watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
15:48:4126/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50 - Trang 15
Chỉ mục bài viết
Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Trang 37
Trang 38
Trang 39
Trang 40
Trang 41
Tất cả các trang
Trang 15 trong tổng số 41



Chương 38a
Trung-Nghĩa Thiên Thu

Tham-tướng Triệu Tú tiếp:
- Quả đúng như đại nhân đoán, tên đi bên trái Hoằng-Chân là Đô-thống Vũ Quang, với con vợ tên Võ Kim-Liên. Tên đi bên phải là Đô-thống Đinh Hoàng-Nghi, y là con tể tướng Đinh Nho-Quan của Nùng Trí-Cao hồi trước. Võ công y bình thường, nhưng y là người có tài dùng binh bậc nhất trong mười hai tướng trẻ; vợ y tên Phương-Quỳnh là học trò tên hoạn quan Lý Thường-Kiệt. Còn hai cặp thiếu niên, thì một cặp mặc quần áo mầu lam, chồng tên Hùng Trí, vợ tên Âu Lam; cặp thiếu niên mặc quần áo hồng đã từng đối chưởng với Hứa, Vương đại nhân hôm qua; chồng tên Hùng Tín, vợ tên Âu Hồng. Bốn đứa này đã dùng thú binh quấy rối ta đêm trước.
Đến đây, thì quân Việt chỉ còn cách trại Tống không đầy hai dặm (1 km). Ba hồi tù và rúc lên. Chưa đầy một khắc, quân Việt dàn thành trận thế. Rồi một đội nhã nhạc hơn năm chục người đi hai bên, Trung-Thành vương ngồi trên cỗ xe do đôi cọp kéo. Vợ chồng Hùng Trí, Hùng Tín đi sau. Gió Xuân thổi nhẹ trên cánh đồng Ngọc-tuyền đầy cỏ non, trăm hoa đua nở. Khi xe đến trước trại, thì nhã nhạc im bặt. Âu Hồng bước lại cổng trại cung tay:
- Trung-Thành vương nước Đại-Việt, xin được cầu kiến với Trương đại nhân.
Trương Thủ-Tiết bàn với các tướng:
- Ta nghe tên Hoằng-Chân tài trí không thua Kinh-Nam vương làm bao. Y có điên hay không, mà chỉ đem mấy người vào trại ta để nộp mạng? Hoặc giả y có mưu gì chăng?
Hứa Dự đáp:
- Với đội quân hùng-tráng thế kia, nếu y cho đánh trại, thì ta không thể đương nổi; ấy là chưa kể hai đạo đóng ở Đại-giáp, Hỏa-giáp có thể đánh vào hai hông. Ta cứ mở cửa tiếp đón y, xem y muốn gì?
Trương bèn cho mở cổng trại, rồi dẫn bốn tướng ra ngoài. Y cung tay:
- Đô-giám Quảng-Nam Tây-lộ Trương Thủ-Tiết xin ra mắt vương gia. Giữa lúc hai bên giao tranh, không biết vương gia tới đây có chuyện gì?
Trung-Thành vương mỉm cười:
- Trương Đô-giám cầm quân đến đây là vì sự nghiệp họ Triệu. Hậu bối đem quân đến ây là vì sự sống còn của tộc Việt. Nghĩ cho kỹ, giữa Đô-giam với hậu bối không thù, không oán, mà phải xua quân đánh nhau đã hai ngày. Vãn bối thấy binh tướng của Đô-giám quá mệt mỏi, nên tạm thời cho quân hưu chiến, rồi đem ít quà tết tới đây mời Trương đại nhân với Ôn, Trương, Hứa, Vương tướng quân cùng uống rượu mừng Xuân; đợi vài ngày sau, quân hai bên đều khoẻ, rồi sẽ tính sau, không biết Trương đại nhân nghĩ sao?
Vương quay lại chỉ vào bốn chiếc xe, trên chứa đầy thực phẩm. Bốn chiếc xe do ngựa kéo từ từ tiến lên. Âu Thanh cung cung, kính kính đến trước Thủ-Tiết trao tờ giấy hồng, trên có ghi số lễ vật. Thủ-Tiết tiếp lấy đọc: Lợn (heo) quay năm con, gà hấp ngũ vị hương mười con, vịt quay mười con, giò lụa hai mươi cây, giò thủ hai mươi cây, bánh chưng một trăm cặp, bánh dầy một nghìn cặp, nước mắm chắt (nhĩ) năm hũ, trà năm cân.
Trương Thủ-Tiết chỉ tay vào trong:
- Xin mời vương gia.
Trung-Thành vương vẫy tay, đội nhã nhạc lùi lại, vương cùng vợ chồng Hùng Trí, Hùng Tín vào trại. Phân ngôi chủ khách xong. Binh Tống đã đem hết lễ vật bầy ra.
