ ở chùa Từ-quang. Khi Minh-Đệ thành Ỷ-Lan thần phi, thì vua Anh-tông băng hà. Phi tưởng nhớ đến việc nhà vua với hậu chiếu cố tới phi. Phi xin vua Thánh-tông cho chịu tang, làm lễ tế vọng. Từ đấy, hàng năm, đến ngày giỗ vua Anh-tông, ngày sinh nhật của Thái-hậu, Ỷ-Lan đều gửi sứ sang dâng lễ vật. Nay Ỷ-Lan thành Linh-Nhân hoàng thái hậu, đang bận rộn điều khiển cuộc chiến giữ nước, nhưng hậu vẫn không quên ngày sinh nhật của sư mẫu. Hậu sai phu nhân của Vân-ma thượng tướng quân Trần Ninh là Trần Ngọc-Hương làm chánh sứ; phu nhân của Quán-quân thượng tướng quân Đinh Hoàng-Nghi là Trần Phương-Quỳnh làm phó sứ sang dâng lễ vật. Thái-hậu thấy hai nữ sứ giả xinh đẹp, võ công cao thâm, lầu thông kinh, sử, tử tập của Trung-quốc, ngài cực kỳ yêu mến. Hậu giữ hai phu nhân ở trong cung đàm đạo mấy ngày.
Ngay chiều hôm đó, Trần Ngọc-Hương xin phép Tuyên-Nhân hoàng thái hậu ra ngoài kinh thành để tìm mua một số sách Trung-quốc. Sợ Khu-Mật viện Tống cho người theo dõi, phu nhân đi khắp các hiệu, mua không biết bao nhiêu sách mà kể, rồi âm thầm ra bến sông. Ở bến sông có con đò chờ sẵn, chở phu nhân ra giữa giòng rồi áp vào con thuyền lớn. Trong con thuyền đó đã có mười người ngồi chờ. Mười người đó là đại sư Minh-Không, Đạo-Hạnh; đại hiệp Trần Bảo-Dân, phu nhân là Khấu Kim-An; sáu người trong Thần-vũ thập anh là vợ chồng Hoàng, Thanh, Huyền. Ngọc-Hương trình bầy tỷ mỉ từ những xung đột của các đại thần Tống cho đến việc Tuyên-Nhân hoàng thái hậu vốn sùng Nho, yêu thơ văn. Thái hậu muốn hủy bỏ Tân-pháp, cách Vương An-Thạch và đồng bọn; dùng Ngô Sung, Vương Khuê, Phùng Kinh. Hậu lại muốn gọi các văn thi sĩ danh tiếng của Tống như Tô Thức, Tô Triệt, Tần Quan, Hoàng Đình-Kiên đang bị lưu đầy về triều.
Trần Bảo-Dân cùng hai đại sư, Thần-vũ lục anh, Ngọc-Hương bàn kế hoạch chi tiết, sao khiến cho Vương An-Thạch mệt mỏi, đưa đến tâm thần hỗn loạn, rồi nhà vua cách chức y. Xong việc, Ngọc-Hương trở về cung Tuyên-Nhân với hàng trăm bộ sách.
Hôm sau, Vương An-Thạch nhập triều bàn việc Nam thùy với Hy-Ninh đế, qua giờ Ngọ mới lên xe về dinh. Phía trước y có năm mươi kị mã, phía sau có năm mươi võ sĩ cầm đao hộ vệ. Xe vừa ra khỏi Hoàng-thành, thì thình lình có tiếng kêu rắc, rắc rồi bánh xe bên trái văng ra xa. Xe lật nhào. Viên gia tướng Đô Kinh nhấp nhô một cái, đã nhảy lên ôm lấy Thạch. Y dùng một thức khinh thân vọt mình như chiếc pháo thăng thiên, rồi đáp xuống vệ đường an toàn.
Chiếc xe lật nhào, đè lên người tên mã phu. Hai con ngựa cất cao vó trước hí lên inh ỏi. Đám vệ sĩ vội lật xe lại, cứu tên mã phu ra, rồi lấy ngựa cho Thạch cỡi.
Về tới dinh, Thạch nổi lôi đình, truyền gọi viên gia tướng Đô Kinh hỏi:
- Người đã điều tra xem tại sao trục xe lại gẫy không?
