Trong ống tre, Mộc-tồn hoà thượng còn đính kèm một thư của ông Thiết viết cho hậu, kể hết sự tình dấu diếm bấy lâu nay. Ông khẩn khoản nhờ hậu tìm mọi cách xin triều đình ân xá cho bà Minh-Giang với Minh-Can. Thái-Ninh hoàng đế thấy mẫu thân khóc, long tâm nhũn ra. Nhà vua hỏi quan Thái-phó Quách Sĩ-An (thầy đồ Thái): - Thưa thầy, trong các đại thần hiện diện, thầy là người duy nhất biết rõ mẫu-hậu từ khi còn thơ ấu. Sự thể đã đến nỗi này, xin thầy dậy cho trẫm biết đạo lý hành xử. Từ hồi nhà vua bốn tuổi, sau khi bàn luận với Ỷ-Lan thần phi, phụ hoàng Thánh-tông đã chọn hai đại thần Quách Sĩ-An, Lý Kế-Nguyên làm thầy dậy văn; và Côi-sơn tam-anh làm thầy dậy võ. Luật triều Lý định rằng: Khi một tân quân lên ngôi vua, thì thầy dậy văn đương nhiên được phong làm Thái-phó. Khi thiết triều Thái-phó được ngồi cạnh nhà vua. Khi tâu không phải xưng tên, chức tước. Sau khi dẹp loạn Dương gia, dù đã có mẫu hậu thính chính, quyết định chính sách, nhưng hàng ngày hai đại thần Quách, Lý thay nhau dạy nhà vua học, cùng cố vấn giải quyết những vấn đề khó khăn. Hôm nay được nhà vua hỏi, Quách Sĩ-An tâu: - Tâu bệ-hạ, trước đậy Dương gia làm loạn, tuy chủ mưu là Dương Đạo-Gia, nhưng thực sự việc phản dân, hại nứớc này do Thượng-Dương thái hậu chủ xướng, tội phải lăng trì. Nhưng tự cổ đến giờ, Đại-Việt ta chưa hề gia hình tới thái-hậu. Vậy thần kính xin bệ-hạ thân đem tất cả những bằng chứng này tới cung Thượng-Dương yết kiến thái-hậu, để người tự xử thì hay hơn. Còn tất cả tòng phạm, chính phạm, xin đem tận số xử lăng trì. Gia thuộc, nếu là nam, tuổi từ mười ba trở lên bắt xung quân trọn đời; nếu là nữ thì đem chia cho binh lính biên cương giải phiền trong lúc xa nhà. Ngự-sử đại phu Hoàng Khắc-Dụng quay lại hỏi Thái-sư Lý Đạo-Thành: - Thái-sư thờ đã bốn triều vua, công lao thực không nhỏ. Nhưng tôi lĩnh chức Ngự-sử, nên bắt buộc phải hỏi Thái-sư ít câu. Căn cứ vào đâu mà khi đức Thánh-tông băng hà, Thái-sư lại để Dương thái hậu thính chính? Lý Đạo-Thành cau mặt, vì quan giai, Khắc-Dụng nhỏ hơn ông rất xa. Nhưng chợt ông nghĩ lại: Khắc-Dụng là Ngự-sử đại-phu, nên ông miễn cưỡng đáp hời hợt: - Một là tôi căn cứ vào di chiếu của tiên-đế. Hai là tôi căn cứ vào đạo-lý. Trong lịch sử Hoa, Việt, khi vua băng hà, mà ấu quân kế vị, thì đích mẫu là hoàng-hậu đương nhiên buông rèm thính chính. Gần đây nhất, khi vua Chân-Tông bên Tống băng, thì Lưu thái hậu thính chính, vì bà là đích mẫu. Khắc-Dụng hỏi gằn: - Thái-sư là quan cao nhất triều, thay Thiên tử, thống bách quan, bình thứ chính. Đúng ra, khi Hoàng-thượng lên ngôi, sau khi tôn miếu hiệu tiên-đế, ban chế tôn Dương hậu làm Thượng-Dương thái hậu... thì phải tôn phong Thần-phi ngay mới phải. Thế tại sao mãi mấy ngày sau Thái-sư mới cho ban chế tôn người làm Hoàng-thái phi? Lại không sai sứ đi đón Thái-phi về chịu tang? - Tôi... tôi bận quá nên sơ sót. - Thái-sư trả lời không thành thực. Vì rõ ràng sau khi vua Thánh-tông băng, Dương hậu sai đóng tất cả cửa thành, cửa cung, rồi mới triệu đại thần vào đọc di chiếu. Di chiếu đó do chính Thái-sư đọc. Vậy di chiếu đó do ai soạn, do ai viết? Có được đức Thánh-tông kiềm thự không? Mặt Lý Đạo-Thành tái xanh, ông trả lời ấp úng: - Chiếu đó do tôi soạn rồi trình lên cho đức Thánh-tông. Nhưng ngài không ký ngay. Theo Dương thái hậu, thì ngài ký trước khi băng hà chỉ có một giờ. Thành ra lúc ngài ký chỉ có Dương thái hậu biết mà thôi. Hoàng Khắc-Dụng đem cái hộp bằng vàng ra, rồi mở nắp trưng cho mọi người thấy: - Đây! Chữ ký này không phải của đức