Giữa lúc Tống triều chia phe tranh cãi suốt ngày này qua ngày khác, thì chiến cuộc Ung-châu đang diễn ra cực kỳ khốc liệt. Theo lời đề nghị của quân-sư Tôn Đản, nguyên-soái Lý Thường-Kiệt trao việc chỉ huy công thành cho đô-thống Trần Di. Lập tức Di họp Tây-hồ thất kiệt, Long-biên tam hùng lại để nghị kế. Trần Di hỏi: - Từ trước đến nay, chúng ta đã học công-kiên pháp. Công-kiên pháp có rất nhiều: Dùng máy bắn đá, dùng cung thủ bắn tỉa, đào hầm xuyên vào trong, khơi nước làm lở thành, dùng tên lửa đốt dinh thự kho lẫm, bắc thang leo vào. Nay thành Ung quá kiên cố, tường cao, hào sâu, các phương pháp trên đều vô hiệu. Vậy anh em có ý kiến gì không? Lý Đoan là thầy thuốc, chàng đưa ra một ý kiến: - Trước hết phải làm sao cho quân ta khỏi mệt, gây cho quân địch mệt mỏi đã. Làm cho quân ta khỏi mệt, ta chia lực lượng làm ba đạo, một đạo tấn công, một đạo nghỉ hoàn toàn, một đạo nghỉ một nửa. Vậy trong mười hiệu Thiên-tử binh với hiệu kị-binh, ta chia thành ba đạo, mỗi đạo ba hiệu; mỗi ngày một đạo công thành, một đạo nghỉ. Đó là lực lượng tấn công và nghỉ hoàn toàn. - Như vậy... Ta.. ta.. còn.. còn hai hiệu nữa để làm gì? - Điếc hay hóng, ngọng hay nói. Lý Đoan méo mặt trêu Dương Minh: Ta đã nói hết đâu? Còn đạo thứ ba chỉ có hai hiệu thôi. Trong khi ba hiệu tấn công, ba hiệu nghỉ thì hai hiệu này nghỉ một nửa tức ứng trực, phòng quân trong thành đánh ra có thể tham chiến ngay. Đô-thống Ngô Ức hỏi: - Kế này được quá. Vậy còn phương pháp làm cho quân Tống mệt mỏi? - Thì chính việc ta vừa đánh vừa nghỉ hẳn, vừa nghỉ một nửa... Nên ta có thể đánh hoài không mệt, mà quân Tống cứ phải lo chống đỡ, nên chỉ mấy ngày chúng sẽ mệt lả. Thế là cuộc chia quân công thành được áp dụng. Quả nhiên ngày thứ nhất quân Tống chống trả rất hăng, sang ngày thứ nhì bắt đầu chùn nhụt. Đến ngày thứ ba thì mệt nỏi vô cùng. Nhưng sang ngày thứ tư, thì sức chống trả lại hăng hái như ngày đầu. Lập tức Trần Di cho họp anh em nghị kế. Quách Y xoa tay vào cái đầu hói bóng như quả dưa: - Tôi thấy phương pháp của Lý Đoan làm cho quân mình khỏe thì thực tuyệt diệu. Nhưng còn làm cho địch mệt thì chỉ hữu hiệu có ba ngày. Vậy bây giờ ta phải làm gì? Tạ Duy dơ tay lên nói. Trần Di cười: - Duy có cao kiến gì? - Tao lùn như con vịt, thì chỉ có ý kiến vịt mà thôi. Tên tướng thủ thành là Tô Giàm, nó khôn như cáo già. Sau ba ngày ta công thành vào giờ Thìn, nghỉ vào giờ Mùi, nó nhận ngay ra sơ hở của ta. Lập tức nó dùng toàn lực chống trả vào lúc ta đánh thành. Còn vào giờ khác, thì chia toán ra canh chừng. Vì vậy quân nó khỏe re hà! Vợ Triệu Thu là Phương-Liễu đề nghị: - Hồi còn bé mỗi khi em phạm tội gì, mẹ em thường kết tội rồi tuyên phạt đánh bao nhiêu roi. Nhưng người không đánh ngay, thành ra em luôn luôn lo sợ không biết bao giờ thì bị đòn. Rồi khi người đánh đòn, người cứ dơ roi mà kể tội, trong khi em cong mông lên sợ hãi, mà không biết bao giờ cái roi quất xuống. Bây giờ muốn cho quân Tống mệt, ta hãy là bà mẹ, còn quân Tống là đứa trẻ bị phạt. Như vậy ắt chúng mệt nhừ tử ngay. Phạm Dật vui vẻ: - Hay, không ngờ hoàng-hậu của Mai Hắc-đế lại nghĩ ra được phương pháp hay đến như vậy. Ngay ngày