- Trình quốc công, tiểu tướng đã xem xét rất kỹ: Gỗ làm trục xe là loại gỗ trắc còn mới, không có vết tích bị chặt, bị cưa, thế mà một khúc bị nứt ra mới kỳ lạ. Tiểu tướng thẩm vấn tên mã phu, thì từ sáng đến giờ, không có ai lại gần xe cả. Kết lại, chẳng may trục xe của quốc công làm bằng gỗ, trúng phải một miếng bị mục.
Viên gia tướng ra rồi, thì người tỳ thiếp thứ năm mà Thạch cực kỳ sủng ái là Hương-Lan sai bưng trà với bánh, mứt, hoa quả dâng cho Thạch. Thấy người tỳ thiếp, cơn giận của Thạch hạ xuống liền. Hương-Lan thỏ thẻ:
- Tướng-công ơi! Hôm nay nhà mình có nhiều sự lạ xẩy ra, biết tướng công cần lao chính sự nhiều, nhưng thiếp vẫn phải trình tướng công.
- Đó là những sự gì vậy?
- Trước hết, là con chó xinh đẹp của tướng công bị mất tích hôm trước, nay đã thấy rồi.
- Thế nó đâu?
- Nó rơi xuống giếng chết đã mấy ngày, hôm nay mới nổi lên. Vì vậy nước giếng hôi thối, nên quản gia phải cho tát giếng. Còn nước dùng trong dinh hôm nay là nước gánh từ sông về.
- Đáng tiếc. Còn sự gì khác nữa không?
- Tin này thực khủng khiếp, kinh thiên động địa.
An-Thạch lo lắng:
- Trong nhà có ai chết ư?
- Hơn thế nữa. Tướng công ơi! Tin từ cố lý đưa về rằng, ngôi mộ hiển khảo (bố đẻ), tỷ khảo (mẹ đẻ) bị kẻ trộm đào lên, mang xương mang đi mất.
An-Thạch nổi giận hét be be:
- Ta phải đem tên lý dịch, cùng đám bảo binh trong làng chém hết để trị tội. Mộ của song thân ta xây bằng đá ong lớn như vậy. Nếu muốn đào lên, thì phải hàng chục người, đào trong hơn ngày. Hơn ngày mà lý dịch, bảo binh không biết, thì giả như giặc đến, sẽ ra sao?
Giận quá, y ném chung tra trên tay xuống nền nhà vỡ tan tành.
Chính thê của An-Thạch bước vào:
- Tướng công ơi! Khi tướng quân được đắc dụng, thiếp chẳng từng nói rằng: Nho học có từ mấy nghìn năm, đã ăn vào xương tủy Thiên-hạ rồi. Nay tướng quân muốn thay đổi hẳn, thì chỉ là dã tràng xây cát biển Đông mà thôi. Thiếp cho rằng trục xe gẫy, con chó chết, mộ hai thân bị đào, chắc cũng vì thù hằn mà thôi. Cổ nhân nói:
Sự phùng đắc ý tuyên hưu tức,
Phú quý trường trung dị bạch đầu.

Khimộngướcđãđắcýrồi,thìnênlùivềnghỉngơi.Trongtrườngphúquýđầudễbạc<.
Tướng quân không nhớ sao?
Phu nhân thở dài:
- Bây giờ Tân-pháp của tướng công được đắc dụng, tướng công có ở lại; quan cũng không quá tể tướng, tước cũng chỉ tới quốc-công. Tướng công lui đi là hơn.
An-Thạch thở dài:
- Ta nay lâm thế cỡi cọp mất rồi. Ta với nhà vua chủ đánh Giao-chỉ, nay quân đã vượt Ngũ-lĩnh xuống Nam. Ta làm sao mà lùi được?
Hương-Lan lại thỏ thẻ:
- Được chứ! Thiếp nghe nói, đất Giao-chỉ là nơi rồng nằm hổ phục. Mấy trăm năm nay, biết bao nhiêu tướng, biết bao nhiêu binh đem quân sang đánh, cũng đều bỏ thây cả. Nay ra quân lỡ bị thất bại, ắt nhà vua đổ lên đầu tướng công hết. Chi bằng bây giờ tướng công từ chức, lui về điền dã. Nếu Quách Quỳ thắng, thì nhà vua cũng biết là công của tướng công. Nhược bằng Quỳ bại, thì ai cũng nói là tự tướng công rút lui nên mới ra cơ sự.
