watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
15:46:1126/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50 - Trang 5
Chỉ mục bài viết
Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Trang 37
Trang 38
Trang 39
Trang 40
Trang 41
Tất cả các trang
Trang 5 trong tổng số 41



Chương 33a

Hùng-Khí Lưu Thiên Cổ

Tháng 6, ngày mười bẩy, niên hiệu Thái-Ninh thứ tư đời vua Lý Nhân-tông của Đại-Việt 0 bên Trung-nguyên nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ tám đời vua Thần-tông nhà Tống.
Trên bến Tiềm-long bên bờ sông Hồng, hoa phượng nở đỏ rực bầu trời. Giòng sông nước đục ngầu chảy siết về hạ lưu, trên mặt nước lềnh bềnh những khúc củi mục nhấp nhô xuôi giòng. Buổi sáng Thăng-long về mùa hè, bầu trời xanh ngắt, không gợn chút mây tơ. Tiếng ve rên rỉ những bản nhạc u sầu dài liên miên bất tuyệt. Mặt trời đã lên cao, vượt khỏi những lũy tre già. Một chiến hạm lớn thuộc hạm đội Động-đình đậu tại đó từ bao giờ. Chiến thuyền có hai cái cầu gỗ bắc từ cửa đến bờ. Mỗi cửa đều có hai thủy binh đứng gác.
Hai chiếc xe song mã bịt kín từ cửa Đại-hưng tiến về phía bến Tiềm-long. Bất cứ ai liếc qua cũng biết đây là hai chiếc xe rất lớn, thuộc loại chở lương thực. Mấy viên thủy thủ có nhiệm vụ tưới hoa trong vườn cảnh bến Tiềm-long ngơ ngác nhìn chiếc xe, rồi nói với nhau:
- Kìa xe chở lương thực xuống chiến thuyền kìa. Chắc chiến thuyền này lại sắp ra khơi hẳn!
Hai chiếc xe tới đầu cầu chiến thuyền thì dừng lại. Cửa xe mở ra, lập tức có rất nhiều người từ trong tung mình ra, rồi vượt cầu vào trong chiến thuyền. Hết hai xe này, lại có hai chiếc khác. Cứ như vậy, khi trời gần trưa thì đã có tới mười chiếc xe đến rồi ra đi.
Bây giờ thuyền mới rút cầu, nhổ neo, xuôi giòng.
Trong khoang lớn nhất của thuyền, đèn nến sáng trưng. Hơn trăm người ngồi im lặng, chia thành bốn hàng hình chữ U. Những người đó, kể từ cao xuống thấp có Linh-Nhân hoàng thái hậu, Thái-Ninh đế, Đại-tư mã Lý Thường-Kiệt, Thái-úy Hoàng Kiện, Đại-đô-đốc Lý Kế-Nguyên, quản Khu-mật viện kiêm tổng-trấn Thăng-long Trung-Thành vương, Tổng-lĩnh Thiên-tử binh Tín-Nghĩa vương.... thấp nhất là mười hai Đô-thống chỉ huy mười hai hiệu Thiên-tử binh.
Lễ tất.
Linh-Nhân hoàng thái hậu mở đầu:
- Tình hình biên cương cực kỳ khẩn trương. Tống đang chuyển đại binh từ Tây-thùy, Bắc-thùy về Nam-thùy đánh ta, cho nên cô-phụ phải tổ chức buổi hội mật này để đối phó. Hơn lúc nào hết, lúc này là lúc ta phải bỏ hết tỵ hiềm mới mong tồn tại. Chính vì vậy, Hoàng-thượng ban chỉ ân xá cho Thái-sư Lý Đạo-Thành, phục hồi chức tước để người có thể tham dự vào công việc hộ quốc. Nào mời Thái-sư ra.
Thái-sư Lý Đạo-Thành từ trong bước ra chắp tay vái Linh-Nhân hoàng thái hậu với Thái-Ninh đế, sồi ngồi vào ghế.