Trung-Thành vương cung tay nói:
- Các vị tướng quân! Các vị đều là những tướng giỏi, thưởng phạt công bằng, mệnh lệnh nghiêm minh, trí dũng song toàn; binh lính đều thiện chiến. Thế nhưng các vị bị tên thư sinh mặt trắng Vương An-Thạch bầy ra ma pháp Thanh-miêu, Trợ-dịch, Bảo-giáp, Nông-điền, Thủy-lợi... khiến cho lòng dân oán hận. Trong nước cứ trăm người thì chín mươi người chống đối. Chính vì vậy Thạch mới đem bọn Thẩm Khởi, Lưu Di xuống Nam thùy, luyện quân, tích trữ lương thảo để đánh Đại-Việt, với ý nghĩ đem chiến công ra che lấp tội lỗi. Đứng trước cái thế một mất, một còn, nên chúng tôi phải tiến quân sang tự vệ. Rút cuộc, đưa đến các vị cùng chư quân phải lăn mình vào chỗ chết, mà không đáng! Tiếc quá! Tiếc quá!
Vương thở dài:
- Nay các vị tiến lên cứu Ung-châu, thì bị chặn ở Hỏa-giáp, lùi lại thì bị cắt ở Đại-giáp. Đóng quân ở chỗ vô dụng, lương thảo không còn. Ví dù chư vị có cố phá được vòng vây lùi về, thì bọn Lưu Di, Vương An-Thạch sẽ đổ lỗi lên đầu các vị... rồi không những các vị lâm cảnh đầu bị chặt đem bêu, thân bị vứt cho ruồi nhặng, dòi bọ đục khoét; mà đến vợ con, gia thuộc e không bị giết, thì cũng bị tịch biên điền sản, rồi sẽ phải sống kiếp tôi đòi. Ôi! Nghĩ thực đáng thương.
Hứa Dự hỏi:
- Theo như vương gia thì chúng tôi phải làm gì?
- Kẻ thức thời mới là người tuấn kiệt. Cô-gia nghĩ khắp thiên hạ, đâu không là nhà? Các vị còn ngại ngùng gì mà không cho quân hạ cờ đầu hàng, rồi sang Đại-Việt sống, để dành tấm thân mai hậu; một khi Vương An-Thạch không còn nữa, các vị lại trở về cố lý.
Ôn Nguyên-Dụ cười nhạt:
- Tên nhãi con Lý Hoằng-Chân kia, suốt mấy ngày nay, người chuyên cắn trộm, đánh lén, thực đúng là đồ Nam-man, không đáng mặt anh hùng. Hôm trước, người bầy trò sai tên Đinh Hoàng-Nghi tới trả tù binh, rồi sai hai vợ chồng tên Hung Tín dùng Chu-sa huyền âm chưởng đánh lén, làm cho Hứa Dự, Vương Trấn bị thương. Hôm qua đến lượt con vợ tên Hùng Nghĩa dùng Chu-sa huyền âm chưởng đánh ta. Bây giờ người lại mang lễ vật đến đây để mong làm nản lòng ta ư? Được! Người hãy rời khỏi nơi đây tức thời, ta quyết đem quân ra đại chiến với người.
Trương Thủ-Tiết vẫy tay ra hiệu cho Ôn Nguyên-Dụ im lặng rồi nói:
- Nếu như vương gia có lòng tử tế, thì xin cho lui binh khỏi núi Đại-giáp, để chúng tôi rút về Côn-lôn chỉnh đốn binh mã, rồi mời vương gia đến quyết chiến một trận, không biết vương gia nghĩ sao?
- Thế thì được. Cô-gia xin y lời Trương đô giám. Sáng mai, quân Việt sẽ rút khỏi núi Đại-giáp, để các vị lui quân.
Nói xong vương đứng dậy cung tay hành lễ, rồi cùng tùy tùng rời khỏi trại Tống .
Giữa lúc đó, chim ưng mang thư của nguyên-soái Thường-Kiệt đến mặt trận cho Trung-Thành vương. Vương mở ra đọc:
« Các đại thần Tống triều, thuộc Cựu-đảng, Tân-đảng tranh cãi nhau từ ngày 20 tháng chạp, đến nay chưa ngã ngũ.
Cựu-đảng chủ hòa, Tân-đảng chủ chiến.