An-Thạch lắc đầu:
- Ta không phải là người hèn. Ta nhất định phải chủ trương cuộc chiến này. Thắng Giao-chỉ, ta đánh Chiêm, Lào, Chân, Xiêm, Lý, rồi đem quân lên Bắc. Xưa kia Quản Trọng giúp Tề Hoàn-công thành nghiệp bá; Trương Lương làm quân sư cho Hán Cao-tổ, Tiêu Hà cầm quyền cai trị giúp Cao-tổ, Hàn Tín thống lĩnh binh mã cho Cao-tổ. Còn ta, ta quyết vừa làm Quản Trọng, lại kiêm cả Trương, Tiêu, Hàn. Thôi các phu nhân đừng bàn nữa.
An-Thạch uống trà rồi, y ngồi thừ người ra suy nghĩ: Trong triều, ngoài dân ai cũng chống ta. Vậy Tân-pháp là chính lệnh hay ma lệnh? Tại sao đến các phu nhân là người thân tín, đầu gối, tay ấp mà cũng chống Tân-pháp? Ta nhất quyết xuống Lĩnh-ngoại phen này để tìm hiểu thêm. Nhưng ta không thể mang theo đám tùy tùng cũ của ta, như vậy e bị lộ mất. Ta kiếm đâu ra những vệ sĩ thân tín đây?
Đâu đó có tiếng tiêu véo von vọng lại rót vào tai Thạch. Lúc đầu tiếng tiêu êm đềm, dìu dặt. Sau dần dần chuyển sang âm điệu cực kỳ khó chịu, khiến chân tay Thạch không tự chủ được muốn múa may nhảy nhót. Thạch bực mình gọi Đô Kinh, truyền lệnh:
- Đứa nào tấu những khúc ma quái vậy?
Nhưng Đô Kinh lắc đầu:
- Tiểu tướng không nghe thấy gì cả.
Hương-Lan lắng tai nghe ngóng rồi nói:
- Thiếp cũng không nghe thấy gì cả.
An-Thạch kinh hãi cau mặt lại, dùng hai tay bịt tai, nhưng tiếng tiêu như ma hờn, như quỷ khóc vẫn lọt vào tai y, khiến y không tự chủ được, phải đứng dậy múa may, quay cuồng.
Hương-Lan kinh hãi thét lên:
- Tướng công. Tướng công ơi!
Nhưng An-Thạch vẫn múa may. Viên gia tướng chạy lại ôm lấy Thạch. Thạch bịt hai tai lại, để khỏi nghe tiếng tiêu ma quái, nhưng tiếng tiêu vẫn lọt vào tai y. Y hét:
- Lấy giấy cho ta!
Hương-Lan chưa kịp lấy giấy, thì An-Thạch đã xé tờ giấy ở cuốn lịch đặt trên án-thư , vo tròn, rồi nhét vào tai.
Nhưng vô ích.
Múa may một lúc, y ngã ngồi xuống. May thay, lúc đó tiếng tiêu ma quái từ nhỏ dần, rồi tắt hẳn. Mệt quá, y quay lưng dựa vào người Hương-Lan, nói trong hơi thở:
- Hương-Lan, nàng có nghĩ rằng ta điên không? Hay ta bị ma trêu, quỷ ám?
- Thiếp không tin rằng tướng công bị ma trêu, quỷ ám, mà do làm việc quá độ, khiến tâm thần hoảng hốt. Thiếp đã cho mời đại phu. Có lẽ người sắp tới.