mai ta áp dụng. Vậy thì thế này: Ta vẫn giữ nguyên việc chia toán, nhưng còn giờ công thành thì thay đổi. Khi thì ta công vào buổi sáng, khi thì ta công vào buổi chiều, khi thì ta công vào nửa đêm; lại có khi ta công liên tiếp mấy ngày mấy đêm. Chúng sẽ không biết đâu là thực đâu là hư, như vậy chỉ mấy ngày là mệt hết thở nay. Kế này quả nhiên hữu hiệu. Sau năm ngày công thành, làm cho quân, dân binh thủ thành luôn luôn kinh hoàng, phập phồng lo sợ. Hôm ấy tới lượt hiệu Bảo-thắng, Hùng-lược, Vạn-tiệp công thành. Hai hiệu Ngự-long, Đằng-hải làm trừ bị. Ba đô-thống Quách Y, Ngô Ức, Tạ Duy cùng Phương-Tiên, Phương-Dược, Phương-Quế dự định công thành vào giờ Tý (nửa đêm). Đúng giờ, sáu người cho quân phát pháo bắn đá lên thành, rồi bộ binh reo hò xung phong. Quân thủ thành giật mình thức dậy, mặc giáp trụ, mang vũ khí ra vị trí phòng thủ. Đuốc đốt lên sáng rực, trong khi cơ thể rã rời. Quách Y cỡi ngựa cùng toán thần-tiễn Long-biên đi vòng quanh thành, cứ thấy quân Tống nhô đầu lên là bắn ngã. Khi đến cửa Đông thì gặp Trần Ninh, Trần Ngọc-Hương đang cho hiệu Đằng-hải mang tre đến. Quách Y hỏi: - Hôm nay bọn mi nghỉ một nửa, sao không nghỉ, mà làm gì đây? Ngọc-Hương nhỏ nhẹ: - Chúng mình công thành, nhưng thành cao tới bốn trượng (8 m ngày nay) thành ra không biết tình hình bên trong. Em cho làm một cái đài bằng tre gọi là trúc đài, cao tới mười hai trượng (24m), để mình leo lên quan sát tình hình địch, như vậy đánh mới kết quả. Lát sau, bốn cái đài được dựng lên bằng những khúc tre ngắn nối với nhau, đặt ở bốn góc thành. Các tướng chỉ huy leo lên lên cao quan sát. Nhưng trong đêm, nhìn không rõ. Sáng hôm sau, trong buổi họp, Trần Di hỏi anh em: - Hôm qua ông bà Trần Ninh chế ra cái thang có thể nhìn vào trong thành. Vậy anh chị em có ý kiến gì không? Lê Kim-Loan đề nghị: - Sáng nay em đã leo lên bốn cái thang ở bốn cửa thành nhìn vào, rồi vẽ được bản đồ dinh thự, kho lẫm, nhà cửa. Thì ra từ trước đến giờ, mình dùng Thần-nỏ bắn đại-tiễn tẩm dầu, đốt lửa bắn vào đều là bắn hú hỏa, nên không gây kinh hoàng cho địch. Vậy đêm nay ta leo lên thang, chỉ huy đại nỏ bắn vào mới chính xác. Đêm hôm ấy, đến lượt ba hiệu Vũ-thắng, Long-dực, Thần-điện công thành. Hiệu Ngự-long, Đằng-hải trừ bị. Trần Di, Dương Minh, Triệu Thu cho khởi sự vào giờ Dậu -2. Đúng giờ, Thạch-xa bắn đá, bộ binh reo hò bắc thang leo lên. Trống thúc vang dội, quân reo rung động trời đất. Cuộc tấn công đến giờ Sửu -2, thì đại-nỏ khai hỏa bắn vào. Những mũi tên bằng tre, to hơn bắp tay, ruột chứa nhựa cháy, đầu quấn bông tẩm dầu; châm lửa bắn bay bổng lên cao thành những vệt đỏ như con rồng lửa sáng rực bầu trời thành Ung. Các đội trưởng Thần-nỏ đứng trên đài điều chỉnh cho xạ thủ bắn. Tại cửa Đông, Trần Minh, Phương-Lý thân điều chỉnh cho các dàn đại-nỏ. Mũi thứ nhất rúng vào khu vườn hoang. Phương-Lý hô: - Xa hơn khoảng chín trượng, lùi về bên trái ba trượng nữa. Mũi thứ hai trúng ngay vào khu nhà của quân Tống và gia đình ở. Lập tức lửa bốc cháy ngụt trời. Phương-Lý hô: - Trúng rồi, cứ thế mà bắn. Lát sau hơn hai chục mũi khác đều trúng đích. Cả một khu nhà chìm trong biển lửa, ánh sáng rực