Phe chủ hòa do Ngô Sung đứng đầu, chủ trương chém Thẩm Khởi, Lưu Di cùng một số biên thần chủ chiến, rồi sai sứ sang Đại-Việt giảng hòa; yêu sách Đại-Việt phải dâng biểu tạ tội, trả hết tù hàng binh cùng lương thảo. Phe chủ chiến do Vương An-Thạch cầm đầu, chủ trương lập hành doanh, đem quân nghiêng nước sang chiếm Đại-Việt, đặt làm quận huyện. Phechủ hòa cãi rằng, hiện tài nguyên Nam thùy không còn; bảo-binh tan nát, thành trì hủy diệt, lương thảo không còn, thì phải đem quân với lương từ Tây, Bắc xuống. Như vậy phải lụy Liêu, Hạ, bằng không hai nơi này đem quyân vào thì nguy khốn thay. Phe chủ chiến không chịu, nhất định nhân dịp này đem quân chiếm Đại-Việt là có danh nghĩa. Sau khi chiếm Đại-Việt sẽ đánh Chiêm, Lào, Chân, Xiệm, Lý. Bấy giờ sẽ quay lên Bắc rửa hận bị Liêu làm nhục bao năm qua.
Cuối cùng nhà vua nghiêng theo phe chủ chiến. Triều đình lại họp bàn định. Nay đã quyết định năm việc khẩn cấp.
- Một là cử hai đại thần thuộc Khu-mật viện là Trươn Thuật, Tạ Quý-Thành ngay ngày hôm sau lên đường xuống Quảng-Tây tổ chức trướng lệnh.
- Hai là cho thiết lập ngựa chạy trạm từ Ung-châu về Biện-kinh (20 tháng chạp).
- Ba là cách chức Lưu Di, cử Thạch Giám thay thế (22 tháng chạp). Sai tập họp hết bảo-binh vùng Kinh, Hồ, Lưỡng-Quảng thành từng ”chỉ huy” một, mỗi chỉ huy năm trăm người, sai huấn luyện võ-nghệ, xung phong hãm trận, đưa xuống cản quân Việt -1
- Bốn là điều đạo binh thứ 19 xuống Đàm-châu 0, đạo binh 35 xuống Quế-châu, để chặn không cho quân Việt tiến đánh vùng Bắc Ngũ-lĩnh; vì ba đạo binh 1, 2, 3 ở Quế-châu, đã được Lưu Di cử Trương Thủ-Tiết đem xuống cứu Ung-châu, thành ra Quế-châu không có quân trấn thủ (25 tháng chạp).
- Năm là cử Triệu Tiết đang trấn thủ Diên-châu 0 lĩnh chức « An-nam đạo hành doanh mã bộ đô tổng quản chiêu thảo sứ » kiêm chức Quảng-Nam Tây-lộ An-phủ-sứ 0; sai Lý Hiến làm phó; Yên Đạt làm phó đô tổng quản; Ông Cảo làm quản câu, tức coi về thư từ, trướng lệnh. Đem tất cả binh tinh nhuệ ở miền Tây, Bắc, chuyển về Nam-thùy để đánh Đại-Việt. Vậy xin vương giải quyết ba đạo binh đệ 1, 2, 3, và kị binh 47 càng sớm càng tốt ».
Ghi chú,
Như vậy so với ngày nay thì Triệu Tiết làm tổng tư-lệnh, Lý Hiến làm tư-lệnh phó, Yên Đạt làm tư-lệnh hành quân, Ôn Cảo làm tham mưu trưởng.
TS, TTTTGTB chỉ thuật qua việc Trương Thủ-Tiết đem quân cứu viện, rồi bị quân Việt đón đánh, y cùng bốn tướng Ôn Nguyên-Dụ, Trương Biện, Hứa Dự, Vương Trấn tử trận. Trong khi mộ chí của năm người đều thuật lại trận đánh này bằng nhiều chi tiết khác nhau. Tôi tổng hợp năm mộ chí mới vẽ ra được trận đánh khủng khiếp này. Trong TTCTBK, Giang Văn-Dụ thời Khang-Hy chú giải bia Ôn Nguyên-Dụ cho rằng: Con cháu năm tướng đã đề cao quân Việt quá đáng, mục đích biện luận cho việc bại trận của tổ tiên mình. Nhưng đến thời Càn-Long, sau khi Tôn Sĩ-Nghị đại bại ở Đại-Việt (1789), Vương Dã-Nam lại cho rằng bia, mộ chí năm tướng chép đúng. Tống thua vì bốn điều quân Tống không bằng quân Việt, đó là tổ chức, huấn luyện, trang bị, kỷ luật.

Sau khi Trung-Thành vương rời trại Tống trở về, Trương Thủ-Tiết họp chư tướng bàn luận. Vương Trấn đưa ý kiến:
- Lý Hoằng-Chân là một tướng mưu trí trùm hoàn vũ, y lại có tài dùng binh không kém Kinh-Nam vương. Nay tự nhiên y hứa mở đường cho ta rút quân, chưa chắc đã là thực. Nếu ta rút quân, có thể y cho phục binh chờ đợi để tiêu diệt. Ta khó mà bảo toàn tính mệnh.
- Tôi cũng nghĩ thế.
