Sau khi chiếm được Bắc ngạn sông Cầu, thì đã sang ngày 23 tháng Chạp, là ngày ông Táo chầu trời. Quách Quỳ sai ngựa lưu tinh thượng biểu về Biện-kinh, tâu thắng trận. Trong biểu nói rõ: Từ bản doanh của Quỳ tới lăng tẩm triều Lý còn ba mươi dặm (15 km), tới Thăng-long chỉ năm mươi dặm (25km). Hiện Quỳ cho quân nghỉ ăn tết, đợi sang giêng sẽ tiến quân vào ổ, bắt Lý Càn-Đức, với Lê-thị Yến-Loan đem về phục mệnh. Trong biểu, Quỳ xin triều đình cắt cử những chức quan cai trị gửi sang càng sớm càng tốt. Chiều ba mươi tết, Quỳ ban lệnh giết trâu, mổ bò khao quân, mừng giao thừa. Quỳ cho phép các doanh được tổ chức những trò giải trí để quân khỏi nhớ nhà: Nào thi bắn tên, thi đánh vật, thi leo dây, hoặc họp nhau ca hát. Trong khi quân-sĩ ăn thịt, uống rượu mừng Xuân Đinh Tỵ, thì Quỳ cho họp chư tướng tại bản doanh ở phía Bắc bến đò Như-nguyệt để định kế đánh Thăng-long. Hàng tướng Hoàng Kim-Mãn mách cho biết: Có ba con đường tới Thăng-long, Lý Thường-Kiệt đã cho lập phòng tuyến kiên cố chờ đợi. Con đường gần nhất là con đường qua bến đò Như-nguyệt. Lý Thường-Kiệt đã bố trí tại đây những lực lượng tinh nhuệ chờ đợi. Con đường gần thứ nhì là con đường Vạn-xuân, nằm cuối phòng tuyến Như-nguyệt, chỗ hội tụ ba con sông Lục-Nam, sông Cầu, sông Đuống. Tại đây cũng có phòng tuyến rất kiên cố. Ba là con đường bến đò Phú-lương men theo núi Tam-đảo, chỗ này cũng có phòng tuyến rất kiên cố. Quách Quỳ nhắc lại cho tướng sĩ hiểu tình hình: Ta đã phân chia quân làm ba mặt trận đóng dài trên sông Cầu. Thứ nhất, mặt trận trên bến đò Phú-lương trao cho Yên Đạt làm chánh tướng, Khúc Chẩn làm phó tướng, với ba tướng xung-kích Lôi Tự-Văn, Lữ Chân, Lý Hiếu-Tông; ngoài ra còn có bọn hàng tướng Hoàng Sầm-Mãn, Nùng Thuận-Ninh, Sầm Khánh-Tân làm hướng đạo. Mặt trận Vạn-xuân trao cho Tu Kỷ làm chánh tướng, Đào Bật làm phó tướng, với bốn tướng xung kích Địch Tường, Quản Vi, Giới Định, Lý Thật; hai hàng tướng Lưu Báo, Nùng Sĩ-Trung làm hướng đạo. Mặt trận Như-ngyệt, Triệu Tiết làm chánh tướng, Miêu Lý làm phó tướng, với năm tướng xung kích Diêu Tự, Vương Tiến, Bình Viễn, Đặng Trung, Lưu Mân; các hàng tướng Nùng Thịnh-Đức, Nùng Quang-Lâm, Hoàng Kim-Mãn làm hướng đạo. Hai tướng kị binh Trương Thế-Cự, Vương Mẫn lưu động, do chính Quách Quỳ chỉ huy. Quỳ nhấn mạnh: - Ta đã sai sứ hẹn với đô đốc Dương Tùng-Tiên, phó đô-đốc Tô Tử-Nguyên tiến quân chiếm cửa Đông-kênh, sau đó vượt sông vào Như-nguyệt để chở quân vượt sông Cầu đánh Thăng-long. Vậy chư tướng hãy cho quân ăn tết ba ngày. Sang ngày mùng bốn, thì sai quân vào rừng đốn nứa, đốn tre làm bè. Ngày mười lăm phải xong. Còn quân sĩ thì kể từ ngày mười lăm đều đặt trong tình trạng ứng trực, để khi có lệnh là vượt sông liền. Miêu Lý hỏi: - Thưa nguyên soái, nếu đã có thủy quân chở mã bộ quân qua sông, thì sao phải làm bè? - Giặc có mười vạn binh ở Nam ngạn. Ta muốn thắng giặc, thì phải đem ít nhất ba mươi vạn binh một lúc. Với quân số này, thì thủy quân không đủ khả năng vận tải trong một chuyến, vì vậy ta phải đóng bè. Quỳ nói lớn: - Đúng ngày mười sáu, cả ba cánh quân cùng vượt sông, phá