Thánh-tông, mà do một người khác nhái theo, thành ra không giống. Thái-sư có thấy như vậy không? - Hôm ấy nghe tiên-đế băng, lòng tôi đau như dao cắt, thành ra có chỗ sơ sót. - Tôi không tin. Bất cứ ai cũng có thể sơ sót, nhưng đối với Thái-sư thì không thể. Một là Thái-sư chầu hầu bên ngài đến mấy chục năm liền; thì hẳn biết rõ bút tự, chữ ký của ngài. Hai là xưa nay Thái-sư vốn cẩn thận tỷ mỉ, nay di chiếu là điều cực kỳ quan trong thì không thể có việc sơ sót. Ba là, phàm khi đọc di chiếu, phải trưng ra cho tất cả các quan đều xem. Thế sao hôm ấy Thái-sư đọc xong là cất đi ngay. Tôi muốn Thái-sư nói thực đi, may ra Hoàng-thượng cứu mệnh cho Thái-sư với cả nhà. Bằng như thái-sư muốn che dấu, tôi e khi Mộc-tồn hòa thượng ra tay, thì vợ con, gia thuộc Thái-sư bị giết chết đã đành, mà đến con chó, con mèo cũng không sống sót đâu. Lý Đạo-Thành oà lên khóc, ông hướng Linh-Nhân hoàng thái hậu: - Thần quả có tội, xin Thái-hậu cho được chết toàn thây, còn vợ con, gia thuộc, mong Thái-hậu chu toàn cho. - Cô phụ này tuy là Thái-hậu, nhưng chỉ là một sư điệt của Mộc-tồn hòa thượng thì làm sao mà cản được người? Không biết tiên-nương Bảo-Hòa, Thiếu-Mai ở đâu, phải thỉnh hai vị về mới cứu được Thái-sư và gia thuộc. - Tâu Thái-hậu, thần có cách cứu Thái-sư. Âu Hoàng tâu: Sư phụ thần cực kỳ yêu thương Trung-Thành vương, Tín-Nghĩa vương với Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt. Vậy bây giờ chưa tìm được hai tiên-nương, thì chỉ cần mười bốn vị này cùng viết sớ xin cho Thái-sư được hưởng án treo. Mặt khác Hoàng-thượng ban chỉ phạt Thái-sư về tội bất cẩn. Như vậy thì sư phụ thần sẽ không thi hành án ngay. Trong thời gian đó, triều sai sứ đi thỉnh nhị vị tiên-nương. Mười bốn người vội cùng nhau viết một tờ sớ, rồi cùng ký vào, dâng lên cho nhà vua xem. Công-chúa Thiên-Ninh dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai nhà vua. Nghe chị mở lời, lập tức nhà vua tuyên chỉ: - Xét kỹ ra, Thái-sư niên kỷ đã cao, nên có chỗ lầm lẫn. Vậy giáng xuống làm Tả gián-nghị đại-phu, lĩnh chức tổng-trấn Nghệ-an. Hai châu Bố-chính, Ma-linh của Chiêm nhập vào Việt đã ba năm, mầm mống chống đối không còn, chẳng nên để trọng binh ở đó; cũng không cần đại tướng trấn ngự, mà cần quan văn phủ dụ, tổ chức cai trị. Vậy Trung-Thành vương trở về lĩnh Tổng-trấn Thăng-long, quản Khu-mật viện. Tín-Nghĩa vương Tổng lĩnh Thiên-tử binh. Thái-sư lĩnh thêm chức Phủ-viễn đại-thần, để tổ chức cai trị hai vùng Ma-linh, Bố-chính. Triều thần kinh ngạc đến ngẩn người ra, rồi tự hỏi: Ông vua bẩy tuổi này sao mà sáng suốt vậy? Không lẽ Khai-Quốc vương nhập vào ngài? Thấy Linh-Nhân hoàng thái hậu gật đầu tỏ ý tán thành chỉ dụ của Thái-Ninh đế. Quách Sĩ-An tiếp: - Còn bà Minh-Giang với Minh-Can, ngoài tội phản dân, hại nước ra, lại can tội sát nhân. Đúng ra hai người này nằm trong Bát-nghị, nhưng cái tội phản quốc là một trong tội Thập-ác thì không thể được hưởng. Xin đem hai người này xử lăng trì để nêu chính pháp. Nhà vua lắc đầu: - Thầy luận thực sáng như trăng rằm. Nhưng thưa thầy, ngoại tổ của trẫm có viết thư xin mẫu hậu ân xá cho hai người đó, thì trẫm phải làm sao bây giờ? - Tâu bệ-hạ. Quan ngự sử đại phu Hoàng Khắc-Dụng cung tay: Làng có lệ, nước có luật. Huống hồ bộ Hình-thư đã được soạn vào thời đức Thái-tổ, được đức Thái-tông tu bổ, đặt trên căn bản nhân-trị của Nho-gia, từ bi hỉ xả của Phật-gia. Hai can phạm Minh-Giang, Minh-Can là hai con mãng xà hung ác đến tận cùng, triều đình đã ân xá mấy phen, mà chúng còn tái phạm, như vậy tỏ ra chúng