Hứa Dự tiếp:
- Trước mắt ta có bốn con đường đi. Một là đầu hàng thì mạng sống được bảo toàn, nhưng gia đình sẽ bị liên lụy. Ta không thể đi đường này. Hai là đóng quân ở đây chờ viện binh, thì viện binh ít ra phải vài tháng mới tới, mà lương thảo của ta thì tuyệt rồi. Ta cũng không thể đi đường này. Ba là tin lời Hoằng-Chân rút lui. Ví thử Hoằng-Chân có thiện tâm mở đường cho ta lui quân; cho rằng ta lui quân trót lọt, nhưng không cứu được thành Ung, thì trước sau gì cũng bị họa sát thân. Con đường này càng không thể đi được. Bốn là, lợi dụng quân Giao-chỉ đóng trên Hỏa-giáp không làm bao, ta liều lĩnh đánh lên, phá vòng vây, rồi tiến về thành Ung. Trong Tô Giàm đánh ra, ta từ ngoài đánh vào, may ra cứu được Giàm. Chỉ có con đường này khả dĩ đi được mà thôi.
Trương Biện nhăn mặt:
- Nếu như ta đánh lên Hỏa-giáp, rồi phía sau Hoằng-Chân cho quân đuổi theo, thì chẳng hóa ra ta chui đầu vào rọ ư?
Hứa Dự chỉ lên bản đồ:
- Từ đây lên Hỏa-giáp chỉ có một đường đi, Hoằng-Chân không bao giờ nghĩ rằng ta dám hành sự liều lĩnh như vậy. Khi y biết, tập trung được quân, đuổi theo; thì ta đã phá xong vòng vây, tiến về thành Ung rồi.
Các tướng bàn luận phân vân chưa quyết, thì tế tác vào báo:
- Quân Giao-chỉ tên núi Hỏa-giáp đã nhổ trại tiến về thành Ung; còn quân đóng trên núi Đại-giáp đã đổ đồi, tiến về hợp với quân của Trung-Thành vương.
Ôn Nguyên-Dụ nhảy phắt lên:
- Vậy thì ngay bây giờ, bao nhiêu đồ dùng nặng để lại hết, thương binh cũng không mang theo. Ta chờ trời tối sẽ âm thầm tiến lên núi Hỏa-giáp. Để đánh lừa địch, ta vẫn để nguyên trại, đèn các cửa trại vẫn đốt sáng, lại duy trì đội quân tiếp tục đánh trống hiệu cầm canh.
Đêm mùng sáu tháng giêng, khi màn đêm buông xuống, Ôn Nguyên-Dụ dẫn đạo binh đệ nhất lên đường trước. Khi tới chân núi Hỏa-giáp y cho đội thám mã đi dò đường. Lát sau thám mã báo rằng quân Việt đã rút khỏi, bao nhiêu bếp đã lấp hết, chúng bỏ lại trên núi một số đồ dùng vô ích. Ôn yên tâm cho quân vượt núi. Khi sang đến chân núi bên kia, cũng không thấy bóng dáng một tên quân Việt, y cười thầm:
- Tên Hoằng-Chân tưởng ta sợ hãi rút lui, nên bỏ không chặn phía trước nữa. Y nào ngờ!!!
Ôn sai người báo với Trương Thủ-Tiết. Thủ-Tiết cho đạo đệ nhị leo núi, đạo đệ tam tiếp theo. Y với các tham tướng đi giữa hai đạo đệ nhị, đệ tam. Còn đạo kị binh 47 đi sau làm đoạn hậu.
Khi lên tới đỉnh Hoả-giáp, Trương đứng trên mỏn núi cao quan sát về hướng Đông, nơi Trung-Thành vương đóng quân, thấy đèn đuốc lập lòe trên một khoảng thung lũng rộng, y cười với chư tướng:
- Ngày mai, ít ra phải tới Ngọ Hoằng-Chân mới biết ra tiến quân, y có tập trung quân đuổi theo thì cũng phải sáng ngày kia (mốt) mới lên đường được. Bấy giờ ta đã bắt tay được với Tô Giàm rồi.
Thình lình ba chiếc pháo thăng thiên vọt lên trên trời, nổ tung, ánh sáng tỏa ra hình ba con chim ưng sáng chói trong đêm tối. Rồi tiếp theo hàng loạt tiếng Lôi-tiễn bắn lên trời, nổ rung động không gian, ánh lửa sáng lòa rừng núi. Lại tiếng máy bắn đá kêu rít lên những tiếng ghê sợ. Lôi-tiễn, đá đổ chụp lên đầu đội hình quân Tống đang đi. Quân reo, trống thúc, chiêng rền. Quân Việt từ trong các hốc đá, trong rừng bắn ra. Quân Tống không biết quân Việt ở đâu, thành ra chỉ biết tìm chỗ núp.
Thủ-Tiết kinh hồn, hỏi viên tướng tham quân Triệu Tú:
- Lỗi tại ta! Lỗi tại ta! Người đã rộng lượng, mở đường cho ta lui, mà ta làm ngược, nên ta phải lĩnh cái hậu quả này. Làm sao bây giờ???
