watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
15:45:3026/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50 - Trang 11
Chỉ mục bài viết
Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Trang 37
Trang 38
Trang 39
Trang 40
Trang 41
Tất cả các trang
Trang 11 trong tổng số 41



Chương 36a

Đường Về Đất Tổ

Niên hiệu Thái-Ninh thứ tư, đời vua Lý Nhân-tông của nước bên Đại-Việt, nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ tám đời vua Tống Thần-tông bên Trung-nguyên, tháng chạp, ngày Đinh-Dậu -1067.
Trong đại bản doanh của quân Đại-Việt, đóng cách thành Ung-châu hai trăm dặm về phía Nam. Chư tướng cánh quân thứ nhất của Đại-Việt, phạt Tống đều tề tựu. Trên trướng, ngồi giữa là Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản với phu nhân Ngô Cẩm-Thi, bên trái là công-chúa Thiên-Ninh, bên phải là Vũ-kị đại tướng quân Hà Mai-Việt. Tiếp theo các tướng, theo thứ tự ngồi gồm Long-biên ngũ hùng cùng năm vị phu nhân, Tuyết-sơn thập anh, tám tướng Bắc-biên chỉ huy tám đội binh Long, Phong, Hầu, Ưng, Ngao, Tượng, Hổ, Báo, các tướng chỉ huy Thạch-xa, Thần-nỏ.
Long-thành ẩn-sĩ Tôn-Đản xoa tay vào nhau, hỏi chư tướng:
- Kể từ khi khai chiến đánh Cổ-vạn ngày 15 tháng chín, cho đến nay, xấp xỉ đã ba tháng. Trong ba tháng đó, chúng ta cho quân nghỉ ngơi, thao luyện, cùng nghiên cứu tình hình trước khi tiến xa hơn. Bây giờ chúng ta chuẩn bị đánh Ung-châu. Chư tướng có ý kiến gì không?
Đô-thống Vũ Quang hỏi:
- Thưa sư thúc, đệ tử được sư phụ 0 dạy rằng: Binh qúy hồ tốc. Phàm phép dụng binh, ai ra tay trước thì nắm được tiên cơ thắng lợi. Thế sao sau khi ta chiếm được các thành Nam phòng của Tống, lại không thừa thế chẻ tre tiến lên đánh Ung-châu ngay, mà để cho đến nay mới khởi sự? Vì ta chậm chạp, mà nảy sinh ra ba điều khó khăn vô cùng tận.
Nhìn qua sắc diện chư tướng, thấy dường như họ đều đồng ý với Vũ Quang; Tôn Đản hỏi:
- Theo đô-thống, năm khó khăn của ta là gì?
- Thưa sư thúc, khó khăn thứ nhất là tướng trấn chủ. Tướng trấn thủ Ung-châu tên Tô Giàm, vốn xuất thân tiến sĩ, võ công bình thường, nhưng là người văn mô vũ lược, can đảm khó ai bằng. Giàm từng trấn thủ Nam thùy Tống hơn ba mươi năm qua, nên y nắm rất vũng tình hình Đại-Việt ta. Thời vua Thái-tông, khi Nùng Trí-Cao khởi binh, tài trí như Quảng-Đông ngũ cái, cũng bại về tay y. Thế mà nay ta đánh biên giới rồi dùng quân lại, tất y củng cố đề phòng rất nghiêm mật. Đó có phải là điều tự ta tạo lấy khó khăn không?
- Đúng thế!
Tôn Đản hỏi: Còn điều khó khăn thứ hai?
- Thành Ung là bản doanh chỉ huy tất cả lực lượng Nam-thùy Tống, trong thành có hai đạo binh triều 29, 30, một sư kị binh 40. Các đạo binh này do Kinh-Nam vương huấn luyện, từng tham dự các trận đánh với Tây-hạ nến rất thiện chiến, thếm vào đó ba vạn bảo-binh, cộng sáu vạn người. Trong binh pháp, cứ một thủ thành thì phải mưởi mới đánh nổi. Đối diện với sáu vạn binh thủ, ta lấy đâu ra sáu mươi vạn mà đánh? Đã vậy, còn chậm chạp, giúp Tô có thêm thời gian chuyển một số quân ở trấn xung quanh về. Y lại tùng quyền bắt tất cả trai tráng xung quân; bởi thế số người trấn trong thành Ung nay lên tới hơn mười vạn. Đó có phải là ta chậm chạp mà nảy sinh ra khó khăn này không?