không coi phép nước ra gì cả. Xin bệ-hạ cứ chiếu luật xử, không thể khoan hồng. Triều đình cùng luận bàn, nhưng không giải quyết được. Giữa lúc đó, một viên quan Khu-mật viện vào trình tấu chương khẩn của phủ thừa Thăng-long. Thái-phó Quách Sĩ-An đọc qua, rồi tâu: - Quan phủ-thừa Thăng-long thượng biểu tâu về một sự quái lạ xẩy ra ở ngoại thành. Từ hai ngày hôm nay, chỗ tượng bà Banh có ba người đàn bà mắt bị mù, miệng bị câm, cụt hai bàn tay, hai tai với mũi bị xẻo, lê lết ăn xin. Thế nhưng không biết lý lịch ra sao. Rồi ông trình tờ biểu lên cho nhà vua. Thái-Ninh đế hỏi triều thần: - Bà Banh là ai? Tại sao lại có tượng? Triều đình đều ngơ ngác lắc đầu. Duy Long-biên ngũ-hùng, Tây-hồ thất kiệt đều nhìn nhau cười mà không phải cười, trong khi nét mặt trông rầt kỳ khôi. Trung-Thành vương hỏi: - Các đô-thống chắc biết rõ chuyện bà Banh, vậy hãy tâu lên hoàng-thượng. Đô-thống Phạm Dật cung tay: - Tâu bệ-hạ, Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt trước đây từng đi ăn xin lê lết khắp Thăng-long, nên đã nghe biết chuyện bà Banh. Nhưng không dám tâu, sợ phạm tội bất kính. Linh-Nhân hoàng thái hậu chỉ Lý Đoan: - Lý đô-thống, hãy tâu chuyện bà Banh lên hoàng-thượng, dù chuyện đó thô tục đến đâu chăng nữa. Lý Đoan bước ra: - Tâu bệ-hạ, vào thời Thuận-Thiên, ở làng Yến-vĩ sương-sen có một mụ họ Đặng tên Anh, sau lấy chồng là y-sư Trần Tấn-Khang nên đương thời người ta thường gọi mụ là Anh-Trần. Mụ đi theo Hồng-thiết giáo, mở hội Vu-sơn, trai gái giao hoan tập thể cực kỳ đồi phong bại tục. Mụ hủ hóa với cả con rể, với cả chó, đười ươi. Mụ thu nhận nhiều đệ tử, trong đó có tên Nguyễn Quý-Toàn, Đặng Đức-Cần. Tên Cần này mắt cá chuối, đầu như đầu bò liếm, nên còn gọi là Cần mắt cá quả. Sau tên Cần bị đại hiệp Thông-Mai giết cả nhà. Còn tên Toàn, thì tuy ngu đần, dốt nát, nhưng có bà vợ xinh đẹp, buôn bán giỏi giang tên Phượng-Anh. Thế nhưng y lại bỏ vợ theo mụ điếm già Anh-Trần, tôn mụ làm sư mẫu. Đại hiệp Thông-Mai bắt y chui đầu qua háng bà vợ mười vạn lần, mỗi ngày phải uống ba bát nước tiểu, ăn một bát phẩn, bắt quỳ gối ở đầu làng, ai đi qua cũng phải nhổ nước miếng vào mặt. Sau trận đánh Yến-vĩ sương sen, tiên-nương Bảo-Hòa truyền đem mụ Anh-Trần với tên Quý-Toàn ra tùng xẻo. Đại-hiệp Thông-Mai sai người tạc tượng con mụ Anh-Tần theo tư thế trần truồng, dạng hai chân ra, đầu nghẹo sang một bên, hai tay banh « cái nớ », cổ đeo ngọc. Dưới chân tượng để một cái chầy đá. Từ đấy ai đi qua cũng cầm chầy thọi vào « cái nớ », rồi nhổ nước bọt vào mặt pho tượng. Lâu ngày dân chúng không nhớ cái tên Đặng Anh-Trần, mới nhân tượng « banh » mà gọi là bà Banh. Ghi chú, Chuyện dâm đãng cùng cực của mụ Đặng Anh-Trần, xin xem Anh-hùng Tiêu-sơn, Thuận-thiên di sử, Anh-hùng Bắc-cương và Anh-linh thần võ tộc Việt của Yên-tử cư-sĩ. Pho tượng này vào thời Lê vẫn còn. Bằng cớ là Nguyễn Quỳnh tức trạng Quỳnh -1687 mất ngày 26 tháng Giêng năm Mậu-Thìn, niên hiệu Cảnh-hưng thứ 9 -1724, ông thấy dân chúng tin dị đoan, thường cúng vái bà Banh. Trạng ngứa mắt, có đề một bài thơ lên tượng; tượng toát mồ hôi ra, rồi từ đấy hết thiêng. Bài thơ như sau: Khéo đứng ru mà đứng mãi đây, Khen ai đẽo đá tạc nên mày? Trên cổ đếm đeo dăm chuỗi hạt, Dưới chân đứng chéo một đôi giầy. Cởi váy, phất cờ trêu ghẹo tiểu, Để đồ bốc gạo thử thanh thầy. Có ngứa gần đây nhiều gốc dứa, Phô phang chi ở đám quân này? Khéo đứng, nói lái đi thành đứng đéo. Đẽo đá, nói lái đi thành đã đéo. Đếm đeo, nói lái đi thành đéo đêm. Đứng chéo, nói lái đi thành đéo đứng.