trời. Trong khi quân lính hò hét chữa cháy, thì dân chúng bồng bế dắt díu nhau rời khỏi nhà. Những ống tre gặp lửa nổ lốp bốp, mỗi lần nổ lại tung những tàn ra xung quanh. Tại cửa Nam, Dương Minh, Phương-Cúc chỉ huy bắn trúng vào dinh thự tổng-trấn. Khu này lại bốc cháy. Tiếp theo đại nỏ cửa Tây do Triệu Thu chỉ huy bắn trúng khu nhà dân chúng. Đại nỏ cửa Bắc do Phương-Liễu chỉ huy bắn trúng khu chứa lương thảo. Thế là thành Ung biến thành một biển lửa. Tiếng kêu khóc, hoà lẫn tiếng la hét gọi nhau ơi ới, tiếng rên la vọng ra như một cơn bão biển. Giữa giờ khắc kinh hoàng của thành Ung ấy, thì Phạm Dật, Trần Ninh đem mười xe chở những ống luồng to bằng bắp chân, dài khoảng nửa trượng (1 m). Dương Minh hỏi: - A ha! Hai bà chị thấy nỏ-binh mệt, thổi xôi lam mang đến tiếp tế hả? Cơm lam mà do bà chị Kim-Loan, Ngọc-Hương nấu thì tuyệt vời. Ngọc-Liên xua tay: - Không phải cơm lam đâu! Mà là Lôi-tiễn, bọn em mới chế ra, nay mang đến để các anh thử đấy! - Lôi tiễn? Phương-Cúc hỏi: Lôi tiễn là gì vậy? Khi học binh pháp mình đâu có nghe nói? Kim-Loan bật cười: - Binh pháp của các cụ đặt ra được, thì ta cũng biến chế đi được chứ? Lôi nghĩa là sấm sét, tiễn là mũi tên. Bọn em dùng ống luồng gồm có ba đốt, chẻ đôi ra. Đốt thứ nhất chứa nhựa cháy, đốt giữa chứa hoàng-thạch (lưu huỳnh), đốt thứ ba chứa dẻ tẩm dầu. Sau đó cột lại. Ta đốt lửa đầu có dẻ tẩm dầu, rồi dùng Thần-nỏ bắn vào thành. Khi Lôi-tiễn bay tới thành thì lửa cháy tới đốt chứa hoàng thạch. Hoàng thạch nổ tung, bắn nhựa cháy ra xung quanh. Như vậy, một mũi có sức công phá mạnh hơn đại nỏ tẩm dầu nhiều. Triệu Thu khen ngợi: - Hay thực, để ta thử xem. Y rời trúc đài, đặt ba mũi Lôi-tiễn vào Thần-nỏ, đích tay châm lửa rồi hô: - Bắn. Nỏ binh giật dây, ba mũi Lôi-tiễn xẹt lên trời tỏa ánh sáng xanh-vàng-đỏ kéo dài trên không. Bọn Phạm Dật, Trần Ninh, Triệu Thu tung mình lên trúc đài quan sát. Vì mục tiêu quá xa, nên Lôi-tiễn còn đang bay trên không đã phát nổ. Ba tếng nổ lớn như sét đánh trên không trung, rồi ba trái cầu lửa mầu xanh lè chụp xuống ngay giữa chỗ tập trung quân phòng ngự. Hàng vạn viên lửa do nhựa cháy chụp xuống đám quân. Chúng la hét, chạy tứ tán. Thế là Phạm Dật, Kim-Loan, Trần Ninh, Ngọc-Hương cho binh sĩ chở hai chục xe Lôi-tiễn tiếp tế cho Dương Minh, Trần Di, Triệu Thu nã vào thành. Có những Lôi-tiễn rơi xuống rồi mới phát nổ, có những Lôi-tiễn đang bay thì phát nổ, cũng có Lôi-tiễn tới mục đích rồi phát nổ. Tiếng nổ kinh thiên động địa, ánh lửa bốc lên sáng rực một bầu trời, đến nỗi những vùng cách xa đến hai mươi dặm cũng nhìn thấy. Tiếng kêu làm cho Tôn Đản, Cẩm-Thi thức giấc. Không biết chuyện gì đã xẩy ra? Hai ông bà vội mặc quần áo, cỡi ngựa đến quan sát trận địa. Ông bà leo lên trúc-đài nhìn vào trong thành: Dưới ánh lửa sáng rực, thấy rõ cảnh bên trong. Chỗ này quân sĩ lăn mình vào chữa cháy, chỗ kia thì dân chúng kêu khóc thảm thiết. Cũng có người chạy không kịp, lăn lộn trong đống lửa. Đại-nỏ vẫn tiếp tục nã Lôi-tiễn vào. Mười Lôi-tiễn trúng ngay chỗ kho lương đang cháy, lập tức mười cột lửa nổ tung tàn lửa bay vọt lên cao, khiến cho hơn trăm người vừa già, vừa đàn bà, vừa trẻ con