Ghi chú,
Về quân số thủ thành Ung, các sách chép bất nhất. Có sách chép 2.800 người. Có sách chép năm vạn, có sách chép sáu vạn. Nhưng cuối cùng tất cả đều chép giống nhau rằng, quân Lý vào thành giết sáu vạn người.

- Tống-sử quyển 446 ghi rõ: Quân Việt xếp đầu ngưởi thành đống, mỗi đống một trăm đầu, cộng 580 đống.
- Quách-thị Nam-chinh, Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký, Tống-triều công thần bi ký chép giống nhau: Quân trong thành Ung có sáu vạn người gồm đạo binh 29, 30 đạo kị-binh 40, ba vạn bảo-binh, và bốn vạn dân binh. Tổng-cộng mười vạn người thủ thành.
Vì vậy, tôi chép là mười vạn.

- Được lắm! Nhận xét như vậy thực đáng tài đại tướng. Còn khó khăn thứ ba?
- Thành Ung xây bằng đá ong, vừa cao, vừa chắc. Hào vừa rộng, vừa sâu. Với ba tháng nghỉ ngơi, chần chờ của ta khiến cho Tô-Giàm đã đào hào thêm rộng, thêm sâu; đặt bẫy đặt chông thực nhiều. Y lại cho đắp thành thêm cao, đem gỗ đá vào, chế thêm cung nỏ. Bây giờ ta mới tiến đánh, có phải tự ta tạo thêm khó khăn cho ta không? Vậy sư thúc định thế nào, xin dạy cho bọn hậu bối các cháu.
Tôn Đản chậm rãi trả lời:
- Cháu đừng lo. Ta đã hội với thái-hậu, với nguyên-soái Thường-Kiệt, rồi đưa ra ý kiến rằng: Binh-pháp có muôn hình vạn trạng, ta không thể dùng một số phương-pháp nào đó mà áp dụng cho toàn thể. Này cháu! Binh bất yếm trá! Phàm dụng binh phải biết lừa địch. Khi địch cho rằng ta khôn, thì ta phải làm ra dại. Khi địch cho rằng ta dại, ta phải làm ra khôn. Người chỉ huy quân đối đầu với ta là Lưu Di. Từ khi xuống trấn Lưỡng-Quảng đến giờ, Lưu thường khinh ta là man di, mọi rợ, không biết lễ nghi phép tắc, tức y tưởng ta dại. Cho nên ta khôn bằng cách đánh úp hàng rào mười hai ải Nam biên của y, lại chiếm Khâm, Liêm châu. Tin này đưa về triều thì từ Hy-Ninh đế, Vương An-Thạch cho rằng ta quá khôn. Bây giờ ta phải làm ra dại, thì mới thành công. Vì vậy ta mới dừng quân lại, để tỏ ra dại, khiến chúng sinh ra nghi ngờ. Trong phép dụng binh, điều tối kị là trì nghi bất quyết của tướng. Bây giờ chúng đang hoang mang, ta dễ dàng thắng chúng.
Vũ-kị đại-tướng quân Hà Mai-Việt hỏi:
- Xin tiên sinh cho biết mục đích của ta khi giả dại để làm gì?
- Lão-phu xin vì các vị mà nói. Mục đích của cuộc tiến quân này là gì? Ta có cần chiếm đất không? Ta có cần khai chiến với toàn thể Trung-nguyên không? Trước hết chư vị phải hiểu rõ về mục đích cuộc tiến quân. Cuộc tiến quân có hai mục đích, mưc đích gần là phá từ trong trứng nước cuộc chuẩn bị đánh ta của Tống; do vậy phải chiếm các kho tàog chứa lương thảo, thành trì khắp Nam biên, làm cho Tống khó có thể tập kích ta. Mục đích này ta đã thành cống rồi. Bao nhiêu lương thảo bị chiếm, phát cho dân; bao nhiêu vũ khí chở về Đại-Việt hết; bao nhiếu thành trì, cầu cống đường xá bị phá hết rồi. Mục đích thứ nhì là phá bỏ Tân-pháp. Việc này thì đâu có thể làm ào ào một lúc, mà phải làm từ từ. Khắp vùng ta chiếm được, phải cử người về từng trang, từng ấp chứ? Phải nghiên cứu, chia lại ruộng đất cho đều, bằng bất công thì có khác gì lấy bạo tàn thay bạo tàn không?