Thái-hậu tiếp:
- Trong buổi triều hội này, lễ nghi được giản tiện hết sức. Các vó đại thần khi tâu trình không cần xưng tên, cứ ngồi nguyên tại vị không phải quỳ gối hành lễ.
Thái-hậu hướng mắt vào Trung-Thành vương:
- Hoàng-thúc! Hoàng-thúc chưởng quản Khu-mật viện, xin hoàng-thúc cho biết tình hình chuyển quân bên Tống đã.
Nguyên tuổi của Trung-Thành vương, Tín-Nghĩa vương tương đương với tuổi của Linh-Nhân hoàng thái hậu. Hậu lấy nghĩa: vua Thánh-tông là con nuôi của Khai-Quốc vương, thì hai vương là chú của Thái-Ninh hoàng đế, nên bà gọi hai vương bằng hoàng-thúc, và ban chỉ cho hai vương vào triều được đeo kiếm, khi tâu không phải xưng tên.
Trung-Thành vương tâu:
- Tống đã chuẩn bị để tiến đánh Đại-Việt suốt mấy năm qua. Gần đây, họ chuyển một số quân rất lớn từ vùng Trường-sa, Kinh-châu về Quảng-đông, Quảng-tây. Trong khi đó, các biên thần Nam-phương ra sức tuyển mộ tân binh, tổ chức thổ binh thành bảo-giáp. Dọc bờ biển họ đóng chiến thuyền, thao diễn thủy quân. Mấy chục năm qua các châu Nam-thùy Tống phải thu góp lương thảo, vàng bạc chuyển lện cho mặt trận Tây, Bắc. Nhưng năm năm gần đây, họ được chỉ dụ không những giữ lương tiền lại, mà còn nhận được lương tiền của vùng Kinh-hồ. Thần thấy rõ ràng họ đang chuẩn bị đánh Đại-Việt.
Đại-tư mã Lý Thường-Kiệt hỏi:
- Xin vương gia cho biết tổ chức lực-lượng Tống tại Nam thùy ra sao?
Trung-Thành vương đem cuốn trực lớn, trên vẽ bản đồ Hoa-nam treo trước cử tọa, rồi trình bầy:
- Phiá Bắc Trường-giang là Kinh-châu. Trước kia Tống có hai mươi vạn quân. Sau khi Địch Thanh đem xuống đánh nhau với quân tám vùng tộc Việt trong cuộc khởi binh của Nùng Trí-Cao, các đạo quân này bị diệt. Địch Thanh bị công-chúa Bảo-Hòa đánh bại, y tổ chức lại các đạo quân này, rồi đem thêm quân ở Tây-thùy về đánh Nùng Trí-Cao. Thành công rồi, y lại mang các đạo quân ấy trở về chỗ cũ. Tại phía Nam sông Trường-giang, hiện có quân của Đàm-châu, Quý-châu, Quảng-đông, Quảng-tây. Nhưng quân ở Đàm, Quý không nhiều, vả khi hữu sự họ cũng không thể điều đi nơi khác, vì phải phòng Đại-lý.
Nhà vua đưa mắt nhìn Côi-sơn tam anh:
- Tam vị sư phụ! Bây giờ trẫm mới hiểu tại sao U-bon vương Lê Văn cứ luôn thao luyện quân sĩ ở Bắc-thái. Thì ra người « hù » Tống hẳn?