bốc cháy như cây đuốc. Dù đã chinh chiến bốn chục năm qua, dù đánh dư trăm trận, dù lăn mình vào chỗ chết biết bao lần; nhưng ông bà Long-thành ẩn-sĩ vẫn không đủ can đảm nhìn cảnh đó. Ông bà vội xuống thang. Ông nhìn bà, bà nhìn ông, hai vị không nói với nhau một lời; nhưng trong cái nhìn ấy, chứa biết bao nhiêu lời nói, bao nhiêu đau xót. Cuộc nã Lôi-tiễn tới sáng thì chấm dứt, nhưng khói lửa trong thành vẫn bốc lên ngùn ngụt. Trưa hôm đó Phạm Dật họp Long-biên tam hùng, Tây-hồ thất kiệt, cùng các đội trưởng Thần-nỏ lại nghị sự. Dương Minh suýt xoa: - Sáng chế của hai anh Phạm Dật, Trần Ninh thực hiệu nghiệm. Hiện chúng ta có lệnh chỉ đánh cầm chừng, để hút viện quân tới. Bằng không ta chỉ cần nã một đêm nữa, thì trong thành không còn một người sống sót. Triệu Thu góp ý: - Anh Dật, Ninh này. Lôi-tiễn hay thực, nhưng nó chỉ hữu hiệu khi đốt kho tàng, dinh thự thôi. Tôi đề nghị anh chị chế ra bốn loại khác nhau! Trần Di cũng đồng ý: - Đúng! Loại Lôi-tiễn đầu tiên dùng để đánh phá kho tàng, dinh thự. Ta nên làm loại thứ nhì, trộn lẫn hoàng thạch với nhựa cháy. Loại này bắn lên trên không thì nổ, hoàng thạch sẽ tung nhựa chứa thành cái lơm lửa. Loại này dùng để bắn vào đội hình quân giặc. Kim-Loan khen: - Ý anh Di hay. Loại thứ ba chỉ chứa toàn dẻ tẩm dầu, dùng để đốt rừng, đốt nhà! Triệu Thu chắp tay: - Chịu bà chị. Loại thứ tư chỉ chứa toàn mã não, hoàng thạch. Loại này cần bắn lên thực cao, khiến nó phát nổ trên không. Tiếng nổ do mã não, hoàng thạch sẽ lớn vô cùng. Ta dùng để gây kinh hoàng cho địch. Thế là Phạm Dật, Trần Ninh tập trung nỏ binh lại hướng dẫn chế tạo năm loại Lôi-tiễn. Ngay đêm đó, các dàn Thần-nỏ chia nhau "thí nghiệm" Lôi-tiễn. Thành Ung muốn nổ tung lên về những trái Lôi phát ra. Cuộc nã đại nỏ sang ngày thứ ba thì quân thủ thành mệt mỏi đến không còn sức chống trả. Phạm Dật họp chư tướng lại, quyết định công thành liên tiếp ba ngày, sang ngày thứ ba sẽ tấn công thực sự vào thành. Kế hoạch được trình lên nguyên-soái Thường-Kiệt. Ông gọi Phạm Dật giảng giải: - Nếu đánh như thế thì chiếm được thành. Chiếm được rồi, ta phá hủy thành, sau đó phải rút về. Nhưng tại Quế-châu, Tống còn ba đạo binh đệ 1, đệ 2, đệ 3 và đạo kị-binh số 47 ta vẫn chưa phá được. Vậy ta phải duy trì thành Ung, để nhử cho Lưu Di gửi bốn đạo binh kia tiếp viện cho ta diệt. Ông ghé miệng vào tai Phạm Dật dặn mấy câu. Phạm Dật tuân lệnh, rồi ra họp chư tướng, quyết định ngừng nã hoả pháo. Hôm sau Phạm Dật sai bắn thư của nguyên-soái Lý Thường-Kiệt gửi cho Tô Giàm. Đại ý thư nói, quân Việt là quân nhân nghĩa, nên tạm hưu chiến, lùi xa ba chục dặm, để quân Tống có thể tắm rửa, nghỉ ngơi, chữa trị thương binh; hoặc ra ngoài thành kiếm củi, mua lương thực. Thư cũng nói rõ: Chinh chiến, chém giết là giữa quân với quân, dân chung vô tội. Vậy Tô hãy cho dân chúng rời khỏi thành, để khỏi bị chết oan. Khi nhận được thư, thì khi quân tướng Tống reo hò, mừng rỡ. Trong khi Tô Giàm tỏ ý nghi ngờ: - Bọn Tôn Đản, Thường-Kiệt là những tên xảo trá khón lường. Chúng đành thành không được, nên giả nhân giả nghĩa, để ta không phòng bị, rồi bất thần tấn công đấy. Nhưng quả nhiên quân Việt