Ông mỉm cười:
- Nhưng giờ này, từ Hy-Ninh đế, Vương An-Thạch cho đến Khu-mật viện Tống đều tưởng chúng ta tiến quân chiếm lại cố-thổ như thời vua Trưng, như Nùng Trí-Cao. Họ đang nghĩ rằng, ta sẽ tiến quân lên chiếm Quảng-châu, Ung-châu, rồi vượt Ngũ-lĩnh chiếm Trường-sa. Do đó họ không giám đem quân từ Kinh-châu về cứu Khâm-châu, Liêm-châu như đã cho Địch-Thanh làm hồi trước. Họ cũng không dám đem quân Trường-sa vượt Ngũ-lĩnh cứu Ung-châu. Thế nhưng ta để ba tháng không tiến quân, họ cho rằng ta ngu, nên họ mới dùng cái thành Ung kiên cố để nhử ta đâm đầu vào vách đá, đợi cho ta hao binh, tổn tướng rồi mới phản công. Trong tâm, họ quyết ta không đủ quân số đánh thành này. Vì chủ quan, họ quên mất địa thế thành Ung ở vào vùng đất quá cao, trong thành nhiều quân, đông dân. Ta chỉ việc khơi lạch cho nước chảy đi hết, thì quân dân trong thành sẽ chết khát.
Chư tướng vỗ tay hoan hô.
Ngô Cẩm-Thi tiếp lời:
- Các vị có thấy không? Ta có năm hiệu Thiên-tử binh, với hiệu kị-binh, quân số chưa quá sáu vạn người, lại đi đường xa mệt mỏi, mà đến đây hơn ngày rồi Tô Giàm cũng không dám đem quân ngưng chiến, thì rõ ràng y nhử ta đánh thành, để ta mua lấy cái thất bại. Ta biết rõ ý đồ của Tô là không xuất khỏi thành đánh ta, thì ta cũng không cần đánh thành vội. Hiện tại Quế-châu có ba đạo binh triều mang số 1, 2, 3 và đạo kị-binh 47. Kinh-châu còn đạo 19, 35. Khi ta vây Ung-châu gấp, ắt Lưu Di cho ba đạo binh 1, 2, 3 và kị binh 47 xuống cứu. Các đạo binh này nhất định phải đi qua núi Đại-giáp, Hỏa-giáp nằm trên đường từ Quế-châu đi Ung-châu, Tân-châu.
Bà chỉ Vũ Quan, Võ Kim-Loan, Đinh Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh:
- Ta phải chuẩn bị chặn đánh cánh quân tiếp viện này. Vậy hai đô-thống đem hiệu Quảng-thánh, Quảng-vũ, một lữ Thạch-xa, một lữ Nỏ-thần, một lữ thú, đội Thần-tiễn Long-biên phục ở núi Đại-giáp để chặn lại.
Đô-thống Phạm Dật hỏi:
- Thưa sư thúc, ta chỉ có hai hiệu Thiên-tử binh mà phải chặn đánh ba đạo binh triều, một đạo kị-binh, e có nguy hiểm không? Hơn nữa, khi ta tiến quân mà phía sau thì thành Ung còn đó. Vạn nhất Tô Giàm cho xuất quân ra đánh cắt mất đường tiếp tế lương thảo thì nguy tai.
- Ta mong như thế.
Cẩm-Thi khẳng định: Nếu Tô xuất quân ra, thì bị trúng kế dụ hổi khỏi hang. Ta sẽ có cách làm cho y kinh hồn táng đởm đến không dám ra khỏi thành nữa. Các vị tưởng rằng ta chỉ có năm hiệu binh thôi ư? Không! Chỉ nội chiều nay bẩy hiệu binh của canh quân đánh Khâm, Liêm sẽ tới, ấy là chưa kể ba hiệu binh thuộc binh Lĩnh-Nam của Tín-Nghĩa vương bất cứ lúc nào cũng có thể nhập cuộc.
Vũ Quang, Hoàng-Nghi lĩnh mệnh rời trướng.
Tôn Đản ban lệnh tiếp:
- Bây giờ lợi dụng việc Tô Giàm không dám xuất thành, mà ta thì quân ít không thể tấn công, ta làm kế nghi binh, khiến cho lòng y nghi hoặc, quân sĩ mệt mỏi. Đợi khi nguyên-soái Thường-Kiệt tới, ta mới đánh thực sự. Vậy...
Ông mỉm cười:
- Phạm Dật, Lê Kim-Liên đánh cửa Tây; Lý Đoan, Trần Ngọc-Liên đánh cửa Nam; Trần Ninh,rần Ngọc-Hương đánh cửa Đông. Hà Mai-Việt đánh cửa Bắc. Ngày mai, giờ Thìn bắt đầu khai pháo.
Kim-Liên kinh ngạc:
- Trình sư thúc, như vậy là ta đánh thành chứ đâu phải gây hoang mang?
- Sư-thúc chưa nói hết. Ta chỉ đánh cầm chừng thôi. Đến đêm thì rút ra xa cho binh sĩ nghỉ ngơi, nhưng vẫn phải cho Thần-ưng, Thần-ngao tuần tiễu đề phòng chúng cướp trại. Sang ngày thứ nhì, thì chỉ mình Phạm Dật, Lê Kim-Liên công phá cửa Tây; ngày thứ ba Lý Đoan, Trần Ngọc-Liên công phá cửa Nam; ngày thứ tư Trần Ninh, Trần Ngọc-Hương công phá cửa Đông; ngày thứ năm Hà Mai-Việt công phá cửa Bắc.
Trần Ngọc-Hương bật cười:
- Tô Giàm là người đa mưu túc trí, trong lòng y nghĩ sằng ta sẽ đánh ào ạt bằng một quân số đông đảo. Không ngờ mỗi ngày ta chỉ công phá một cửa thành, với một quân số bằng một phần mười quân thủ. Nhất định y sẽ hoang mang vô cùng tận. Nhưng thưa sư thúc, tỷ như y thử cho quân xuất thành đánh ta, thì ta phải đối phó ra sao?
Tôn Đản hài lòng:
- Phu-nhân đặt câu hỏi thực thông minh. Ta mong như thế. Mỗi ngày, khi các hiệu binh tấn công, ta đều cho dàn trận phía sau gồm Thần-hổ, Thần-báo, Thần-tượng và Thần-phong. Khi Tô Giàm đem quân ra tập kích, thì các vị cho quân giao chiến qua loa rồi chạy về sau tỏa ra như hình rẻ quạt. Nếu chúng đuổi tiếp sẽ trúng vào trận phục kích của ta. Hiện Tuyết-sơn thập anh với ba trăm đệ tử đã tới ngày hôm qua. Họ trang bị giống quân Tống. Đợi giữa lúc quân Tống trúng phục binh đang hỗn loạn, họ trà trộn nhập thành, để chờ làm nội ứng ngoại hiệp.
Cuộc họp chấm dứt. Tôn Đản sai thư lại ghi chép chi tiết kế hoạch, rồi cho chim ưng mang đến cho nguyên-soái Thường-Kiệt.
Sáng hôm sau, Long-thành ẩn-sĩ Tôn-Đản cùng phu-nhân đứng quan sát các đạo quân lên đường. Ông bà cùng đệ tử đi sau cùng, tiến về thành Ung.
Từ xa xa, nhìn lên thành, thấy binh Tống đi đi lại lại phòng vệ nghiêm mật, cờ xí bay phất phới, gươm đao sáng choang. Ông nói với chư tướng:
- Tô Giám quả xứng đáng là biên-cương trọng thần của Tống, tài y thực không tầm thường. Nhưng tiếc rằng y không có phần nên phải ở dưới quyền bọn tham quan ngu như lợn Dư Tĩnh, Tiêu Chú, Thẩm Khởi, Lưu Di. Nếu y ở vào chức vụ An-vũ kinh lược sứ Lưỡng-Quảng, thì dễ gì mình đã đến được đây.