chiến lũy. Chiếm được chiến lũy rồi, thì cánh quân Như-nguyệt tiến nhanh về đánh Thăng-long. Cánh quân của Yên Đạt tiến dọc theo Nam ngạn sông Cầu, tiến về vây Tây Thăng-long. Cánh quân Tu Kỷ đi song song tiến về vây phía Đông Thăng-long. Y bảo Nguyễn Dư và bọn du thủ du thực theo trong quân: - Người là em ruột Nguyễn Căn, mà Nguyễn Căn hiện trấn ở bên kia sông. Ta muốn dùng người làm hướng đạo. Nhưng sợ người xót tình anh em, nên không muốn người dự vào trận đánh này. Triệu Tiết biết Quách Qùy khích Nguyễn Dư, y làm bộ bênh hắn: - Tôi xin bảo đảm với nguyên soái là Nguyễn Dư sẽ trung thành với ta. Dư theo ta, chỉ với mục đích muốn giết thằng anh Căn mà thôi. Để chứng tỏ trung thành với ta, Dư đã cho người dò thám tình hình Thăng-long, tôi xin để Dư trình bầy. Ghi chú, QTNC chép về Nguyễn Dư như sau: Đứng xa mà trông Nguyễn Dư với Nguyễn Căn, thì ai cũng tưởng rằng một, nhưng nhìn kỹ ra, thì cái mặt y gẫy như lưỡi cầy, cái cằm nhọn hoắt. Mỗi khi nói, y hay làm điệu bộ, chù mỏ ra phụng phịu.
Được Triệt Tiết bênh vực, Dư đứng lên nói. Y không biết nói tiếng Hán, mà nói tiếng Việt, thành ra chỉ bọn Quách Quỳ, Triệu Tiết, Khúc Chẩn, Yên Đạt, Tu Kỷ đã từng học tiếng Việt, từng sang Đại-Việt hiểu được mà thôi: - Bẩm nguyên soái, tên Căn là kẻ thù truyền kiếp của con. Nó đắc tội với con vô cùng, con chỉ muốn ăn tươi nuốt sống nó. - Được! Ta tin người! Thế người cho ta biết, từ Như-nguyệt tới Thăng-long có quân Việt trấn đóng không? - Thưa quan đại nguyên soái có. Có rất nhiều. Từ Như-nguyệt tới Cổ-pháp, lăng tẩm của triều Lý, có tới mười sáu xã. Như tất cả xã thôn Đại-Việt, các xã này đều có lũy tre bao bọc, ngoài lũy tre có hào sâu. Nếu nguyên soái muốn tiến quân về Cổ-pháp thì phải đánh các xã này, bằng không khi quan quân đi qua, chúng sẽ đánh tập hậu thì nguy lắm. Quách Quỳ khen: - Giỏi, người quả có tài đại tướng mà tên Thường-Kiệt không biết dùng. Người tiếp đi. - Từ phòng tuyến Như-nguyệt tới Thăng-long chỉ có năm mươi dặm. Nhưng trên đường đi phải qua khu rừng tre mênh mông. Sau rừng tre là chiến lũy Cổ-pháp. Trong chiến lũy Cổ-pháp, rừng tre có đến bốn hiệu binh trấn đóng, đó là hiệu Quảng-thánh, Quảng-vũ, Ngự-long và Phù-đổng. Quách Quỳ à lên một tiếng: - Từ hôm vợ chồng Tôn Mạnh, Đinh Hoàng-Nghi rút khỏi Quyết-lý, Chi-lăng, ta cứ lo lắng rằng chúng ẩn náu trong rừng Bắc-biên để đánh sau lưng ta. Nào ngờ chúng rút về Cổ-pháp. Hà, tại Như-nguyệt chỉ có hai hiệu Thiên-tử binh thôi. Còn tại Cổ-pháp chúng có tới ba hiệu Thiên-tử binh với hiệu kị binh Phù-đổng. Khó đấy. Đến đây hỏa đầu quân loan báo: - Tiệc rượu đã xong, xin mời nguyên soái cùng chư tướng nhập tiệc mừng Xuân. Quỳ bước ra khỏi căn lều, ngước mắt nhìn trời: Đúng là đêm ba mươi tết, màn đêm một mầu đem đặc, đến nỗi xoè bàn tay ra mà không nhìn thấy gì. Quỳ cầm cây pháo thăng-thiên châm lửa, tung lên trời. Chiếc pháo nổ đến đùng một tiếng, rối toả ra ánh sáng như ngôi sao. Lập tức các trại khác cũng đốt pháo, đánh trống, khua chiêng mừng Xuân mới. Không khí mừng Xuân, mừng chiến thắng thực là nhộn nhịp. Lại có đội quân làm được con lân, múa