Trung-Thành vương cúi đầu:
- Đúng như bệ-hạ phán! Rút lại chỉ có quân lưỡng Quảng là đáng để cho ta phải quan tâm. Trước kia lưỡng Quảng chưa có quân triều. Gần đây họ điều tám đạo rất thiện chiến ở vùng Tây-biên. Mỗi đạo một vạn người. Trong năm đạo đó, một đạo đóng ở Quảng-châu, hai đạo đóng ở Ung-châu, một đạo đóng ở Liêm-châu, một đạo đóng ở Khâm-châu, ba đạo đóng ở Quế-châu. Kị binh trước kia không có, nay họ điều về hai đạo, đó là đạo Thiểm-tây và đạo Ký-bắc. Đạo Thiểm-tây chia ra, một lữ (ghi chú: 3 nghìn) đóng ở Liêm-châu, một lữ đóng ở Khâm-châu, một lữ đóng ở Ung-châu. Đạo Ký-bắc đóng ở Quế-châu. Thủy quân có một hạm đội đóng ở Quảng-châu. Quân của lưỡng Quảng thì có đạo đệ nhất chia ra nửa đóng ở Hoành-sơn, nửa đóng ở Thái-bình. Đạo đệ nhị một nửa đóng ở Vĩnh-bình, một nửa đóng ở Tây-bình. Đạo đệ tam một nửa đóng ở Lộc-châu, một nửa đóng ở Cổ-vạn. Ngoài ra còn quân bảo-giáp, quân khê-động nhiều ít khác nhau.
Thấy chư tướng chưa hơi có vẻ ngơ ngác, vương trình bầy rất khoan thai:
- Tóm lại, tại Quảng-Tây lộ có tám vạn bộ, hai vạn kỵ, chia ra như sau: Đồn trú giữ thủ phủ Ung-châu có hai vạn quân triều, một vạn kỵ binh. Đồn trú tại Quế-châu có ba vạn bộ, một vạn kỵ. Các ải thống thuộc Ung-châu, còn có ba đạo quân Quảng, chia ra đóng ở Hoành-sơn, Thái-bình, Vĩnh-bình, Tây-bình, Lộc-châu, Cổ-vạn. Tổng cộng chín vạn người. Còn quân bảo-giáp của khê-động thì nhiều ít thất thường, khi khởi sự các động chủ trấn thủ của ta sẽ trình sau.
Vương chỉ vào vùng Quảng-đông lộ:
- Tại đây có ba vạn quân triều, một vạn thủy binh, một vạn kị, chia ra như sau: Quảng-châu hai vạn bộ, một vạn thủy binh, ba nghìn kị; tại Liêm-châu, có một vạn bộ , ba nghìn kị binh. Tại Khâm-châu có một vạn quân triều, ba nghìn. Tổng cộng thủy bộ sáu vạn. Còn quân bảo-giáp, khê-động rất ít.
Vương kết luận:
- Như vậy tổng quân Tống ở lưỡng Quảng có mười sáu vạn, không kể quân bảo-giáp, khê động. Trong tương lai, khi đánh ta, họ sẽ đem hai mươi đạo quân triều thiện chiến, với năm đạo kị binh từ biên giới Tây-hạ về. Hai hạm đội từ Mân-Triết xuống. Ngay từ bây giờ ta phải chuẩn bị đối đầu với năm mươi vạn quân bộ thủy bộ, với khoảng mười vạn quân bảo-giáp, khê động và năm mươi vạn dân phu. Tổng cộng một trăm vạn người ngựa.
Ghi chú,
Thời Tống giờ chưa phân chia ra Quảng-đông, Quảng-tây như bây giờ, mà gọi chung là Quảng-nam lộ, mà thủ phủ là Quế-châu. Đôi khi chia ra Quảng-đông Nam-lộ và Quảng-Tây Nam lộ. Về quân số của Tống, tôi theo QTNC và TTCTGCK, TTCTBK, chứ không theo TS, VSL, ĐVSKTT, TTTTGTB.

Nghe vương tâu trình, người người nhìn nhau tỏ vẻ lo lắng.
Đại-tư mã Thường-Kiệt đứng dậy nói lớn:
- Binh-pháp nói : « Quân quý hồ tinh, bất quý hồ đa » nghĩa là quân quý ở chỗ tinh-luyện, chứ không quý ở đông. Các vị hãy nhớ thời vua Lê, Đại-Việt chỉ có mười vạn, mà thắng ba mươi vạn quân Tống ở Chi-lăng, Bạch-đằng. Hồi tiên-nương Bảo-Hòa, Đại-Việt chỉ có mười lăm vạn, mà thắng năm mươi vạn quân Tống. Mới đây, vua bà Bình-Dương chỉ có năm vạn binh mà thắng mười vạn quân của bọn Lý Sư-Trung, Tiêu Cố, Tiêu Chú.