Y đứng trên mỏm đá cao, trông về hướng Bắc, nơi đạo kị mã đi đoạn hậu; y rùng mình khi thấy dưới ánh lửa chập chờn hiện ra cảnh hỗn loạn: Kị-binh bị trúng phục binh của Thần-nỏ, Thần-hổ, Thần-báo. Kị-mã bị bắn ngã lổng chổng, còn ngựa thì bị Thần-hổ, Thần-báo, Thần-ngao tấn công bỏ chạy tán loạn. Dù khoảng cách hơn sáu dậm (3 km), y cũng nhìn thấy tướng chỉ huy đoàn phục kích là Lý Đoan, Ngọc-Liên, Hùng Nghiã, Âu Thanh.
Y lại nhìn về hướng Nam, nơi đạo quân đệ nhất đã đổ đồi, thì chỉ còn thấy cảnh quân Tống đầu hàng bị quân Việt lùa ngồi thành từng hàng, hai tay đưa lên đầu.
Còn hai đạo binh đệ nhị, đệ tam thì đang chiến đấu tuyệt vọng. Vô tình y nhìn lên: Phía chỏm ba góc núi, mỗi chỏm một tướng Việt đang dùng đuốc để chỉ đường cho quân tấn công. Dưới ánh đuốc chập chờn, y nhận ra đó là Phạm Dật, Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi.
Cuộc nã Thạch-xa, Lôi-tiễn, bắn tên, xung sát suốt từ giờ Sửu đến hết giờ Dần thì Hoàng-Nghi đánh ba tiếng chiêng, lập tức Thạch-xa, đại nỏ ngưng tác xạ, quân Việt cũng lui vào rừng.
Trung-Thành vương đứng trên chót vót một cây cao, tay cầm loa hướng vào phía quân Tống :
- Binh tướng Tống nghe đây! Phía hậu quân, đạo kị binh bị Thần-hổ, Thần-báo, Thần-Ngao bao vây đã đầu hàng hết rồi. Phía trước, đạo đệ nhất bị Thần-phong đốt, bị trúng trận địa của Thần-nỏ, bị diệt hết. Hãy mau mau buông vũ khí, hai tay chắp lại để lên đầu, rồi đi xuống chân núi, sẽ khỏi chết. Ta, Trung-Thành vương, đem quân nhân nghĩa sang cứu dân Hán bị khổ vì Tân-pháp; hứa rằng: Ai đầu hàng sẽ được tha. Ai chống sẽ bị bắt cho hổ, báo ăn thịt.
Sau mấy lần gọi loa, quân Tống buông vũ khí, rời chỗ nấp, nối đuôi nhau xuống núi. Đến cuối giờ Dần, khi ánh nắng Xuân chiếu chứa chan trên núi Hỏa-giáp; Trương Thủ-Tiết cùng mấy viên tá lãnh mệt nhừ người ra, rồi cùng nhau đứng dậy quan sát trận địa: Trên con đường vắt ngang qua núi Hỏa-giáp, vũ khí, vật dụng ngổn ngang khắp nơi. Cạnh vũ khí, nào xác chết của người, nào xác chết của ngựa nằm rải rác trên đường, dưới khe, hốc đá. Có xác bị tên xuyên qua người, có xác bị trúng đá thây dập nát; lại có thương binh chưa chết, kẻ thì nằm thở thoi thóp, người thì rên la. Một vài binh sĩ còn sống sót, ngồi dựa lưng vào vách đá, vào gốc cây, mặt mũi lem luốc, máu me khắp thân. Chúng ngơ ngác nhìn Trương, mà không nói lên lời.
Có hai phụ nữ trẻ từ dưới đi lên, Trương nhận ra một người là Trần Ngọc-Liên, một người là Âu Huyền. Ngọc-Liên bưng cái khay, trên đựng bình rượu, một cái bát, một đôi đũa, một đĩa đựng bánh chưng, một đĩa đựng giò bì. Âu Huyền dắt một con ngựa đầy dủ yên cương. Ngọc-Liên cung tay nói:
- Thưa Đô-giám, Trung-Thành vương sai chị em chúng tôi lên mời Đô-giám xơi điểm tâm, rồi lên ngựa về Quế-châu cho.
Trương Thủ-Tiết đưa đôi mắt lờ đờ nhìn hai thiếu phụ trẻ, y không nói không rằng, hai tay tiếp khay đồ ăn; thản nhiên uống rượu, an bánh. Ăn xong Trương hỏi:
- Trần, Âu phu nhân. Kẻ bại trận này muốn biết tình hình các tướng, cùng quân sĩ Tống ra sao?
Ngọc-Liên cung tay:
- Như Trương đại nhân biết, sau trân đánh Đại-giáp hai hôm trước, đạo đệ nhất quân số chỉ còn một nửa, nên bị hiệu Đằng-hải của vợ chồng chúng tôi tiêu diệt trong nửa giờ. Ôn tướng quân chết trong loạn quân.