trước cửa trướng Quách Qùy. Nhiều sòng bạc mở ra, quân sĩ tụ nhau đỏ đen, reo hò. Quỳ cùng chư tướng nhập tiệc, người người đưa lời chúc tụng lẫn nhau. Rượu được hai tuần, Quỳ uống hết một bát lớn, rồi nói: - Hôm nay là ngày tết. Hồi nãy ta ra lệnh chuẩn bị đổ bộ sau rằm tháng giêng. Ta muốn cùng chư tướng vào Thăng-long ngày hai mươi tháng giêng, hái một cành đào, sai ngựa mang về Biện-kinh dâng hoàng thượng. Chư tướng hồ hởi vỗ tay hoan hô. Giữa cái không khí đó, Triệu Tiết hơi cau mày lại, vì y nghe đâu đó có tiếng quân reo hò, la hét ở phía Đông. Y vẫy tay cho chư tướng im lặng. Chư tướng cùng đã nghe thấy tiếng reo. Họ đưa mắt nhìn nhau. Trong căn trại có đến hơn trăm người mà không một tiếng động. Nùng Quang-Lâm nói cứng: - Chắc binh sĩ vui đùa la hét đó thôi! Lát sau, tiếng la hét lại từ phía Tây vọng lại, rồi tiếng la hét ngay doanh đóng ở bờ sông. Lần này lẫn cả tiếng trống báo động. Quỳ với các tướng bỏ tiệc rượu ra ngoài nhìn: Ba doanh Đông, Tây, Nam lửa bốc cháy ngùn ngụt. Lôi Tự-Văn chỉ về phía Phú-lương: - Kìa! Chết thật! Quân của ta ở Phú-lương có sự, lửa đang bốc cao. Lý Thật chỉ tay về phía Vạn-xuân: - Kìa, trại của ta ở phía Nham-biền cũng bốc cháy. Đến đó quân báo: - Giặc dùng thuyền đổ bộ dọc bờ sông, xung phong đánh ba doanh trung ương, Đông, Tây. Hai trại sát bờ sông bị tràn ngập. Địch đã đánh vào tới trại thứ ba. Chư quân đang ra sức chống trả. Quách Quỳ ban lệnh: - Bỏ tiệc, chư tướng đâu trở về đó. Quỳ buột miệng ban lệnh rồi, y tự biết rằng lệnh đó khó thi hành, vì đường từ Như-nguyệt đến Phú-lương, Nham-biền đâu có gần? Dù võ công cao, địch tấn công tứ phía thì liệu trong đêm tối, chư tướng có thể về tới nơi không? Tuy nhiên các tướng ở vùng Phú-lương, Nham-biền cũng lên ngựa với tùy tòng đốt đuốc ra đi. Còn các tướng tại trại Như-nguyệt thì trở về với quân. Quân báo liên tiếp: - Giặc từ sông đổ bộ lên ba doanh. Chúng rất hung hãn, lại có hổ, báo, chó sói yểm trợ. Quân ta không phòng bị, chết rất nhiều, ba dẫy trại sát bờ sông bị chọc thủng. Chúng đang đánh vào dẫy thứ tư. - Giặc cũng từ sông đổ bộ vào căn cứ Nham-biền, Phú-lương. Tại hai nơi này, mỗi nơi chúng đổ bộ làm hai cánh, đánh ép lại. Hai nơi này chạm đích rất nặng. Ta với giặc đang hỗn chiến. Quách Quỳ, Triệu Tiết lên đài cao đứng nhìn: Dưới ánh đuốc chập chờn, quân Việt như đàn hổ đói, dàn hàng ngang xung sát. Quân Tống chống không nổi, cứ lùi dần. Tại khu Tây, do Miêu Lý, Vương Tiến, Bình Viễn đã trở về trại, đang đứng đốc quân chống trả. Tại khu giữa, Diêu Tự, Nùng Thịnh-Đức, Nùng Quang-Lâm, Hoàng Kim-Mãn đã giữ vững được phòng tuyến. Tại khu Đông, Lưu Mân, Đặng Trung trở về tới nơi, thì trại bị vỡ, quân sĩ bỏ chạy tán loạn. Quân lại báo: - Giặc dùng hạm đội Thần-phù chở ba hiệu Thiên-tử binh. Chúng lợi dụng đêm tối đổ binh lên ba nơi đánh trộm. Đạo đột kích ở phía Tây là hiệu Thần-điện do tướng Triệu Thu với vợ là Phương-Liễu chỉ huy. Đạo đột kích ở giữa là hiệu Bổng-thánh do tướng Mai Cầm với vợ là Phương-Đơn chỉ huy. Đạo đột kích ở phía Đông là hiệu Hùng-lược do tướng Ngô Ức với vợ là Phương-Dược chỉ huy. Quân Tống bị bất ngờ, hỗn loạn, bốn doanh trại gần bờ sông bợ vỡ, người chết la liệt. Quân Việt đánh đến hàng thứ năm, thì quân Tống đã kịp thời chỉnh đốn hàng ngũ chống lại rất gắt. Quách Quỳ đã nhìn rõ ba tướng Việt, cùng với ba bà vợ đứng đốc chiến. Y nói với Ôn Cảo, Triệu Tiết: - Hôm trước ta tưởng trong các tướng chỉ huy Thiên-tử binh, chỉ có vợ chồng tên Đinh Hoàng-Nghi, Lý Tam là ghê gớm. Hôm nay ta mới biết đứa nào cũng thế cả. Phải làm cách gì giết đi một cặp, thì họa may chúng mới chùn nhụt. Y ra lệnh: - Báo cho Miêu Lý giữ vững mặt Tây, Đặng Trung giữ vững mặt Đông. Ta dồn chủ lực diệt vợ chồng Mai Cầm, Phương Đơn. Quân chấp lệnh đi rồi, y bảo Triệu Tiết: - Điều hai đội thiết-đột, hai đội cung thủ từ doanh Bắc về, giết cho bằng được thằng Mai Cầm với con Phương Đơn. Quân chấp lệnh đi liền. Thoáng một cái thiết đột với cung thủ tới; quân Tống ở phòng tuyến doanh giữa dạt ra, các đội thiết đột, cung thủ tiến lên trước. Một đội thiết đột, một đội cung thủ đi cánh phải; một đội thiết đột cung thủ khác đi cánh trái. Cung thủ bắn, thiết đột xung lên, tiến ra bờ sông, rồi cánh trái quay về phải, cánh phải quay về trái. Thế là hiệu Bổng-thánh bị vây ba mặt như hình chữ U, sau lưng là sông. Mai Cầm thấy thế nguy, hầu lấy tù và rúc lên một hồi, hiệu Bổng-thánh chia làm ba, cánh trước vẫn đánh thẳng vào trung ương; cánh phải, trái quay lưng lại nhau chống với thiết đột, và cung thủ. Thoáng một cái, quân thiết đột với quân Bổng-thánh lẫn vào nhau, thành ra đội cung thủ Tống hóa ra vô dụng. Quách Quỳ nghiến răng dậm chân: - Thần diệu! Sao trên đời lại có đội quân tinh nhuệ, can trường thế kia? Chúng đổi trận thế quá nhanh, quân ta bì thế nào được! Đội cung thủ của ta hóa vô dụng mất rồi. Triệu Tiết ra lệnh cho đám hàng tướng đem quân khê động tiếp viện quân Tống: - Nùng Thịnh-Đức đánh vào bên phải, Nùng Quang-Lâm đánh vào bên trái, Hoàng Kim-Mãn đánh vào giữa. Đám hàng binh được tung vào trận, nhưng hiệu binh Bổng-thánh vẫn không nao núng, người người sát cánh xung sát... đao vung, giáo đâm tiến về trước lên. Đám hàng binh bị giết chết, ngã lổng chổng. Đứa còn sống thì bật lui trở lại. Thịnh Đức thấy một nữ tướng rất xinh đẹp mặc quần áo trắng đang xung sát ở hàng đầu, y vung đao lên chém ngang vào lưng đối thủ. Nữ tướng cười nhạt, chuyển tay một cái đã bắt được đao Thịnh-Đức, tay kia đưa một nhát kiếm, đầu y rơi xuống đất. Trong khi cánh bên trái, Nùng Quang-Lâm đang đấu với một thiếu niên mặc quần áo trắng. Sau mười hiệp, y cứ phải lùi dần. Trong ánh đuốc chập chờn, y nhận ra tướng đó là Hùng Nghĩa. Y bật lên tiếng kêu: - Hùng Nghĩa! Quang-Lâm đây! Xin dung tình! Hùng Nghĩa quát lên: - Ta không thể tha thứ cho bọn cõng rắn cắn gà nhà. Coi đây! Choang một tiếng cây đoản thương trên tay của y chạm vào kiếm Hùng Nghĩa, bị bay vọt lên cao. Y còn đang bàng hoàng, thì đầu đã bay khỏi cổ. Phương Đơn đứng đốc chiến reo lên: - Anh Hùng Nghĩa, chị Âu Thanh, mau quay lại giết tên phản bội Hoàng Kim-Mãn. Hoàng Kim-Mãn đang chiến đấu ở cánh giữa, y giết được hai Thiên-tử binh, làm phòng tuyến Việt bị hở một