Ông chỉ vào Tây-hồ thất kiệt, Long-biên ngũ hùng:
- Từ bẩy năm nay, Thiên-tử binh được trao cho các Đô-thống này, hầu như đã thay đổi hoàn toàn. Bây giờ tôi để cho Đô-thống Phạm Dật, phu nhân Lê Kim-Loan trình bầy về phương cách huấn luyện binh để các vị thấy tại sao người Tống nghe đến Thiên-tử binh đều tỏ vẻ kinh sợ.
Phạm Dật đứng lên cung tay:
- Quân mạnh hay không là do uy, lực, thế, trang. Uy tức kỷ luật phải nghiêm. Kỷ luật nghiêm thì khi lệnh ban ra người người đều răm rắp thi hành, lúc đối diện với giặc khi tiến, lúc lùi, nhất nhất vạn người như một. Vì vậy mỗi đội quân, khi đối diện với địch thì phía sau đều có ba võ sĩ đao phủ; một lệnh tiến ban ra, mà binh nào chần chờ, lui lại, hay quay đầu lại thì chém tại chỗ. Cho nên chúng tôi tự hào là Thiên-tử binh chỉ biết chết, chứ không biết lùi. Thứ hai là lực. Lực là sức manh, cho nên tất cả tướng sĩ, mỗi ngày đều phải luyện tập bốn giờ (8 giờ ngày nay),chia ra: Một giờ luyện tập võ nghệ, một giờ bắn cung, một giờ xung phong hãm trận, một giờ học tập binh pháp. Vì vậy, một Thiên-tử binh, sau một năm tại ngũ, về võ nghệ đã có thể tay không đánh thắng bốn năm người, hoặc khi đối địch với kẻ dùng cùng một thứ vũ khí, có thể thắng ba đến mười người. Hóa cho nên sau bẩy năm, những Thiên-tử binh của ta đã có trình độ võ công như một võ sĩ. Về hành binh, thì cứ một ngày tập trận giả đánh trong đồng cỏ, một ngày tập đánh trong rừng, một ngày tập đánh ở đồng lầy, một ngày tập công thành.
Các quan cùng gật đầu tỏ ý tin tưởng.
- Thứ ba là thế. Thế tức là sự phối hợp giữa các đội quân bộ, như khi nào thì dùng Thần-nỏ, khi nào thì dùng Thạch-xa, khi nào thì phóng lao, khi nào thì bắn tên, khi nào thì xung sát chém giết. Lại huấn luyện khối hợp giữa bộ binh, kị binh, thủy binh, Thần-nỏ, Thạch-xa, thú binh. Tỷ như hiệu Ngự-long đối trận với một đạo kị binh Tống, tôi chỉ việc ra lệnh cho lữ nào đánh mặt phải, lữ nào đánh mặt trái, lữ nào đánh trực diện, lữ nào trừ bị. Các lữ trưởng thấy binh địch còn ở xa, thì ra lệnh cho Thạch-xa bắn ngay vào hàng đầu của địch. Khi địch lại gần, thì cho Thần-nỏ bắn. Khi hai bên giáp nhau rồi, thì đội đao thủ xung lên chém chân ngựa, đội cung thủ thì bắn kị mã.
Phạm Dật ngừng lại, đưa mắt cho Lê Kim-Loan. Kim-Loan biết ý chồng, nàng trình bầy:
- Thứ tư là trang. Như các vị thấy, Thiên-tử binh được trang bị giầy bằng vải thực dai, thực dầy, đế bằng da, để khi dẵm phải đá, phải sỏi thì không đau. Ngực, lưng được che bởi miếng hộ tâm kính bằng thép, đầu đội chiếc mũ bằng thép mỏng. Về vũ khí, thì mỗi Thiên-tử binh đều được phát cho hai thứ; một là vũ khí chính như đao, giáo; hai là vũ khí phụ như cung tên, mũi lao, dao ngắn.