- Còn đạo kị-binh?
- Đạo kị binh bị trúng phục binh của hiệu Quảng-thánh, Quảng-vũ, tất cả người ngựa phơi thây ở bên bờ suối Ngọc-tuyền. Vương Tuần-kiểm đấu võ với sư huynh Hùng Trí, đã chết vào giờ Sửu đêm qua.
- Còn hai đạo đệ nhị, đệ tam?
Ngọc-Liên chỉ vào con đường vắt ngang qua núi:
- Họ bị Thạch-xa, Lôi-tiễn nã suốt đêm; bị hai hiệu Quảng-thánh, Quảng-vũ tập kích chết phân nửa; còn phân nửa xuống núi đầu hàng. Nội ngày hôm nay, Trung-Thành vương sẽ cấp lương thực cho họ về Quế-châu.
Thủ-Tiết nói như người mất hồn:
- Thế còn Trương Biện, Hứa Dự?
- Dường như hai vị đó chết trong loạn quân, chúng tôi đang cho tìm xác, để tẩm liệm, rồi sẽ đưa về Quế-châu.
Trong khi Ngọc-Liên đối đáp, thì từ phía sau Lý Đoan đã đem đội y-sĩ lên, đang băng bó cho thương binh Tống. Thấy viên tham tướng Triệu Tú nằn thoi thóp thở miệng xin nước uống. Lý Đoan vội bồng y lên, đưa về chỗ bằng phẳng, lấy nước cho uống, rồi băng bó cấp cứu.
Trương Thủ-Tiết ngửa mặt lên trời chỉ về phía núi Ngũ-lĩnh, lạy ba lạy rồi than:
- Hy-Ninh bệ hạ! Trước đây vua Đế-Minh đã lập đàn tế cáo trời đất, phân chia cương thổ Nam-Bắc rằng: Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng hiếp Nam, kẻ nào trái lời thì tuyệt tổ tuyệt tôn. Cho nên đời Tần, Đồ Thư với nửa triệu quân bị đốt ở Ma-tần lĩnh; đời Hán, Mã Viện, Lưu Long bạị quân ở hồ Động-đình; rồi Hoàng Thao bị giết ở sông Bạch-đằng; rồi Hầu Nhân-Bảo, Triệu Phụng-Huân, Quách Quân-Biện, Tôn Toàn-Hưng bại ở Chi-lăng, Bạch-đằng. Bây giờ thành Ung như đèn trước gió, thần đã làm hết sức, mà đưa đến kết quả này. Chẳng qua là số trời đã định.
Ngọc-Liên tiếp:
- Khảng khái thay! Trung nghĩa thay lời của một tướng ngoài biên thùy không nhục mệnh quân vương. Trương đại nhân luận đúng. Cái thời vua Đế-Minh lập đàn tế trời đất đã quá xa. Tiểu nữ xin dẫn tích mới đây tại Tống triều để đại nhân nghe: Bấy giờ là niên hiệu Đại-trung Tường-phù nguyên niên 0, tháng giêng, ngày Ất-Sửu, có tiếng thần tiên từ cửa Đại-thừa trên trời đọc bài văn rất dài, khắp Biện-kinh đều nghe được. Vua Chân-Tông sai chép lại, rồi cho triệu quần thần ở điện Triều-nguyên, và gọi sách ấy là Thiên-thư. Nội dung sách định rõ cương vực Trung-nguyên và bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc. Phần định cương giới Nam vực chả nói rõ rằng con vua Viêm-đế làm vua phương Nam đó sao? Vì Thiên-thư rất linh, nên từ đấy, mỗi tháng, tể-tướng phải đến điện Kính-thiên đọc một lần, mong thấu đến trời; nhờ trời sai Thiên-binh, Thiên-tướng ngăn chận không cho Khất-Đan vượt biên chiếm đất Trung-thổ. Kể từ khi Vương An-Thạch lên làm tể-tướng, y mới bỏ không đọc, rồi Trương đại nhân cùng chư quân mới mua lấy kết quả này.
Ghi chú,
Việc chép Thiên-thư này, được ghi rõ trong Tống-sử quyển 7, Chân-tông bản kỷ, trang 135. Sự thực bấy giờ phía Bắc Tống bị Liêu uy hiếp, bắt cắt đất, nộp vàng lụa. Phía Tây bị Tây-hạ tấn công. Phía Nam bị Đại-Việt ép. Bọn 5 gian thần bị Tống-sử gọi là Ngũ-quỷ gồm Vương Khâm Nhược, Trần Nghiêu-Tá (Tẩu), Đinh Vị, Trần Bành Niên, Lưu Thừa Hoa mới bầy ra trò bịp bợm. Niên hiệu Đại-trung Tường-phù đời vua Chân-Tông (1008) thay vì tổ chức binh bị giữ nước, thì Tể-tướng Vương Khâm Nhược đề nghị nên dùng hình thức Phong-thiện, tức tế cáo trời đất ở núi Thái-sơn để trấn phục bốn phương. Nhưng muốn tỏ ra việc cúng tế đó là linh ứng tự trời, cần phải có bộ sách gọi là Thiên-thư, của Thiên-đình ban xuống.