quãng. Thình lình một bóng trắng từ trên cao như con đại bàng chụp xuống đầu y. Y vung đôi song kiếm lên đâm vào bóng đó. Choang một tiếng, đôi song kiếm của y bật tung trở lại, hai cánh tay y tê rần. Bóng trắng đã đứng trước mặt y. Y nhận ra đó là Âu Thanh. Âu Thanh đưa kiếm vào cổ y. Y cười nhạt vung song kiếm tấn công. Đấu được mười chiêu, kiếm bị văng mất, Kim-Mãn kinh hoàng vội phát chưởng đánh Âu Thanh. Âu Thanh cười nhạt, vận đủ mười thành công lực đánh liền ba chưởng. Kim-Mãn đỡ được đến chiêu thứ nhì, thì người y như say rượu, lắc lư đứng không vững. Âu Thanh đánh tiếp chiêu thứ ba, y đưa cả hai tay đỡ, nhưng mặt y tím bầm, máu ứa ra hai mắt, hai mũi, hai tai và miệng, rồi ngã xuống. Ôn Cảo hỏi Quách Quỳ, Triệu Tiết: - Nguyên soái, võ công gì mà khủng khiếp vậy? Quách Quỳ đáp, mà cảm thấy lạnh gáy: - Chiêu số thì là chiêu số Sài-sơn, còn nội công thì là Cổ-loa tâm pháp, do Trần Tự-An, cha đẻ Kinh-Nam vương chế ra. Ai trúng phải, thì toàn bộ mạch máu trong người vỡ ra mà chết. Đến đây thì quân thiết đột đã chặn được bước tiến của hiệu Bổng-thánh. Một bên là đội thiết đột rất thiện chiến, một bên là Thiên-tử binh rất tinh nhuệ cùng đem hết sức tranh thắng. Đao, kiếm chạm nhau chan chát. Quách Quỳ bảo Triệu Tiết: - Ta tấn công thằng Mai Cầm, huynh tấn công con vợ nó. Có như vậy mới mong diệt đươc hiệu Bổng-thánh này. Quỳ, Tiết tung mình xuống đài, chỉ nhấp nhô mấy cái, hai người đã tới phòng tuyến. Quỳ vọt mình qua đầu quân thiết đột. Ở trên cao, y phóng chưởng tấn công Mai Cầm. Chưởng của y mạnh đến nghiêng trời lệch đất. Mai Cầm kinh hãi; biết rằng nếu mình đỡ, thì sẽ tan thây nát thịt ra mà chết, hầu vội lăn mình xuống đất tránh khỏi. Rầm một tiếng, chỗ hầu đứng thủng một hố sâu. Quách Quỳ chuyển tay phát chiêu thứ nhì hướng Mai Cầm. Hùng Nghĩa vội phát chiêu tấn công Quách Quỳ cứu bạn. Hai chưởng gặp nhau, bình, binh hai tiếng, Hùng Nghĩa bật tung về sau ba bước, ông ọe một tiếng rồi miệng phun ra một búng máu. Lý Lục, Mai Lục đem một toán Thiên-tử binh cùng vung đao tấn công Quách Quỳ. Quỳ khinh thường, y tung một chưởng vào Lý Lục. Lý Lục nghiến răng phát một chiêu Thiên-vương chưởng đỡ. Binh một tiếng, ông cảm thấy như trời long đất lở, người lảo đảo muốn ngã. Mai Lục xả một kiếm vào Quách Quỳ, để cứu chồng. Sau khi đối một chưởng với Lý Lục, cánh tay Quách Quỳ cảm thấy tê rần, y định đánh một chiêu nữa kết thúc tính mệnh ông, thì chiêu kiếm của Mai Lục đã tới. Y nhảy lùi về sau tránh. Bên cạnh Quách Quỳ, Triệu Tiết đã đẩy lui Âu Thanh bằng hai chưởng. Âu Thanh lảo đảo muốn ngã. Bà kêu lớn: - Kim-cương đệ thất đâu? Vợ chồng Lý Thất đang mải chiến đấu, nghe tiếng sư tỷ kêu, cả hai vội quay lại xả kiếm tấn công Triệu Tiết. Hàng ngũ hiệu Bổng-thánh không người điều động bắt đầu rối loạn. Giữa lúc đó, từ dưới sông có tiếng cọp gầm, beo rống, rồi hơn trăm con cọp, hơn trăm con beo với đội cung thủ Long-biên dàn lẫn với nhau; cứ một người, một thú, tiến lên. Đội binh được dẫn đầu bởi hai cặp nam nữ tướng rất trẻ, võ công cực cao, cứ mỗi chiêu đánh ra, là một thiết đột mất mạng. Cung thủ nạp tên