Giữa lúc đó có tiếng trống thúc vang dội, quân reo dậy đất, cùng tiếng pháo lệnh nổ liên hồi, thì ra đã tới giờ Thìn, quân Đại-Việt bắt đầu công hãm. Loạt đầu Thạch-xa bắn đá lên thành, rồi bộ binh reo hò tiến đến bờ hào. Nhưng quân trên thành cũng bắn tên, quẳng đá xuống, làm quân Việt lại phải lùi lại.
Sau hai lần xung phong thử thách sức phòng ngự, Tôn Đản cho quân lùi ra xa, đánh trống reo hò hư trương thanh thế. Cứ như thế kéo dài suốt ngày, rồi cùng rút ra xa an nghỉ. Sang ngày thứ nhì, Phạm Dật, Kim-Liên; ngày thứ ba Lý Đoan, Trần Ngọc-Liên công thành đều vô sự. Sang ngày thứ tư đến lượt Trần Ninh, Trần Ngọc-Hương công cửa Đông. Từ sáng đến chiều, bộ binh dàn thế trận trước cửa, rồi cho hai đội Thạch-xa, thần tiễn Long-biên ứng trực. Cứ mỗi khắc, Thạch-xa lại bắn những tảng đá lớn lên cổng thành, mặt thành. Quân Tống kinh sợ, không dám nhô đầu lên. Thỉnh thoảng một vài đội trưởng vừa thò đầu lên quan sát, là bị đội thần tiễn Long-biên bắn ngã lộn xuống liền. Cứ như vậy từ sáng tới chiều, hai người vừa định cho quân lui lại, thì Thần-ưng bay tuần thám trên trời báo hiệu trong thành có cuộc chuyển quân ở cửa Bắc, Nam, Đông.
Trong những năm nghiên cứu binh pháp của Tống, các tướng Đại-Việt được biết rằng, mỗi khi cho quân trong thành tiến ra phá vòng vây, thì đầu tiên họ cho đội cung thủ lên mặt thành bắn tên ào ạt, khiến quân vây thành phải lùi lại. Bấy giờ họ mới mở cửa xông ra.
Bây giờ đứng trước việc quân Tống chuẩn bị xuất ra ba cửa, Trần Ninh ước đoán rằng hai cánh xuất ra cửa Bắc, Nam sẽ đánh kẹp hai hông, rồi kị binh sẽ mở cửa Đông đánh trực diện.
Trong Long-biên ngũ-hùng, thì Trần Ninh là người trầm tĩnh, can đảm bậc nhất; chàng vội sai báo cho Tôn Đản biết, rồi lệnh quân cho đổi thế trận: Chia quân làm hai, đối lưng chờ đợi. Còn đội Thạch-xa, Thần-tiễn, Nỏ-thần vẫn tiếp tục tấn công mặt trước.
Quả nhiên, trên thành phát ba tiếng pháo lớn, quân Tống xuất hiện trên cửa Đông thành, dùng cung tên bắn xuống, mục đích đẩy lui quân Việt, cho kị binh xông ra. Nhưng khi họ vừa lên mặt thành, thì đội thần-tiễn Long-biên với đội Thạch-xa bắn những tảng đá khổng lồ bay vi vu, rơi xuống đầu như mưa, khiến kẻ vỡ dầu, người dập thây; người nào thoát được thì lại bị đội thần tiễn bắn ngã. Rồi cửa thành mở lớn, kỵ binh vọt ra ào ào.
Trần Ninh đứng trên bành voi, phất cờ đỏ, lập tức Thần-nỏ tác xạ. Chỉ ba loạt tên liên châu, hơn nghìn kị binh ngã lổng chổng ngay phù kiều chồng chất lên nhau, làm đám kị binh đi sau ùn lại. Toán Thần-tiễn Long-biên dàn ra sau đội Nỏ-thần, cứ kị binh nào xông ra kéo xác người, xác ngựa để mở lối là bị bắn chết. Trong khi đó hai đạo tả, hữu đang giao chiến khốc liệt với quân Tống từ cửa Nam, Bắc đánh kẹp lại.