Trung-Thành vương bảo Đinh Hoàng-Nghi: - Sư đệ với Phương-Quỳnh ra quan sát sự thể rồi vào đây tâu lại. Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh đi một lát rồi trở lại tâu: - Tâu, ba người đàn bà đó, trên cổ đều có đeo cái xương đầu lâu chó. Mọi người đều bật lên tiếng kêu: - Mộc-tồn vọng thê hoà thượng! Phương-Quỳnh tiếp: - Cả ba đã bị Mộc-tồn đại sư dùng thuốc trấn vào kinh mạch khiến cho mắt mù, lưỡi cứng như cá khô, nói không được. Ngài lại cắt cụt hai bàn tay của họ, khiến khi ăn họ phải xốc như chó, như lợn. Huynh trưởng Thần-vũ thập anh là Hùng Nhân tâu: - Thỉnh Thái-hậu với hoàng-thượng minh kiến, xưa nay sư phụ của hạ thần đã trừng phạt tội nhân nào, thì những kẻ đó không bao giờ bị xử oan ức cả. Chắc ba người này phạm trọng tội ghê lắm, mà triều đình và các quan ân xá, nên người mới ra tay. Dù sao cũng còn tính trẻ con, nhà vua hỏi: - Đinh đô-thống có tìm ra lý lịch ba người đàn bà đó không? - Tâu bệ-hạ, hạ thần biết rất kỹ về ba người này. Họ không phải ai đâu xa lạ, một người là bà Minh-Giang dì ghẻ của thái-hậu, một người là ả Minh-Can em thái-hậu, một người là mụ Sửu người ở cũ nhà thái-hậu. Chính phủ-thừa Thăng-long biết rằng ba người này bị Mộc-tồn hòa thượng trừng phạt, nên không ai dám di chuyển họ đi. Thế là triều đình bỏ qua vụ xử hay không xử Minh-Giang, Minh-Can. Linh-Nhân hoàng thái hậu ban chỉ: - Bây giờ phiền sư huynh Đại-tư-mã Thường-Kiệt với Thần-vũ thập anh hộ giá Hoàng-thượng sang cung Thượng-Dương, trao tất cả hồ sơ nội vụ, để Thượng-Dương thái hậu tự xử. Bỗng Hoàng-môn quan vào tâu: - Tâu bệ-hạ có một người đàn ông, một người đàn bà cỡi ngựa, với mươi tùy tùng xin vào yết kiến bệ-hạ. Nhà vua hỏi: - Họ có xưng tên không? - Tâu, họ trao cho thần hai thanh kiếm, rồi nói rằng : « Chủ hai thanh kiếm xin cầu kiến » . - Đem kiếm vào đây. Hoàng-môn quan dâng hai thanh kiếm, vỏ dát ngọc sáng ngời. Lý Thường-Kiệt tiếp kiếm rút ra khỏi vỏ, bất giác mặt ông trở thành nghiêm trọng, trong lòng hân hoan không bút nào tả siết, rồi nói bằng giọng cực kỳ kính trọng: - Tâu bệ-hạ, họ chính... chính là Kinh-Nam vương với công chúa Huệ-Nhu. Nhắc để độc giả nhớ: Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai và công chúa Huệ-Nhu được võ lâm Hoa-Kiệt gọi là Ưng-sơn song hiệp. Suốt bốn mươi năm qua, hai vị khi thì trấn thủ biên giới Hoa-Việt, khi thì đánh Tây-Hạ, khi thì đánh Liêu; vương là người dùng binh giỏi nhất Hoa-Việt, võ công cao siêu không biết đâu mà lường. Hai vị lại có tai mắt đệ tử khắp nơi, chuyên xử tử bọn quan lại nhũng lạm, bọn gian thần tặc tử, bọn chủ trương chia rẽ tình Hoa-Việt. Vì vậy ngay vua Tống như Nhân-Tông, vua Việt như Thái-tông, Thánh-tông... mỗi khi nghe đến tên vương cũng cảm thấy lạnh gáy. Vương hiện được phong Thái-sư thượng-phụ, Kinh-Nam vương, cao hơn tước Giao-chỉ quận vương của Thái-Ninh đế nhiều. Vì vậy, nghe Thường-Kiệt tâu, Linh-Nhân hoàng thái hậu tuyên chỉ: - Tất cả chúng ta phải ra nghênh đón vương. Tới cửa Đại-hưng, Linh-Nhân hoàng thái hậu hô: - Cô phụ Lê-thị Yến-Loan, vương nhi Càn-Đức cùng bách quan tham kiến đại vương và công chúa điện hạ. Bọn thần không biết đại vương với điện hạ giá lâm để đón, mong đại đức ân xá. Kinh-Nam vương đáp lễ, rồi cười: - Dù tôi có làm quan lớn đến đâu, thì cũng chỉ là một con dân Đại-Việt. Tôi về thăm quê với tư cách là người Việt, chứ không phải ông vua. Không dám nhọc ngọc thể Thái-hậu với Hoàng-thượng nghênh đón. Thoáng trông thấy Tôn-Đản, vương tung mình nhảy đến bên ông, rồi cả hai ôm lấy nhau, nước mắt cùng