rút ra xa thực. Binh tướng Tống được nghỉ ngơi. Họ xin phép được ra ngoài thành kiếm củi, mua lương thực. Nhưng người đi thì nhiều, mà về thì chẳng bao nhiêu, bởi họ nhân dịp này đào ngũ hết. Tô sai thành lập một đội đao phủ, gồm toàn những thân binh trung kiên ra nấp ngoài thành, hễ bắt được người nào trốn là bắt đem chém liền. Hôm ấy, quả bắt được mười người bỏ trốn. Tô sai chém đầu, rồi đem đi bêu khắp các trại quân. Nhưng lần quân Việt hưu chiến sau, than ôi, chính đội đao thủ đi bắt đào binh lại bỏ trốn hết. Quân Việt lại công thành. Lối công thành của quân Việt cũng không nhất định. Khi thì dùng đội Thần-tiễn Long-biên đi vòng quanh thành, hễ thấy quân Tống thò đầu lên là bắn ngã liền. Khi thì cho quân giả bắn đá lên, rồi sai bắc thang leo vào, thế bắt buộc quân thủ phải rời khỏi chỗ núp lên mặt thành lăn gỗ đá xuống. Lập tức bị đội Thần-tiễn bắn rơi như sung rụng. Một vài lần Tô-Giàm cho rằng quân Việt xung phong giả, không cho quân lên mặt thành lăn gỗ đá, thì quân Việt lại đánh thực; lần ấy gần mười người lọt vào thành. Nhưng kinh khủng nhất vẫn là những lần quân Việt dùng hỏa công bắn Lôi-tiễn khiến lửa bốc cháy khắp nơi. Chính lối công thành không giờ nhất định, không có phương pháp nhất định và cũng không dùng hiệu quân nào nhất định, làm cho Tô Giàm cùng tướng sĩ kinh hoảng, không biết đâu mà chống đỡ. Tô lâm tình trạng bị động, bất an, suốt ngày đêm không dám rời giáp trụ. Hôm ấy như thường lệ, nguyên-soái Thường-Kiệt, quân-sư Tôn Đản hội các tướng lại nghị kế. Công-chúa Thiên-Ninh lên tiếng trước: - Thưa sư thúc, thưa nguyên-soái, sau năm lần dùng đại nỏ đánh hỏa công, thì nhà cửa trong thành không còn được một nửa. Nếu ta cứ tiếp tục bắn như vậy năm lần nữa, thì trong thành không còn ngôi nhà nào. Dĩ nhiên bấy giờ ta chiếm được thành. Nhưng... nhưng... dân chúng chết nhiều quá. Tôn Đản cũng nói: - Mấy đêm nã Lôi-tiễn, tôi lên đài tre nhìn vào thành, thấy dân chúng chết cháy, xác xếp thành mấy đống cao, trông thực thương tâm. Thường-Kiệt hỏi chư tướng: - Bà chúa kho tuyên chỉ, sư-thúc dạy như vậy, các vị nghĩ sao? Đô-thống Mai Cầm phát biểu: - Chiến tranh là như vậy! Gươm đao, cung tên vốn vô tình. Hiện không có binh pháp nào để tránh cái chết cho dân chúng được cả. Ta đành chấp nhận. Công-chúa là bà chúa kho, công chúa nhân từ là phải. Bọn thần biết làm sao bây giờ? Trần Ngọc-Liên tiếp lời Mai Cầm: - Công chúa ơi! Bọn thần là tướng cầm quân, bọn thần thương quân như chân tay. Nếu bây giờ không dùng hỏa công đánh thành, mà dùng lối leo thang vào thì quân chết nhiều lắm. Bọn thần trộm nghĩ: Thà dân Tống chết, chứ không thể nhìn quân mình chết. Trong khi Ngọc-Liên phát biểu, thì ông bà Tôn Đản ôm trán, trầm tư không nói, không rằng. Đô-thống Dương Minh tiếp: - Công chúa thương dân Tống, nhưng quan Tống lại không thương dân họ thì bọn thần chả tội gì mà phí mạng quân mình. Bằng cớ là ta đã bắn thơ vào, yêu cầu Tô Giàm cho dân ra khỏi thành. Nhưng Tô lại giữ dân làm bùa hộ mạng. Như vậy rõ ràng Tô biết ta trọng nhân nghĩa, nên lấy dân làm cái mộc che thân. Nếu ta thương dân Tống, không bắn hỏa pháo vào nữa là mắc mưu y. Công-chúa Thiên-Ninh