Một hồi chiêng lệnh vang lên.
Đội Thần-nỏ chia hai, quay lại tác xạ ào ào yểm trợ cho hai đạo Đằng-hải tả hữu. Nhờ vậy cánh quân Tống từ cửa Nam, Bắc phải lùi mấy bước.
Một tiếng pháo lệnh nổ lớn.
Hiệu Đằng-hải chia làm bốn cánh, mỗi cánh đều kéo cờ hồng trên thêu con rồng mầu đỏ, với hàng chữ ”Đằng-hải, đô-thống Trần” bỏ chạy về phía Đông, tỏa ra như hình rẻ quạt. Trong khi đội Thần-nỏ được hai trăm hổ, hai trăm báo yểm trợ vừa tác xạ vừa lùi. Đến đây bộ binh, kị binh trong thành đã đổ ra, tất cả cùng đuổi theo quân Việt.
Một bên đuổi, một bên rút được khoảng hơn bốn dặm (2km ngày nay), có ba tiếng pháo thăng thiên nổ tung trên bầu trời, biến thành hình hai con ưng mầu đen bay giữa mặt trời mầu đỏ chói. Đó là hiệu tập trung binh vào đội giữa. Lập tức hiệu Đằng-hải đang tung ra như hình rẻ quạt, đổi thế trận, tập trung thành trận như hình bốn mũi tên, hàng lối ngay thẳng: Giữa là đội Thần-nỏ, Thạch-xa, hai bên, hai hiệu Đằng-hải tả, hữu. Quân khí hùng tráng ngút trời.
Quân Tống cũng dàn ra thành ba phía như muốn bao vây lấy quân Việt. Rồi một toán quân từ hàng ngũ Tống hộ vệ một người cỡi ngựa đi dưới lá cờ có chữ Trấn-Nam đại tướng quân Tô. Bên phải bên trái là có bốn tướng cỡi ngựa theo bên cạnh từ từ tiến ra.
Bên trận Việt cũng phát ba tiếng pháo, rồi một đoàn nhã nhạc gồm hơn trăm nhạc công nam nữ đi thành hai hàng vừa tấu nhạc vừa tiến ra. Phía sau là hai cỗ xe. Trên cỗ xe thứ nhất một trung niên nam tử mình hạc xương mai ngồi, dáng người tiên phong đạo cốt. Trên cỗ thứ nhì, một trung niên thiếu phụ sắc nước hương trời, tay cầm cây phất trần. Cạnh hai cỗ xe, có lá cờ đề chữ Thuận-thiên đệ ngũ, một lá khác có hàng chữ Đại-Việt Long-thành ẩn-sĩ, Tôn. Phía sau, một đội đệ tử trường Long-thành, lưng đeo cung tên, tay cầm bảo đao đi hộ tống. Khi hai cỗ xe tới trước trận Tống thì ngừng lại.
Một đệ tử trường Long-thành hô lớn:
- Đệ ngũ nhân trong Thuận-Thiên thập hùng, Long-thành ẩn sĩ Tôn Đản xin được thưa chuyện với Tô đại tướng quân.
Tô Giàm thấy quân mình đông gấp ba quân Việt, dàn trận bao vây đối phương, thế mà chúa tướng đối phương lại ngồi xe, ung dung tấu nhạc ra trước trận, thì trong lòng bắt đầu nghi hoặc, từ nghi-hoặc đến chột dạ. Y cung tay:
- Tiểu bối từng nghe danh Tôn lão sư trong lần đi sứ Trung-nguyên thời vua Nhân-tôn: Cùng Kinh-Nam vương, U-bon vương diệt trừ dư đảng Hồng-thiết giáo Trung-nguyên. Khi về nước lão sư lại vang danh trong trận chư vương khởi loạn thời Thuận-Thiên. Rồi lão sư lại oai trấn Nam phương trong hai lần bình Chiêm. Gần đây trong trận đánh Chương-giang, Quảng-châu với Dư Tĩnh, người cùng phu nhân đuổi Dư Tĩnh chạy trên hai trăm dặm. Hôm nay, tiểu tướng mới được diện kiến với lão-sư cùng phu nhân, thực là tam sinh hữu hạnh.