dàn dụa. Tôn Đản nói trong nước mắt: - Chú Sáu, anh nhớ chú qua. Chúng ta xa nhau, thoáng một cái mà đã bốn mươi bốn năm. - Em cũng nhớ anh Năm muốn mờ con mắt. Thấy Côi-sơn tam anh, vương chạy lại cung tay: - Tiểu đệ xin tham kiến đại, nhị, tam sư huynh. Giữa lúc mọi người đang chào mừng Kinh-Nam vương với công chúa Huệ-Nhu, chưa ai kịp hỏi tại sao đường xa diệu vợi, quân vụ khẩn cấp mà hai vị lại trở về Đại-Việt như thế này... thì thấy khói bốc lên mờ mịt ở trong Hoàng-thành. Một thị-vệ phi ngựa ra tâu với nhà vua: - Tâu bệ-hạ, cung Thượng-Dương bỗng bốc cháy bốn bề một lúc. Không biết ai tẩm dầu, để lưu huỳnh khắp cung, nên lửa vừa bốc lên là cháy lớn. Hiện thị-vệ đang chữa cháy, nhưng e không kịp. Tuy cung Thượng-Dương cháy, nhưng mọi người vẫn không chú ý, mà cùng nhau tiếp đãi Kinh-Nam vương. Tới điện Càn-nguyên, Linh-Nhân hoàng thái hậu có ý để vương ngồi cao hơn Thái-Ninh đế, công chúa Huệ-Nhu ngồi trên bà. Nhưng vương tự kéo ghế mình ngang với nhà vua; công chúa kéo ghế ngang với thái-hậu. Thường-Kiệt nguyên là con của Ngô An-Ngữ, sư huynh của vương, trước đây vương thương yêu ông cùng cực, vì vậy ông đứng ra giới thiệu từng quan chức hiện diện với vương. Vương đưa mắt nhìn Trung-Thành vương Hoằng-Chân, Tín-Nghĩa vương Chiêu-Văn, rồi vẫy tay gọi hai vị lại gần. Vương nắm tay hai cháu: - Cậu thực có lỗi với mẹ cháu. Ai đời, hai cháu sinh lúc nào cậu không hay, lớn lúc nào cậu không biết. Nay hai cháu đã thành đại thần, cậu mới thấy mặt. Trận đánh Chiêm vừa rồi, hai cháu thực xứng đáng là cháu của cậu. Công-chúa Huệ-Nhu vẫy gọi vương phi Trinh-Dung, Ngọc-Nam lại bên cạnh rồi nắm lấy cổ tay. Lập tức hai vương phi cảm thấy cổ tay mình như bị ngoặm một miếng. Phản ứng tự nhiên, hai người vận công chống trả, nhưng cũng đau thấu tâm can. Công chúa buông tay hai người ra rồi gật đầu: - Đẹp thực! Nội công cao thực. Gớm, học trò công chúa Cẩm-Thi với Long-thành ẩn sĩ có khác. Ngô Cẩm-Thi cười vui vẻ: - Nào, bà mợ trắc nghiệm võ công cháu dâu rồi, có gì cho cháu không nào? - Có chứ! Công-chúa Huệ-Nhu móc trong cái túi đeo bên mình ra hai con phụng bằng vàng, trên dát kim cương sáng lóng lánh. Bà cài vào mái tóc hai vương phi: - Gọi là chút quà diện kiến, mợ cho hai cháu dâu. Trung-Thành vương, Tín-Nghĩa vương cùng hai vương phi tạ ơn, rồi chắp tay đứng hầu sau Kinh-Nam vương với công chúa Huệ-Nhu. Kinh-Nam vương gọi Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt lại gần. Mười hai người từng là đại tướng xông pha trận mạc, đối diện với cái chết thường trực; thế mà đứng trước vương, cả mười hai người đều không dám nhìn thẳng vào mặt. Vương hỏi: - Mười hai cháu đếu là đệ tử của Khai-Quốc vương, thế thì cũng là cháu gọi ta bằng cậu. Các cháu thử nhìn thẳng vào mặt ta xem nào! Cả mười hai người đều nhìn thẳng vào mặt vương. Bất giác họ cùng ngẩn người ra. Vì cứ nghe danh vương, họ những tưởng tướng mạo vương dữ dằn, oai nghiêm ghê lắm. Không ngờ, trước mặt họ, họ chỉ thấy một nam tử ôn nhu, gương mặt hòa nhã, nói năng ôn tồn. Vương chỉ Phạm Dật: - Các cháu nghĩ gì về cậu? - Thưa cậu, cháu thấy cậu mợ ôn nhu, dịu dàng hơn cả cậu mợ Năm (Tôn Đản), ngang với vua bà Bình-Dương phò mã Thân Thiệu-Thái, U-bon vương Lê Văn công chúa Nong-Nụt. Thế mà... Vương cười: - Nếu cứ nghe người ta đồn đại, thì các cháu tưởng đầu cậu có sừng, miệng cậu có nanh hẳn? Công-chúa Thiên-Ninh bật cười: - Dạ, hơn thế nữa! Cả mười hai tướng trẻ đều gật đầu, hưởng ứng lời Thiên-Ninh. Công chúa Huệ-Nhu nắm tay công chúa Thiên-Ninh kéo lại bên