thấy các tướng trẻ không nghe lời mình, nàng đưa mắt nhìn Trần Ngọc-Hương để cầu cứu. Bởi Ngọc-Hương được các bạn đặt cho ngoại hiệu là bà đồ, vì nàng học Nho rất uyên thâm, lại hay phản đối chiến tranh. Ngọc-Hương cung tay: - Khải điện hạ, trước đây thần đã đọc Chiến-quốc sách nói về việc dùng nhân nghĩa trong chiến tranh. Nay xin đọc để điện hạ tường. Nói rồi nàng rút trong bọc ra bộ sách đọc. « Tống Tương-công chiến ư Giang-ngạn. 0. Châu... vương năm thứ... mùa Xuân tháng hai, Tống Tương-công đem binh đánh Sở, dàn quân ở bờ bắc sông Trường-giang chờ giặc. Giữa lúc quân Sở đang dùng thuyền qua sông, chư tướng khuyên: Sở đang độ giang, nhân lúc quân chúng chưa sang hết, ta đánh, tất thắng. Tương-công không bằng lòng đáp: Ta ra quân nhân nghĩa, mà nhân lúc người chưa qua hết đã đánh, thì còn là nhân nghĩa được không? Rồi không nghe lời. Lát sau, quân Sở qua sông, đang bầy trận, hàng ngũ lộn xộn. Chư tướng khuyên: Nên nhân lúc chúng mới qua sông, quân còn say sóng, hàng ngũ chưa thành. Ta đánh chắc thắng. Tương-công mắng: Ta mang quân nhân nghĩa đi đánh bọn Sở bất nghĩa, mà nhân lúc chúng mệt mỏi, lại thúc quân đánh, thì còn gì nhânnghĩa nữa? Rồi không nghe lời chư tướng. Kịp đến khi quân Sở chỉnh đốn trận thế, hai bên giáp chiến, Tương-công bị bại. Hóa cho nên sau này tục ngữ có câu "Ngu như người nước Tống" ». Tôn Đản, Thường-Kiệt thấy từ xưa đến giờ mỗi khi công chúa Thiên-Ninh nói gì là đám Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt luôn tuân chỉ răm rắp. Nhưng nay rõ ràng Thiên-Ninh đưa ra đề nghị hợp lý, mà chúng thẳng tay bác bỏ đã đành; mà đến ngay Ngọc-Hương mà cũng mang sách ra bác lời công-chúa nữa. Ông hiểu ngay rằng chúng đã trưởng thành, lại có ý-thức rõ ràng. Hai người chưa biết giải quyết sao, thì thân binh bưng vào một cái hộp trình: - Thưa nguyên-soái, có ba nhà sư đến xin yết kiến nguyên soái, tiểu nhân hỏi pháp danh, cùng mục đích, thì hai nhà sư đưa ra cái hộp rồi nói: Hai bần tăng là sứ giả của chủ nhân cái hộp này xin cầu kiến. Thường-Kiệt mở hộp ra, thì thấy trong hộp có cái đùi chó luộc, đã lóc hết thịt, cạnh đó còn có cành hoa sen. Cử tọa cùng bật lên tiếng oà vì biết đó là biểu hiệu của Viên-Chiếu và Mộc-tồn hòa thượng. Tôn Đản, Thường-Kiệt vội đứng dậy ra đón khách, thì ra là ba sư Đạo-Hạnh, Minh-Không và Pháp-Nhẫn. Tây-hồ thất kiệt thấy Minh-Không, vội vàng hô cả bẩy bà vợ cùng thụp xuống đất hành lễ với ngài: - A-di-Đà Phật, chúng đệ tử xin tham kiến sư phụ. Minh-Không cười: - Các con không nên đa lễ. Thầy có việc nhờ đến các con đây. Trà nước, phân ngôi chủ khách xong, Tôn Đản hỏi: - Không biết ba đại sư quang lâm có điều chi dạy bảo? Đại sư Pháp-Nhẫn quỳ mọp xuống chắp tay hướng Thường-Kiệt, Tôn Đản và chư tướng. Tôn Đản vội đỡ ông dậy. Pháp-Nhẫn nói: - Vì tham vọng, Hy-Ninh đế, Vương An-Thạch gây hấn với Đại-Việt, nên Đại-Việt phải ra quân trước hầu tự vệ. Bần tăng muôn ngàn lần không dám nói gì. Nhưng thưa nguyên soái, trong mấy lần công thành vừa qua, dân thành Ung chết oan nhiều quá, nên bần tăng phải tìm hai vị bồ tát Viên-Chiếu, Mộc-tồn để nhờ hai vị giúp cho bần tăng được diện kiến nguyên soái, xin nguyên