Tháng ba niên hiệu Thiên-hy thứ ba (? ?) vẫn thời vua Chân-Tông, viên Tuần-kiểm Chu Năng cùng viên Thái-giám Chu Hoài Chính được nhà vua chuẩn cho làm Thiên-thư giả, đem dấu vào hang núi Càn-hựu, phía Nam Trường-an, rồi sai bọn đồng cốt nói rằng « Từ nghìn xưa, có Thiên-thư từ trời rơi xuống hang núi Càn-hựu ». Song sĩ dân không ai tin.
Bấy giờ danh sĩ Khấu Chuẩn, trước từng là Tể-tướng, bị biếm vì tội nói thẳng, rất được sĩ dân tin tưởng. Oâng đang trấn nhậm đạo Vĩnh-hưng quân gần núi Càn Hựu. Sĩ dân nói rằng : Cái vụ Thiên-thư là bịa đặt. Nếu như có thì ắt Khấu Chuẩn đã dâng về triều.
Vua Chân-Tông mật sai Chu Hoài Chính ngỏ ý rằng Khấu Chuẩn nên giả vào núi, tìm thấy Thiên-tư rồi dâng lên vua. Lúc đầu Khấu Chuẩn từ chối, nhưng vì say quyền hành, muốn về triều, ông phải bán rẻ cái chính khí. Khi ông mang Thiên-thư về Biện-kinh, nhà vua thân ra cổng thành rước. Dĩ nhiên Khấu Chuẩn thanh vân đắc lộ. Thế là tháng sáu năm đó, Vương Khâm Nhược chết, Khấu Chuẩn được phong chức Tể-tướng kiêm Lại-bộ thượng-thư.
Một danh sĩ đương thời là Ngụy Dã người Thiểm-châu đã đã làm một bài thơ châm biếm Khấu Chuẩn. Khấu Chẩn đau lắm, ông làm thơ để biện luận cho mình như sau :
Tặng Ngụy Dã xử sĩ

Nhân văn danh lợi tẩu trần ai,
Duy tử cao nhàn hối thịnh tài.
Hâm chẳm dạ phong huyên tiết lệ,
Bế môn xuân vũ trưởng môi đài.
Thi đề viễn tụ kinh niên đắc.
Tăng luyến u hiên kế nhật lai,
Khước khủng minh quân trưng ẩn dật,
Khê vân nan đắc, cận bồi hồi.
Dịch
Người đời danh lợi thích bon chen,
Duy chỉ ngài đây quả thực nhàn.
Ôm gối ngồi nghe thanh gió thổi,
Mưa xuân, cửa khép cảnh rêu lan.
Hang núi xa xăm thư gửi lại,
Tăng nhân yêu thích hiên hoang tàn.
Chỉ sợ vua trưng người ở ẩn,
Còn đâu mây, suối cảnh xanh lam !
Thế rồi, triều đình tế cáo khắp nơi, nào núi Thái-sơn, nào Khổng-miếu, nào tế Đạo-tổ. Các châu quận cũng tế , dân cũng tế, náo loạn cả nước.
Nội dung Thiên-thư nói rằng : Vua Trung-nguyên là thiên-tử được sai xuống cai trị Thiên-hạ. Sắc dân Bắc là Địch, Tây là Nhung, Đông là Di, Nam là Man phải quy phục. Trong sách cũng định rõ cương thổ của Trung-nguyên với bốn vùng Đông, Tây, Nam, Bắc. Sáchlại được vua cho người núp trên các nóc đền thờ Tam-hoàng, Ngũ-đế đọc. Dân chúng nghe thấy tưởng đâu trời sai thiên tướng xuống đọc. Họ chép lại rồi lưu truyền. Sau vụ này tinh thần quân, dân Tống hưng khởi lên, giữ được cương giới phía Bắc hơn năm mươi năm.
Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết đem quân sang đánh Đại-Việt, quân Tống tiến tới sông Như-nguyệt, chỉ còn cách Thăng-long có 25 km. Lý Thường-Kiệt cho làm bài thơ, ngụ ý Thiên-thư đã định ranh giới Hoa-Việt, kẻ nào xâm lăng Đại-Việt là trái với sách trời, ắt phải bại. Sau đó ông sai người núp trong đền thờ chư thần, mà đọc. Binh tướng Tống nghe được, lại tưởng là trời sai thần xuống kể tội, rồi truyền nhau về sự tích Thiên-thư, về trận đánh Hỏa-giáp. Họ thì thầm: Như vậy việc Tống ra quân trái với Thiên-thư, thì trước sau rồi cũng đến chết hết. Đó là một nguyên do đưa đến quân Tống mất hết tinh thần chiến đấu, rồi bị bại. Nhắc lại bài thơ như sau:
Nam-quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên-thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch :
Nam-quốc sơn hà vua Nam ở,
Điều này đã định tại Thiên-thư.