cạnh, bà vòng tay ôm lấy ngang lưng nàng, rồi cười: - Từ xưa đến giờ, ta với vương tuy mang tên Ưng-sơn song hiệp thực; nhưng những vụ án lớn, đều không do chúng ta xử, mà những người khác « bắt nạt » chúng ta, mạo danh chúnng ta mà xử. Cứ mỗi khi gặp kẻ có tội, họ xử bừa, rồi đổ lên đầu chúng ta. Nghe công-chúa kể « bị người ta bắt nạt » bất giác mọi người đều bật cười. Công-chúa Thiên-Ninh lắc đầu: - Cháu tưởng trên đời này đến Ngọc-Hoàng đại đế, Diêm-La lão tử thấy vương gia với điện hạ cũng phải run rẩy, thì hỏi rằng ai mà dám bắt nạt Ưng-sơn song hiệp? Vương chỉ vào Tôn Đản, Cẩm-Thi: - Thì ông bà này chứ ai? Lại còn bà La-sát Thanh-Mai, bà Chằng-lửa Bảo-Hòa, bà Chằng-tinh Thiếu-Mai nữa. Công-chúa Huệ-Nhu chỉ vào Côi-sơn tam anh: - Ba ông kẹ này còn khiếp đảm hơn ai hết. Những vụ án kinh hồn táng đởm trên đất Tống là do ba ông xử cả. Còn những vụ án ở trên đất Việt là do Quốc-mẫu Thanh-Mai, ông bà Long-thành ẩn sĩ xử. Trong Thuận-Thiên thập hùng thì duy bà Bình-Dương là không xử ai. Còn bất cứ ông nào, bà nào cũng có thể xưng là Ưng-sơn song hiệp, mà chúng ta đành chịu thua, có dám nói gì đâu? Linh-Nhân hoàng thái hậu hỏi: - Khải đại vương, thế vụ án Trịnh Quang-Thạch do ai xử? Vụ này có tác dụng làm bọn gian thần tặc tử sợ hãi đến không biết chúng là ai nữa! Công-chúa Huệ-Nhu cười rất tươi: - Thái-hậu thử đoán xem là ai? - Cháu thực không đoán ra. - Thái-hậu không đoán ra là phải. Người xử vụ ấy là Yên-vương vương phi tức tiên-nương Thiếu-Mai. Tất cả mọi người đều bậy lên tiếng ồ : Nhà vua hỏi: - Khải đại-vương, cháu sinh sau, đẻ muộn, từ hồi có trí nhớ đã nghe danh Mộc-tồn vọng thê bồ-tát. Mỗi hành xử của ngài đều khiến bọn đầu trộm đuôi cướp, bọn sâu dân mọt nước kinh tâm động phách. Vậy ngài là ai? - Tôi thực không giám nói. Tôi chỉ xin hé lộ để bệ-hạ biết, hoà thượng là người đã dành cả cuộc đời để bảo vệ tộc Việt. Vợ chồng chúng tôi thấy người, là bỏ trốn biệt. Thấy đến Ưng-sơn song hiệp mà còn kinh sợ Mộc-tồn hòa thượng, thì mọi người đều nghĩ thầm rằng, có thể ông là Hồng-Sơn đại phu, Thiên-trường ngũ kiệt. Nhưng không ai đoán ra được cả. Đến đó quan tổng-lĩnh thị-vệ Hùng Lễ vào tâu: - Tâu bệ-hạ, cung Thượng-Dương bị người ta tẩm dầu, đặt lưu huỳnh khắp nơi, điểm huyệt Thượng-Dương thái hậu với bẩy mươi sáu cung nữ rồi châm lửa đốt, nên đội cứu hỏa tuy có ra tay, mà không cứu được một người nào. Thần xin chịu tội với bệ-hạ. Kinh-Nam vương xua tay: - Sư điệt! Người không có lỗi gì cả. Vụ này chính chúng ta ra tay. Cái con mụ Dương Hồng-Hạc này thực là một con ác quỷ. Chỉ nguyên tội đánh thuốc mê tĩnh thân Thường-Kiệt cũng đủ xử lăng trì rồi. Thị lại dấu Đinh Hiền xưng là Nguyễn Bông trong cung để hành lạc làm ô uế hậu cung. Thị còn trốn ra ngoài họp với Tống mưu cướp ngôi vua nữa. Khi việc phát giác, vua Thánh-tông ân xá cho thị. Tưởng như vậy thị đã hối hận, không ngờ thị âm thầm báo mọi kế hoạch bình Chiêm cho bọn Hồng-thiết giáo. Vì vậy mới có việc Chiêm biết hết kế hoạch của ta. Cuối cùng, thị chuẩn bị kế hoạch cướp ngôi vua khi đức Thánh-tông băng hà, suýt nữa gây ra cuộc tương tàn đổ máu. Nhờ di chiếu của Quốc-phụ, thị được ân xá, nhưng thị vẫn cứ tìm cách hại dân, phản quốc, thị thông báo mọi quốc kế cho Tống. Giả như Mộc-Tồn hòa thượng không khám phá ra, thì quốc kế về Liêu, Hạ đã bị Tống qhá rồi khống? Ba phái đoàn của ta khó bảo toàn tính mệnh. Công chúa Huệ-Nhu tiếp lời Kinh-Nam vương: - Biết bao nhiêu kế sách của chúng ta với Đại-Việt mưu cầu cho Hoa-Việt sống thanh bình từ triều vua Nhân-Tông