soái tha mạng cho đám dân vô tội. Trần Ngọc-Hương chắp tay: - Bạch đại sư, bọn đệ tử đều là con nhà Phật, cho nên phải giữ ngũ giới. Nhưng đại sư ơi! Ung-châu là lỵ sở của cuộc xâm lăng Đại-Việt, bọn đệ tử không thể không phá. Sự bất đắc dĩ mấy ngày qua, bọn đệ tử phải dùng hỏa công đánh thành, làm dân chúng chết oan, điều này chúng đệ tử đều cảm thấy bất nhẫn vô cùng. Cũng vì thương dân nên nguyên soái đã bắn thư vào khuyên Tô Giàm cho dân chúng ra khỏi thành. Tô không những không nghe, mà lại giữ dân làm con tin. Vậy đại sư dạy cho bọn đệ tử phải làm sao bây giờ? Ghi chú về di tích ngài Đạo-Hạnh Hồi 35 phần phụ lục thuật hành trạng ngài Từ Đạo-Hạnh với Chiêu-thiền tự đã kể rằng ngài tu ở núi Sài-sơn. Nay xin thuật tiếp về chùa núi Sài-sơn: Chùa Thiên-phúc, tiếng bình dân gọi là chùa Thầy. Tên cổ là Hương-hải hay viện Bồ-đà ở núi Sài-sơn. Núi này còn có tên khác như Thạch-thất, Phật-tích thuộc hai xã Thiên-phúc và Thụy-khuê, huyện Yên-sơn, phủ Quốc-oai, nay là xã Sài-sơn, huyện Quốc-oai, tỉnh Sơn-Tây. Chùa được kiến tạo vào tháng 12 niên hiệu Long-thụy Thái-bình thứ tư đời vua Lý Thánh-tông -1057. Khi ngài Đạo-Hạnh vào hang chùa, xuất hồn đầu thai làm con Sùng-Hiền hầu, sau là vua Lý Thần-tông, xác trải biết bao năm tháng vẫn còn. Khi triều Minh bên Trung-quốc sai Trương Phụ đánh giặc Hồ Quý Ly (1407); y đốt xác ngài suốt ba ngày không cháy. Sang ngày thứ tư, đệ tử ngài khấn xin xác mới cháy, ngọc Xá-lợi được chia cho dân chúng. Đời vua Lê Thánh-tông, ngài sai Thái-úy Trinh quốc công Nguyễn Đức-Trung trùng tu, tuy vậy vẫn giữ quy mô cũ. Vua có làm bài thơ: Đề Sài-sơn tự
Ngẫu nhiên thừa hứng đáo nham tìm, Ổn bộ vân cù thướng thản nhiên. Điểu ngữ hoán nghênh tùng hạ khách, Hoa dung tĩnh đối động trung tiên. Túc siêu trần thế tam thiên giới, Thủ trích tinh thần đệ nhất thiên, Thí tảo thạch đài miêu thử cảnh, Thi hành bút dĩ động sơn xuyên. Bản dịch của Mai Xuân Hải: Đề chùa Sài-sơn
Bỗng nhiên cao hứng tới non chơi, Bằng phẳng đường mây bước thảnh thơi. Đón khách rặng tùng chim chóc hót. Chào tiên bên động cỏ hoa tươi. Chân ngoài trần giới ba nghìn cõi. Tay hai trăng sao một lớp trời. Vội quét vách rêu đề cảnh đẹp, Bút thơ rung động núi sông rồi. Niên hiệu Đại-chính thứ 9 (1538) thời giặc Mạc Đăng Doanh, Chiêu-nghi (một bậc của phi tần) Nguyễn-thị Ngọc-Phương đứng ra tu sửa thủy các, xây hồ sen. Thời Lê Trung-Hưng các vua Lê, chúa Trịnh thường viếng, lễ chùa. Định-vương Trịnh Căn -27 vịnh chùa: Phật-tích sơn tự thi
Càn khôn vẹn thiểu một bầu đông, Này này siêu nhiên chỉn lạ lùng. Hương vũ trăng thiền soi vằng vặc, Vân song tiếng ngọc nặng boong boong. Trì thanh leo lẻo ngư long hội, Non nhiều trùng trùng cầm tú phong. Luận thế giới này giai cảnh ấy, Có bề quẩng đại, có linh thông. Độc giả muốn thâm cứu chùa Thiên-phúc, có thể tìm đọc các sách chữ Hán sau: - ĐVSKTT, BK 2a. - Sơn-tây tỉnh chí. - Sơn-tây chí. - Hoàng Việt địa dư chí. - Bắc-thành địa dư chí lục. - ĐNNTC. - Đồng-Khánh địa dư chí lược. - Châu cơ thăng thưởng. - Ngự đề thiên hòa doanh bách vịnh. - A-di-Đà Phật! Tội quá! Tội quá! Không biết Lý phu nhân có thể tìm cách khác mà công thành không? Ngọc-Liên