bắn vun vút, đội thú tiến theo, lăn xả vào hông hai cánh thiết đột. Sau hai loạt tên, hàng ngũ thiết-đột bị đứt làm hai ba quãng. Quân thiết đột lại phải bỏ quân Bổng-thánh dàn hàng chống với hổ, báo, tiễn thủ. Quách Quỳ định đánh một chưởng nữa kết liễu tính mệnh vợ chồng Lý Lục, thì y cảm thấy như có ai đánh trộm phía sau. Kinh hãi y tung mình lên cao, từ trên cao y đánh xuống một chưởng. Hai chưởng gặp nhau đến binh một tiếng, cánh tay y tê rần, còn người kia bị bật lui liền ba bước. Quỳ nhìn lại xem ai, mà đủ có công lực đỡ được chưởng của y. Trước mặt y, một trung niên nam tử, thân thể hùng vĩ, khôi ngô, dáng diệu ung dung nhàn nhã. Liếc nhìn bên cạnh, Quỳ thấy Tiết đang đối chiêu với một trung niên nam tử khác. Quỳ đánh tiếp ba chiêu, trung niên nam tử không đỡ, mà đánh thẳng vào ngươi y một chưởng, làm y phải trở về với thế thủ. Sau khi chiết với nhau chín chiêu, thì thanh niên có vẻ yếu thế. Một thiếu phụ sắc nước hương trời, mặc quần áo xanh đánh liền chín chiêu kiếm, làm Quỳ phải lui mấy bước. Thanh niên ung dung mỉm cười, rồi nắm tay thiếu phụ nhảy vào giữa trận Thiên-tử binh. Trong khi bên cạnh, một thanh niên khác chiết chiêu với Triệu Tiết, cũng lâm thế yếu, rồi cũng một thiếu phụ múa kiếm xông vào cứu viện, làm Tiết phải nhảy lui. Dường như hai trung niên nam tử chỉ muốn cứu vợ chồng Hùng Nghĩa, Mai Cầm. Hai người đánh liền ba chưởng rồi nhảy vào giữa trận của hiệu Bổng-thánh. Hai đôi trung niên nam tử đó là Trung-Thành vương, vương phi Trinh-Dung; Tín-Nghĩa vương, vương phi Lê Ngọc-Nam. Đến đây có tiếng tù và rúc lên, quân Bổng-thánh đổi trận rất mau, chuyển ra phía sau đội thú, rồi thoáng một cái đã đeo vũ khí lên vai, tay rút cung, nạp vào tên bắn vào quân Tống; cứ sau mỗi lần bắn một mũi, lại nhảy lùi mười bước. Khi tới bờ sông, tất cả tung mình xuống một dẫy chiến thuyền đậu ở đó. Trên bờ chỉ còn bẩy cặp thiếu niên Hùng Nghĩa, Hùng Lễ, Hùng Trí, Lý Lục, Lý Thất, Lý Bát, Lý Cửu với đội Giao-long Tây-hồ. Đội thiết-đột, đội cung thủ Tống chỉnh lại được hàng ngũ, thì hiệu Bổng-thánh, đạo thú binh, đội cung-thủ Long-biên đã rút xuống chiến thuyền. Thuyền chèo ra giữa sông, dàn thành một hàng dài, đuốc đốt sáng rực. Quách Quỳ thấy bẩy cặp nam nữ với đội Giao-long không quá năm trăm người vẫn can đảm đứng bên bờ sông cản hậu, y hô thiết đột xông vào. Một hồi tù và rúc lên, lập tức bẩy cặp nam nữ với đội Giao-long tung mình nhảy xuống sông, rồi lặn mất tích. Trên sàn một soái hạm, Trung-Thành vương, Tín-Nghĩa vương cùng chư tướng ung dung ngồi quanh bàn tiệc, tay cất chung rượu mừng xuân. Hơn trăm nhạc công đang tấu khúc nhạc mừng xuân, nhàn nhã như giữa thời thanh bình. Quách Quỳ, Triệu Tiết nhìn cảnh đó mà tức ứa gan. Y chửi đổng: - Đồ hèn hạ, chuyên cắn trộm. Tuy vậy, hai người là những tướng đánh dư trăm trận, kinh nghiệm có thừa, cho nên sau trận bị đột kích; cả hai tướng thản nhiên vào trướng ngồi. Quân hầu rót rượu, Quỳ, Tiết nâng chung rượu uống, coi trận xung sát vừa qua như không đáng để mình chú ý. Sự thực trong tâm hai tướng dâng lên nỗi lo lắng không yên. Lát sau ba tướng