đến giờ, đều bị con quỷ cái báo cho Tống biết hết. Nay vì muốn hạ chúng ta, Hy-Ninh đế mới trao những mật tấu của Hồng-Hạc cho tên Vương An-Thạch. Thạch đem những thứ đó đưa ra triều nghị, kết tội ta cùng vương thông đồng với ngoại quốc. Việc này đưa tới vương với ta không thể cầm đại quân nữa. Chúng ta nghĩ: Việc làm của chúng ta quang minh lỗi lạc, khi thác không phải hổ thẹn với liệt tổ Trung-nguyên, Đại-Việt là được rồi. Cho nên chúng ta cáo quan mà về đây. Thị thực là con rắn độc nằm trong hoàng-cung. Chúng ta cũng biết triều đình Đại-Việt không thể giết thị, nên chúng ta phải ra tay. Kinh-Nam vương nói với Thái-Ninh đế: - Chúng tôi xử tử Dương Hồng-Hạc với bẩy mươi sáu cung nữ xuất thân từ Hồng-thiết giáo, rồi đốt cung Thượng-Dương. Nếu như bệ-hạ với triều đình bắt lỗi, thì chúng tôi xin chịu. Từ khi có trí khôn, nhà vua được chị là công chúa Thiên-Ninh thuật cho không biết bao nhiêu huyền thoại về Ưng-sơn song hiệp, Mộc-tồn vọng thê hòa thượng. Trong tâm tưởng, nhà vua kính trọng ba người này như thần như thánh. Nay nghe vương tự nhận lỗi, nhà vua xua tay: - Đại vương vì Đại-Việt mà trừ gian, khiến toàn tộc Việt đều thâm cảm, có đâu cháu dám bắt lỗi. Ghi chú, Các bộ sử Việt như ĐVSKTT, Việt-sử lược, An-nam chí lược, cho đến Tống-sử đều chép mơ hồ về sự kiện này như sau: « Quý-Sửu, Thái-Ninh năm thứ nhì (1073), bên Tống là niên hiệu Hy-Ninh thứ sáu. Giam Hoàng thái hậu họ Dương, tôn Hoàng thái-phi làm Linh-Nhân hoàng thái hậu. Linh-Nhân có tính hay ghen, cho mình là mẹ mà không được dự chính sự, mới dụ với nhà vua rằng : "Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú quý người khác được hưởng, thế thì sẽ để mẹ già vào đâu ?". Vua bèn sai giam Dương thái hậu và 76 cung nữ vào cung Thượng-Dương, rồi bức phải chết theo lăng Thánh-tông ».
Ngô Sĩ-Liên phê bình: Nhân-tông là người hiếu. Linh-Nhân là người sùng đạo Phật, sao lại đến nỗi giết đích Thái-hậu, hãm hại người vô-tội, tàn nhẫn đến như thế ư? Vì ghen là thường tình của đàn bà, huống chi là mẹ đẻ mà không được dự chính sự? Linh-Nhân dẫu là người hiền cũng không thể nhẫn nại được, cho nên phải dụ với vua. Bấy giờ vua còn trẻ thơ, chỉ biết chiều lòng mẹ là thích, mà không biết là lỗi to. Thái-sư Lý- Đạo-Thành phải ra trấn bên ngoài, biết đâu chẳng vì can gián việc ấy ? Sự kiện này hết sức phi lý. Vì bấy giờ, nhà vua mới bẩy tuổi, làm sao có đủ uy tín, khả năng lật đổ một Thái-hậu đang cầm quyền, với một Thái-sư kinh nghiệm, cao niên như Lý Đạo-Thành ? Cho nên khi viết những giòng này, tôi bỏ không theo sử Việt, Tống-sử; mà theo gia-phả của giòng họ Lý tại Bắc-Hàn chép về Linh-Nhân hoàng thái hậu. Còn việc Thượng-Dương thái hậu bị đốt chết với bẩy mươi sáu cung nữ, tôi theo bộ QTNC, TTCTGCK cũng như mộ chí, văn bia các công thần Tống được chép thành sách mang tên TTCTBK. Trong ba tài liệu trên đều chép rằng Tống sai người sang hứa phong cho Dương Đạo-Gia làm Giao-chỉ quận vương. Vậy hãy tổ chức binh biến cướp ngôi họ Lý. Nếu tổ chức binh biến thất bại, quân Tống sẽ vượt biên sang giúp. Dương gia tin thực. Nhưng khi sự thất bại, thì quân Tống không qua như lời hứa. Tống làm việc này chỉ với mục đích làm cho Giao-chỉ có nội chiến. Về việc Dương thái hậu cùng bẩy mươi sáu cung nữ bị giết, uyên nguyên ra sao, chỉ độc giả Nam-quốc sơn-hà mới biết sự thực mà thôi. Chợt Kinh-Nam vương liếc nhìn cung nữ đứng hầu sau lưng Linh-Nhân hoàng thái hậu rồi cau mày lại nhìn công chúa Huệ-Nhu như hỏi ý kiến. Công chúa cũng đưa mắt nhìn cung nữ ấy tồi lại lắc đầu. Vương