Bọn bay là giặc từ xa đến,
Làm sao tránh được đại bại ư ?
Suốt 987 năm qua, người Việt đọc bài thơ trên thấy câu « Tiệt nhiên định phận tại Thiên-thư » thì cứ cho thiên thư là danh từ chung để chỉ sách trời do Thường-Kiệt bịa ra; không ai biết rằng đó là danh tự riêng để chỉ bộ sách ra đời vào thời vua Chân-Tông.
Vì hệ thống tuyên truyền từ thời Chân-Tông qua thời Nhân-Tông, Anh-Tông, bấy giờ là thời Thần-tông, (1076) trên từ vua, đại thần, cho đến dân Trung-hoa đều tin vào Thiên-thư nên Thường-Kiệt mới nhân đó, dùng gậy ông đập lưng ông. Chỉ độc giả Nam-quốc sơn hà mới hiểu rõ ý nghĩa chữ Thiên-thư này mà thôi.

Trương Thủ-Tiết cung tay nói với Ngọc-Liên:
- Mệnh trời đã định như vậy, thì Trương này còn sống sao được? Kẻ bại trận mong phu nhân về khải với Trung-Thành vương rằng, xin người cho chôn năm anh em chúng tôi tại đây, để oan hồn ngày ngày cản bước những kẻ làm trái mệnh trời.
Nói dứt lời, Trương đưa kiếm lên cổ tự tử.
Ghi chú,
Sau này, triều Tống cho xây mộ năm tướng tử trận này rất lớn; truy phong cho Trương Thủ-Tiết tước vương; lại truy phong cho Ôn Nguyên-Dụ, Hứa-Dự, Trương-Biện, Vương-Trấn tước công, và lập đền thờ ngay chân núi Hỏa-giáp. Sau con cháu của họ cải táng mang xương về quê, còn mộ ở cạnh đền hiện nay là mộ tượng trưng. Niên hiệu Thiệu-Hưng thứ chín, đời Tống Cao-tông (DL. 1139), triều đình cho tạc bia đá, đúc tượng, gia phong tước vương cho cả năm, đền thờ đó mang tên « Trung-liệt ngũ đại vương từ ». Sang triều Minh, dân chúng xây thêm đền thờ năm tướng ở Côn-lôn, Đại-giáp, Ngọc-tuyền. Trong cuộc cách mạng văn hóa (1966), đền bị phá hủy, tượng đồng bị nấu ra, bia bị vạc, nhưng rất may nguyên văn bia vẫn còn in trong TTCTBK. Khi tôi viết những giòng này (1995), thì bác-sĩ Ôn Thúy-Hoa hậu duệ của Ôn Nguyên-Dụ; kỹ-sư Trương Minh, hậu duệ của Trương Thủ-Tiết, đang thu góp tiền của con cháu năm tướng, dựng lại đền.
Trong TS, TTTTGTB ghi trận Đại-giáp diễn ra ngày Tân-Dậu, tháng giêng niên hiệu Hy-Ninh thứ chín-1074. Còn theo bia của năm tướng thì trận khởi diễn vào giờ Mùi ngày 4, Trương tự tử vào giờ Thìn ngày 7 tháng giêng. Như vậy trận đánh diễn ra trong bốn ngày.

Chiều ngày 7 tháng giêng niên hiệu Thái-Ninh thứ năm đời vua Nhân-tông nước Đại-Việt -1077, sau khi đã cho băng bó, chữa trị thương binh Tống, lại cấp cho lương thực để về Quế-châu; Trung-Thành vương truyền hội chư tướng lại mừng chiến thắng.
Vương gọi vợ chống Đinh Hoàng-Nghi ra chỗ vắng, ban lệnh:
- Năm tướng Tống vì chúa tuẫn quốc, vậy hai em hãy sắm sửa quan quách chôn ở đỉnh Hỏa-giáp, trên mộ cho khắc bia đá ghi rõ tên, ngày, giờ chết của họ. Lại làm một tấm bia, chép lại hùng khí khi họ lúc tử trận. Còn đám binh sĩ, đệ dùng tù binh thu nhặt xác đem chôn cạnh con đường từ Côn-lôn tới chân núi phía Nam Hỏa-giáp sơn. Trên mỗi mộ, nhớ cắm một miếng ván đề rõ tên họ, chức tước của từng người. Như vậy, sau này gia đình họ có thể tìm đến để cái tải táng về quê.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 181
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com