Tôn Đản cung tay đáp lễ:
- Đa tạ Tô đại tướng quân quá khen.
- Tiểu bối hằng khâm phục cái đức của lão sư cùng phu nhân. Tuy công lao trùm hoàn vũ, mà một đồng bạc, một đấu thóc của nhà vua lão sư cũng không nhận. Thanh cao thay, nghĩa khí thay. Nhưng thưa lão sư, nay giữa lúc hai dân Tống Việt đang sống thanh bình, lão sư với phu nhân lại đem quân đánh phá suốt một giải Nam thùy của Đại-Tống, khiến quân sĩ hai bên phơi thây trên chiến địa như núi, máu chảy thành sông đã đành; mà... dân chúng còn tan nhà nát cửa điêu linh vô cùng tận. Dám hỏi, đó có phải là võ đạo của lão tiên-sinh không? Mong lão tiên sinh dạy cho một lời.
Tôn Đản phe phẩy chiếc quạt lông, rồi mỉm cười:
- Chết thực, một người trong lòng chứa không biết bao nhiêu cơ trí, kiến thức như Tô tướng quân mà sao lại nói vậy? Này tướng quân ơi, thời đức Chân-tông, Nhân-tông bên quý quốc, các ngài yêu thương dân như con đỏ, coi binh tướng như chân tay. Cho nên hơi có đụng chạm ở Nam-thùy là người ban chỉ dàn xếp cho êm đẹp. Vì vậy Tống triều không phải lo mặt Nam, mới đủ sức chống với Tây-Hạ, Bắc-Liêu. Có đúng thế không?
- Quả như lão-sư dạy.
- Hy-Ninh dùng ma pháp, tà-pháp của Vương An-Thạch, làm cho nhân-sĩ, võ-lâm thiên hạ đều oán hận, dân chúng khổ đến sống không nổi, mà chết cũng không xong vì pháp Thanh-miêu, Trợ-dịch, Bảo-mã, Bảo-giáp; oán khí bốc lên đến trời xanh. Để che lấp tội trạng, Hy-Ninh tích trữ lương thảo chuẩn bị đánh chiếm tám vùng tộc Việt. Triều đình, võ-lâm Đại-Việt biết hết. Con chó, con mèo bị dồn đường cùng, nó cũng phải cắn lại, huống hồ chúng tôi? Cho nên triều đình võ-lâm Đại-Việt quyết định đánh sang, trước giúp dân Lĩnh-Nam thoát khỏi nỗi thống khổ của ma pháp họ Vương, sau là diệt từ trong trứng nước âm mưu gây chiến của Hy-Ninh. Này Tô tướng quân.
Ông vận nội lực nói thực lớn:
- Vơ vét của dân làm giầu là Hy-Ninh, là Vương An-Thạch, thế nhưng chúng sai những bọn vừa ngu, vừa đần Tiêu Chú, Thẩm Khởi, Lưu Di xuống Lĩnh-ngoại này lăng xăng gây chiến, rồi đẩy Tô tướng quân với tướng sĩ vào chỗ chết. Này Tô tướng quân! Nay hùng sư Đại-Việt sang đây, thế nghiêng trời lệch đất, liệu Tô tướng quân có chống nổi không?? Dĩ nhiên là không! Biết rằng chống không nổi, mà vẫn chống, tự lăn mình vào chỗ chết, tấm thân phơi cho ruồi bâu cho quạ ăn đã đành, mà vợ con, tôi tớ đều chết oan cho bọn cú diều Hy-Ninh, Vương An-Thạch, hỏi có đáng không? Như vậy là ngu trung, si dũng. Tôi có đề nghị với tướng quân.
- ???
- Sẵn binh lực trong tay, tướng quân cũng lão phu đem quân đánh Quế-châu, bắt tên Lưu Di ngu dần cùng cả nhà chúng giết cho hả giận, rồi sang Đại-Việt sống, như vậy vừa giữ được tấm thân kẻ sĩ, vừa bảo trọng được gia quyến; mà sĩ thiên hạ đều ngợi khen.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 166
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com