trầm tư một lúc, rồi nói với ba đoàn mật sứ sang Tống, Liêu, Hạ: - Thôi! Các vị cứ yêm tâm lên đường. Trong bóng tối, người của ta sẽ theo dõi, giúp đỡ các vị. Chuyến đi của các vị không giúp Đại-Việt, cũng chẳng giúp Tống, Liêu, Hạ, mà vì thiên hạ làm mất đi cái mầm binh lửa khiến người chết, nhà tan mà thôi. Vương nói với Động-đình thất kiệt, Tuyết-sơn thập anh: - Các vị tuy sinh làm con dân Tống, nhưng tổ tiên gốc ở vùng Kinh-hồ, tức xưa kia là người Việt. Cô gia tước phong Kinh-Nam vương, cai trị vùng này mười năm qua, nên hiểu rất rõ các vị. Các vị là những đại hiệp, học võ với nguyện vọng hành hiệp cứu nguy phò khốn. Thế mà các vị bị tên cẩu Nho Vương An-Thạch trong triều Hy-Ninh coi như bọn đầu trộm đuôi cướp, rồi đẩy các vị vào chỗ chết. Rất may, khi các vị bị cùng đường, Đại-Việt không những không thù oán các vị, mà còn đãi các vị vào bậc quốc sĩ. Nay các vị được trao trọng trách thiêng liêng, là làm tắt ngọn lửa chiến tranh giữa bốn nước, đó là dịp các vị được tỏ rõ chân bản lĩnh vì đời, cho đời. Thôi chúc các vị lên đường may mắn. Vương đưa mắt nhìn Hoàng-Nghi, nhìn cung nữ đứng sau thái-hậu: - Hồi bình Chiêm, bọn Long-biên ngũ-hùng các người với bốn cô vợ, do không tinh tế, để đến nỗi gây ra mối hận tình thiên thu, đầy oan khuất cho Nang-Chang-Lan. Vì ân hận, người xin với Linh-Nhân hoàng thái hậu để tìm nàng trong ba năm. Sau ba năm nếu không thấy tin tức Chang-Lan người mới cưới Phương-Quỳnh, có đúng thế không? - Thưa cậu vâng. - Tại sao năm ngoái người lại cưới Phương-Quỳnh? Người là con nhà danh gia, học thức uyên bác, mà sao lại thất hứa như thế? Ta phải đánh cho người què chân mới được. Nghe vương kết tội, Hoàng-Nghi cảm thấy lạnh gáy. Linh-Nhân hoàng thái hậu đỡ lời cho Hoàng-Nghi: - Khải đại-vương, việc Nghi đệ cưới vợ là do cháu thôi thúc. Nguyên năm trước, cháu thấy Nghi đệ tuổi đã lớn, Phương-Quỳnh cũng vậy; mà cái thời hạn Nghi đệ đi tìm Chang-Lan cũng đã quá ba năm, nên cháu khải với Quốc-mẫu, với sư-huynh Thường-Kiệt, rồi cho làm lễ thành hôn. - Việc đó tôi biết. Nhưng tôi hỏi tội Hoàng-Nghi, vì y thất hứa. Rõ ràng sau khi biết Nang-Chang-Lan oan, y vào Chiêm tìm nó, và đã gặp lại nó sau ba tháng. Từ đấy y với Chang-Lan như bóng với hình. Cho đến ngày y cưới Phương-Quỳnh, Chang-Lan đâu có xa nó? Lời kết tội của vương gây ra một súc cảm lớn cho toàn thế triều đình Đại-Việt. Vì ai cũng tưởng Hoàng-Nghi chung tình, tìm Chang-Lan trong ba năm mà không thấy, rồi mới cưới Phương-Quỳnh. Không ngờ bây giờ nảy ra vụ Hoàng-Nghi đã tìm thấy Chang-Lan từ lâu. Hoàng-Nghi mở miệng định biện luận, thì công chúa Huệ-Nhu vẫy tay, ngụ ý không cho nói: - Ta cho cháu suy nghĩ một khắc rồi hãy trả lời. Sau một khắc, công-chúa hỏi: - Cháu nghĩ ra chưa? - Thưa mợ cháu không nghĩ ra. Chợt Phương-Quỳnh bật lên tiếng kêu: - À, phải rồi! Phải rồi. Anh đã thấy Chang-Lan, nhưng anh không nhận ra nàng! - ??? - Chang-Lan đã giả làm con nữ tỳ Nang-Trúc, sống bên anh hơn ba năm mà anh không biết. Cho đến lúc Dương gia nổi loạn, nàng mới được thái hậu đem vào cung, rồi khi anh cưới em nàng mới bỏ đi. Tất cả mọi người đều kinh hãi Ưng-sơn song hiệp. Một sự việc với uẩn khúc như vậy, mà hai vị đều biết rất chi tiết, thế thì hỏi rằng bọn bất trung, bất hiếu làm sao qua mắt song hiệp? Bất giác mọi người đều lạnh gáy. Vương tuyên án: - Ta gia hạn cho cháu trong ba năm phải tìm cho ra Chang-Lan, bằng không ta chặt chân. Nhớ đấy! Đền thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu, tại xã Dương-xá, huyện Gia-lâm, Hà-nội.