chỉ huy ba doanh là Miêu Lý, Diêu Tự, Đặng Trung tới. Quách Quỳ hỏi Nguyễn Dư: - Ta có đấu vài chiêu với một tướng rất trẻ, thân thể hùng vĩ, khôi ngô tuấn tú dáng điệu phong lưu, tiêu sái. Cạnh y còn một thiếu phụ sắc nước hương trời, kiếm thuật tinh diệu. Vậy chúng là ai? Dư khúm núm đáp: - Tướng đó tên Lý Hoằng-Chân, tước phong Trung-Thành vương. Quách Quỳ suýt xoa: - Thì ra y! Thảo nào, y còn trẻ, mà đỡ được của ta trước sau chín chiêu. Ừ! Y vừa dùng võ công Tiêu-sơn vừa dùng võ công g Đông-a. Thì ra y học võ công của cha, lẫn của mẹ. Triệu Tiết từng sang Đại-Việt trong thời khởi loạn của Dương gia, nên y biết rất nhiều về các nhân vật Đại-Việt. Y lắc đầu: - Không phải thế. Bọn Giao-chỉ thường không dạy võ cho con. Như Lý Đức-Chính 0 không học võ với Lý Công-Uẩn mà học với sư huynh Công-Uẩn là tên thầy chùa Minh-Không. Lý Long-Bồ cũng học võ với sư huynh Công-Uẩn là Huệ-Sinh. Vợ Lý Long-Bồ không học võ với Trần Tự-An, mà học với Trần Kiệt; Kinh-Nam vương học võ với Vũ Anh. Hai tên Hoằng-Chân, Chiêu-Văn học võ công Tiêu-sơn với Huệ-Sinh, học võ công Đông-a với Trần Tự-An. Triệu Tiết cau mặt lại một lát rồi tự nói một mình: - Ừ! Cái tên đối chiêu với mình là Lý Chiêu-Văn, công lực thực kinh nhân. Sau khi mình đánh con Âu Thanh bay về sau hơn hai trượng thì tên Chiêu-Văn can thiệp. Y đỡ của mình được tới bẩy hiệp, thì một thiếu phụ xử dụng võ công Cửu-chân làm mình suýt bị thương. Không biết thị là ai? Nguyễn Dư đáp: - Hai đứa con gái dùng kiếm cứu Hoằng-Chân, Chiêu-Văn đều là bạn với Lê-thị Yến-Loan. Chúng là học trò của Tôn Đản, Cẩm-Thi. Đứa cứu Hoằng-Chân tên Nguyễn-thị Trinh-Dung, đứa cứu Chiêu-Văn tên Lê Ngọc-Nam. Quỳ chợt nhớ ra điều gì, y hỏi: - Tại trại Tây, trại trung ương, trại Đông đều có mấy đôi trai gái. Trai thì khôi ngô tuấn tú, gái thì yểu điệu xinh đẹp, nhưng võ công của chúng nửa chính, nửa tà. Chúng tà ai vậy? Nguyễn Dư tự cảm thấy mình quan trọng vô cùng. Y đáp: - Tại trại Tây, hai đứa con trai tên Hùng Lễ, Lý Lục; hai đứa con gái tên Âu Huyền, Mai Lục; tại trại trung ương, ba đứa con trai tên Hùng Nghĩa, Lý Thất, Lý Bát; ba đứa con gái tên Âu Thanh, Mai Thất, Mai Bát; tại trại Đông, hai đứa con trai tên Hùng Trí, Lý Cửu; hai đứa con gái tên Âu Lam, Mai Cửu. Bọn chúng có hai toán. Toán thứ nhất gồm mười đứa, kết thành năm cặp vợ chồng, mang tên Thần-vũ thập anh. Toán thứ nhì gồm mười tám đứa, kết thành Kim-cương thập bát hùng. Trước đây tất cả đều là kỳ chủ Hồng-thiết giáo Chiêm, vì vậy võ công của chúng là võ công tà môn. Sau này chúng được Mộc-tồn hoà thượng thu làm đệ tử, chúng được truyền võ công Sài-sơn, là võ công chân chính. Vì vậy võ công của chúng nửa chính nửa tà. Quỳ hỏi Tiết: - Tôi có một thắc mắc là: Ta mang quân trăm vạn sang, trong khi bọn Giao-chỉ chỉ có mười hai hiệu Thiên-tử binh chưa quá mười hai vạn. Nếu chúng khôn khéo, thì phải đóng cửa tử thủ mới phải. Đây, chúng luôn ra tay trước; như lúc ta sắp đánh Lạng-châu, thì đêm đó chúng đem một quân số quá ít đột kích ta. Rồi bây giờ ta chiếm được nửa nước, 207 khê động bị mất, Quyết-lý, Đâu-đỉnh, Chi-lăng, Phú-lương, Như-nguyệt, Lục-đầu