An-Thạch với Hương-Lan cùng ngồi ăn chiều. Ăn xong thì đã giờ Tý. Bấy giờ đại phu mới tới. Đại phu là một viên quan ở Thái-y viện, tên Vũ Hồ-Nhân, nổi tiếng là thần-y đương thời. Y với Hương-Lan ra đại sảnh tiếp khách. Sau khi bắt mạch, xem lưỡi, Vũ đại phu nói:
- Thưa quốc công, thiểm chức thấy mạch của ngài trầm, mà xác. Trầm chủ hư chứng, xác chủ nhiệt. Y học gọi là âm-hư nội nhiệt. Âm hư nội nhiệt nặng thì có thể gây nhức đầu chóng mặt, mất ngủ, tai kêu như ve, chứ có đâu lại nghe thấy tiếng tiêu làm cho chân tay múa may?
Ngay lúc đó, người thiếp thứ nhì của An-Thạch là Phương-Lan chạy vào kêu lên:
- Ma quái! Tướng công ơi! Ma quái!
- Cái gì vậy?
An-Thạch hỏi: Ma ở đâu?
- Thưa tướng công, từ nãy đến giờ, thiếp nghe thấy tiếng kêu khóc thảm thiết từ cõi âm vọng về. Đó là tiếng của oan hồn tử sĩ ở Đại-giáp, Hỏa-giáp, Ngọc-tuyền, Ung-châu than thở rằng họ bị chết oan, hồn không siêu thoát được. Họ xin tướng công cho thu nhặt hài cốt đem về cố lý chôn cất.
An-Thạch kinh hãi hỏi:
- Tiếng kêu khóc đó còn không?
- Từ lúc thiếp vào đây thì tiếng kêu đó hết.
Lát sau đến lượt phu nhân, rồi tứ thiếp, lục thiếp cũng chạy vào kêu cứu rằng bị ma quỷ kêu gào giống như nhị phòng. Nhưng khi vào đại sảnh thì tiếng ma gào, quỷ khóc lại hết.
Vũ đại phu bàn:
- Không chừng là ma quỷ thực cũng nên. Vì các vị phu nhân yếu bóng vía, nên bị chúng trêu cợt. Còn quốc công, thì tướng tinh vượng, nên chúng không thể vào đây quấy nhiễu.
An-Thạch là người thực tế, không tin ma quỷ. Y cảm ơn Vũ đại phu, rồi cho về. Y thừ người ra nghĩ thầm:
- Không lẽ có ma, quỷ thực?
Quản gia là người thân tín của Thạch đề nghị:
- Xin quốc công cho tiểu nhân đi mời Thanh-Hư đạo trưởng, để người bắt tà.
An-Thạch chưa quyết định, thì đến lượt tên thư đồng cũng bị ma gào, quỷ khóc, xin được vào đại sảnh lánh nạn. Đến khoảng giờ Sửu, thì hầu như chính thê, thứ thiếp, con trai, con dâu, con gái, nữ tỳ đều bị ma gào, quỷ khóc phải kéo đến đại sảnh ngồi. Giữa lúc đó, có tiếng ngựa hí, tiếng la hét ồn ào. Thạch sai một nữ tỳ ra ngoài hỏi xem cái gì đang xẩy ra, nhưng y thị sợ ma, không dám đi. Lát sau, tiếng la hét im. Đô Kinh chạy vào trình:
- Trình quốc công, tự nhiên bầy ngựa sút chuồng chạy nhảy, cắn nhau, đá nhau lung tung. Tiểu tướng đã cho thân binh bắt đem trở về tầu.
Phút chốc trống điểm canh, báo hiệu đã sang giờ Mão là giờ An-Thạch phải vào Đông-các bàn việc với vua. Tuy mệt lả người, nhưng y vẫn phải ăn một bát cháo, uống chung trà, rồi truyền thắng xe vào Hoàng-thành. Thời bấy giờ dinh tể tướng ở gần cửa Kim-long, phía Tây thành, nên xe phải đi sang hướng Đông rồi mới vào Đông-các được.