trả lời bằng cái lắc đầu. Phương-Lý cung tay: - Thôi thì thế này vậy, bọn hậu bối xin lùi quân mười dặm, để đại sư vào thành khuyên Tô Giàm cho dân ra ngoài; không biết đại-sư nghĩ sao? - Bần tăng xin tuân lời Trần phu nhân. Thế rồi Trần Di lại bắn tên mang thư vào thành. Trong thư đại ý nói: Quân Việt lùi ra xa mười dặm, để đại sư Pháp-Nhẫn, thủ tọa Đạt-ma đường chùa Thiếu-lâm vào thành cứu dân chúng. Đại-sư Pháp-Nhẫn vào thành đã hai ngày, mà không có tin tức gì, quân Việt lại tiếp tục công thành, nhưng không bắn hỏa pháo vào nữa. Bấy giờ Tô Giàm mới thực sự thấy cái nguy kề cổ. Nguyên lúc đầu, theo ước tính của Lưu Di, Tô Giàm thì quân Việt có mười hai hiệu Thiên-tử binh, khoảng mười hai vạn người. Với quân số đó, sau khi đánh chiếm mười tám ải, với các châu Khâm, Liêm, Dung, Nghi, Bạch thì phải dàn người trấn thủ; giỏi lắm chỉ có thể đem khoảng ba vạn công Ung-châu, làm sao thắng nổi sáu vạn binh với bốn vạn dân binh? Vì vậy Lưu Di, Tô Giàm không đặt vấn đề đem quân từ Quế-châu xuống tiếp viện. Lưu, Tô nào ngờ Tôn Đản dùng hoàng nam Bắc-biên trấn mười tám ải, còn Tín-Nghĩa vương dùng hàng binh Tống, thành lập đạo binh Lĩnh-Nam đánh Khâm, Liêm, đánh Dung, Nghi, Bạch và trấn thủ tại đây. Còn mười hai hiệu Thiên-tử binh công hãm Ung-châu. Giữa lúc quân Việt mới công phá thành Ung, thì con trai của Tô Giàm là Tô Tử-Nguyên làm quan ở Quế-châu dẫn vợ con tới thăm cha, bị kẹt trong vòng vây. Nhờ một lần hưu chiến, Tử-Nguyên từ biệt cha, đem vợ con đi. Nhưng Giàm chỉ cho mình Tử-Nguyên đi mà thôi, vì sợ dân chúng tưởng Giàm đem con cháu bỏ chạy. Trước khi Tử-Nguyên đi, Giàm dặn con: - Rời thành, con lấy ngựa phi thượng khẩn về Quế-châu báo cáo quân tình cho An-vũ kinh lược sứ Lưu Di, để xin người đem đạo quân đệ 1, 2, 3 với đạo kị-binh 47 vượt Đại-giáp sơn, Hỏa-giáp sơn xuống cứu viện. Vì với bốn vạn quân đó, đánh từ ngoài vào, cha đem sáu vạn người từ trong đánh ra, tuy không thắng nổi quân Việt, nhưng cũng giải được vòng vây. Bấy giờ hoặc quân Việt lâu ngày chán nản rút lui; hoặc quân Kinh, Hồ xuống cứu thì đuổi được chúng. Ghi chú , TS. quyển 446, TTTTGTB Hy-Ninh thứ 8 chép việc Giàm cho Tử-Nguyên ra khỏi thành, mà không chép rõ y đi đâu. Lại nữa trận đánh viện binh kinh thiên động địa của quân Việt, các sách chép không giống nhau. TS chép diễn ra ở núi Đại-giáp, còn TTTTGTB lại chép là núi Hỏa-giáp. Trong khi QTNC, TTCTGCK lại chép rõ rằng Giàm viết thư sai con đem về Quế-châu cầu cứu với Lưu Di, và trận đánh diễn ra ở suối Ngọc-tuyền. Vì những bất đồng này và cũng để có thể mô tả trận đánh chi tiết hơn; hè năm 1990, tôi lấy máy bay đi Bắc-kinh, rồi đổi máy bay ở Bắc-kinh đi Liễu-châu 0 sau đó thuê xe xuống Nam-ninh 0. Cuối cùng đi ngược đường lên phía Bắc tìm di tích trận đánh ở núi Giáp. Thực tế đã mở mắt cho tôi thấy rõ: Nơi xẩy ra trận đánh có hai ngọn núi song song nhau nằm theo chiều Đông-Tây. Ngọn ở phía Bắc mang tên Đại-giáp, ngọn ở phía Nam mang tên Hỏa-giáp. Giữa hai ngọn Giáp là một thung lũng khá rộng, có suối Ngọc-tuyền chảy theo chiều Tây về Đông. Như vậy địa danh xẩy ra trận đánh mang tên Hỏa-giáp, Đại-giáp, hay Ngọc-tuyền đều đúng cả.