bị chiếm. Ta chỉ việc dơ tay ra là chiếm được Thăng-long. Tại sao chúng không thủ ở Nam ngạn, mà lại vượt sông đột kích? Huynh có biết tại sao không? Tiết được dịp khoe kiến thức. Y đáp: - Đó là binh pháp của Thánh-Thiên thời Lĩnh-Nam chép trong bộ Dụng-binh yếu-chỉ. Sau này Quốc-phụ Giao-chỉ là Lý Long-Bồ có tu chỉnh lại. Căn bản binh pháp này là luôn đặt đối thủ vào thế bị động. Hóa cho nên, ta chuẩn bị đánh chúng, thì chúng kéo quân sang đánh ta trước. Lưu Di cho quân cứu viện Ung-châu, thì tên hoạn quan Thường-Kiệt cho quân chặn ta ở Côn-lôn. Khi bọn Trương Thủ-Tiết tới Ngọc-tuyền, thì ngay đêm đầu quân Giao-chỉ cướp trại, quấy phá suốt đêm. Quách Quỳ như người mù được mở mắt, y nghĩ thầm: - Tên Triệu Tiết khốn nạn thực. Điều đáng lẽ phải nói, thì y ngậm miệng, điều không cần nói thì y lại xen vào. Y có ý để cho ta chỉ huy bị thất bại, rồi mới ra tay. Chư tướng, triều đình sẽ cho rằng y có tài hơn ta. Như khi ta đánh khê động, y ngậm miệng, đợi khi hao quân, tổn tướng rồi y mới bàn đến việc chiêu dụ. Ai cũng cho việc chiếm 207 khê động là công của y. Khi ta định đánh Lạng-châu, y cũng ngậm miệng, kịp đến khi Thân Cảnh-Long, Tôn Mạnh, Đinh Hoàng-Nghi cướp trại, đánh viện quân nghiêng ngả, rồi y mới đưa ra kế vượt thượng đạo xuống Phú-lương. Ai cũng nói là trí lự y cao, nhiều mưu, công này thuộc về y. Khi ta chia quân đóng làm ba khu Phú-lương, Như-nguyệt, Nham-biền, đáng lẽ y nói rõ binh pháp Giao-chỉ cho ta đề phòng, thì y lại ngậm miệng. Đến nay ta bị Giao-chỉ đột kích xong, y mới nói rõ binh pháp của Khai-Quốc vương. Đến đó, các cánh quân đều báo về đầy đủ. Yên Đạt sai một tham tướng đến trình với Quách Qùy: « Tại phòng tuyến Phú-lương, vợ chồng Hoàng Kiện, Động-Thiên có hiệu Thiên-tử binh Bổng-nhật của vợ chồng Lý Đoan, Lý Tứ; hiệu Vũ-thắng của vợ chồng Trần Di, Phương-Lý. Muốn qua sông đột kích, thì cần một hiệu giữ nhà, hai hiệu tập kích, nên y xin Lý Thường-Kiệt tăng viện. Thường-Kiệt gửi hiệu Bảo-thắng của vợ chồng Quách Y, Phương-Tiên tới trợ chiến. Hoàng Kiện cho hai hiệu Vũ-thắng, Bảo-thắng âm thầm dùng thuyền nhỏ đổ lên bờ đánh úp. Vì các tướng về hội tại Như-nguyệt, chư quân lại đang ăn tết, nên quân Giao đánh được bốn trại trong hai mươi trại. Khi chư tướng trở về, gần đến Phú-lương thì bị trúng phục binh của đội hổ, báo, sói. Tướng Lý Hiếu-Tông với hàng tướng Sầm Khánh-Tân bị trúng Cổ-loa nội lực của Hùng Nhân, Âu Hoàng, cả hai đều tuẫn quốc. Theo Yên tướng quân, cặp này là trưởng lão Hồng-thiết giáo Chiêm; hồi người tiếp viện cho Chiêm, đã chiết chiêu với chúng, hút chết về Chu-sa Huyền-âm độc tố ». Tu Kỷ từ phòng tuyến Lục-đầu trở về, cứ nhìn gương mặt của y, Quách Quỳ cũng biết cánh quân này bị thảm bại. Y trình: - Bọn Giao cực kỳ xảo quyệt. Rõ ràng trấn thủ Vạn-xuân ở Nam Lục-đầu là tên Lý Chiêu-Văn với vợ y là Lê Ngọc-Nam. Ấy thế mà giờ phút cuối, chúng đem tên Nho-sinh mặt trắng Lý Kế-Nguyên về thay vợ chồng Chiêu-Văn. Tên Kế-Nguyên dùng hiệu Đằng-hải của vợ chồng Trần Ninh, Lý Ngũ ; hiệu Long-dực của vợ chồng Dương Minh đánh trộm vào căn cứ Nham-biền.