Viên gia tướng Đô Kinh kiểm lại xe, cương, ngựa thực kỹ rồi mới tiền hô, hẩu ủng lên đường. Xe vừa ra khỏi cổng phủ, thì dân chúng, xe cộ ùn lại nghẹt cứng. Viên trưởng toán cận vệ Vi Trọng la hét thế nào, cũng không dẹp được đường. Viên gia tướng Đô Kinh vội vọt ngựa về phía trước. Lát sau y trở lại lắc đấu:
- Thưa quốc công, chẳng có gì lạ hết, không biết ở đâu xuất hiện bọn mãi võ kiếm tiền, gồm ba nam, ba nữ. Nam thì hùng vĩ khôi ngô, nữ thì sắc nước hương trời. Bọn này có tài thổi tiêu, khiến cho hàng nghìn con rắn múa theo điệu nhạc rất đẹp. Đội tuần tiễu hỏi lý lịch, thì chúng xưng là người Chàm, nhân bị quân Giao-chỉ chiếm nước, chúng phải tha hương cầu thực. Đội tuần tiễu bắt chúng trói lại giải về phủ thừa Khai-phong. Vì vậy bầy rắn không người điều khiển, chúng bò ra khắp phố. Dân chúng kinh hoảng chạy nhảy lung tung làm kẹt đường.
Y nói nhỏ:
- Mai này tướng công trẩy Nam, đang cần thêm vệ sĩ. Mà đem vệ sĩ có sẵn đi e bị lộ. Bọn Chàm này vốn thù bọn Việt, tướng công nên thu dụng chúng mang theo, như vậy vừa bảo mật, vừa yên tâm.
An-Thạch gọi một viên cận vệ trao cho y tấm lệnh bài:
- Người cầm tấm lệnh bài này đến phủ thừa Khai-phong, truyền giải ba đôi trai gái người Chàm vào Đông-các cho ta ngay.
Đoàn tùy tùng An-Thạch lại tiếp tục lên đường. Khi An-Thạch vừa tới Đông-các đã thấy bọn bộ khoái Biện-kinh giải ba đôi trai gái tới. Ba cặp mặc cùng một thứ y phục, nhưng mầu khác nhau. Một cặp mặc quần áo vàng, một cặp mặc quần áo trắng, một cặp mặc quần áo đen. Thoạt nhìn qua, An-Thạch nghĩ thầm:
- Sao lại có ba đứa con gái đẹp đến như thế kia?
Viên bộ khoái trình bản cung từ của ba cặp nam nữ Chàm. Nội dung bản cung từ như sau: Ba nam đều là tốt trưởng quân Chiêm. Mấy năm trước, quân Giao-chỉ xâm Chiêm quốc. Quân Chiêm tan vỡ, nên ba người đem vợ vượt biển đến Triết-giang xin kiều ngụ. Cả ba cặp đều làm nghề mãi võ, cùng diễn trò để làm kế sinh nhai.
An-Thạch đã đọc rất nhiều tấu chương của Khu-mật viện về Chiêm quốc, nên y biết nhiều về nước này. Y cật cấn những vấn đề về nội tình Chiêm, sáu người trả lời không sai một chút nào. Y tin những lời khai của chúng:
- Các ngươi đã mãi võ ở những vùng nào?
- Thưa, chúng tôi mãi võ ở hầu hết các châu, lộ Nam thùy của Thiên-triều.
- Các người có thuộc đường từ đây đi Ung-châu không?
- Thưa, chúng tôi từng mãi võ kiếm ăn suốt sáu năm qua ở vùng này, nên đường xa, sông núi đều thuộc nằm lòng.
- Các người có biết võ không?
Cả sáu người đều đáp:
- Dạ, biết.
An-Thạch gọi Đô Kinh, ra lệnh:
- Người thử đấu với thanh niên áo đen xem sao!
Y nói với gã áo đen:
- Người hãy chiết ít chiêu với Đô tướng quân. Nếu như bản sự khá, thì ta tha cho, rồi tuyển làm gia tướng.
Gã áo đen dạ một tiếng, bái tổ đứng chờ. Trọng hít hơi xuống trung bình tấn, rồi đấm thẳng về trước đến vù một tiếng. Người áo đen trầm người xuống tránh, tay phải gạt tay phải của Kinh, rồi tay trái trả đòn. Đô Kinh nhảy lùi về sau một bước, để tránh thế phản công, vung chưởng gạt. Binh một tiếng, cát bụi bay mịt mờ. Hai người lảo đảo lui lại gườm gườm nhìn nhau. Thế là hai người đấu với nhau trên trăm chiêu bất phân thắng bại.


HOMECHAT
1 | 1 | 163
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com