Vũ Quang chỉ vào Trung-Thành vương, Tín-Nghĩa vương:
- Từ sau cuộc bình Chiêm trở về, Trung-Thành vương, Tín-Nghĩa vương nghiệm thấy rằng trong cuộc Nam chinh, những trận thắng dễ dàng là nhờ chư tướng kết thân với nhau, một lần suýt thất bại vì tên Trần Thanh-Nhiên ghen tỵ với Long-biên ngũ hùng. Cho nên nhị vương đã ban lệnh đi các trấn, các hạm đội, bắt bược một tháng, chư tướng từ cấp lữ phải hội họp ba ngày với nhau để có dịp học tập binh pháp, ăn ở cùng nhau, vui đùa có nhau, thắt thêm tình bạn.
Hoàng-Nghi tiếp lời Vũ Quang:
- Trung-Thành vương đã nghiên cứu phương thức huấn luyện binh lính của Tống, rồi soạn một tập binh pháp mới để phá binh pháp Tống. Nếu nay mai khi giao chiến với Tống, chỉ thoáng thấy đội hình của họ, là chúng tôi đã biết họ định làm gì, ta muốn phá họ thì phải làm gì.
Thường-Kiệt vào công chúa Thiên-Ninh:
- Thêm vào đó, Bà-chúa-kho cho tổ chức nhiều ao nuôi cá, nhiều cánh đồng nuôi gà vịt, nhiều nhà nuôi lợn, có lương thực cho binh tướng ăn thêm trong những ngày luyện tập để lấy sức. Cho nên binh tướng đều vui lòng vì được hậu đãi. Hiện lương bổng của quân ta cao gấp ba quân Chiêm, gấp đôi quân Tống, lại được đối đãi như chân tay, nên giữ binh với tướng có mối thâm tình như cha con, anh em.
Thái-úy Hoàng Kiện hỏi Trung-Thành vương:
- Theo ước tính của vương gia, thì bao giờ họ đánh mình?
- Trong năm tới.
Trung-Thành vương khẳng định: Ba sứ đoàn mật của ta cử sang Tống, Liêu, Hạ thành công mỹ-mãn. Nhưng dù Hạ, Liêu đòi điều kiện gì Hy-Ninh đế với Vương An-Thạch cũng chịu. Tống mới cắt dâng cho Liêu 700 dặm ở vùng Liêu-đông, dù phe thân mình ra sức công kích. Nguyên trong triều Tống, phe chủ đánh Bắc hòa Nam đa số là các tướng do Kinh-Nam vương đào tạo. Nhưng mấy năm trước, Kinh-Nam vương, công chúa Huệ-Nhu không đồng chính kiến với Hy-Ninh đế và Vương An-Thạch, hai vị cáo quan về triều, rồi ngao du sơn thủy. Vì vậy phe chủ đánh Nam phương mạnh lên.
Linh-Nhân hoàng thái hậu tuyên chỉ:
- Trước khi nghị sự, xin vua bà Bắc-biên lược tấu về tất cả chính sách Nam-thùy của Tống từ thời vua thái-tổ là Triệu Khuông-Duẫn đến giờ.
Công chúa Thiên-Thành đứng dậy ra tâu:
- Chính sách của Tống đối với Đại-Việt ta từ trước đến nay không bao giờ nhất định. Nó thay đổi tùy vào sức mạnh của ta, và tùy vào triều đình của Tống. Triều đình mà thần muốn tâu ở đây bao gồm nhà vua và các quan. Tuy vậy chính sách của họ có thể chia làm bốn. Một là ước thúc, hai là hoà hoãn, ba là co rút, bốn là hung hăng.
Công-chúa ngừng lại, đưa mắt quan sát triều đình một lượt rồi tiếp:
- Thời kỳ ước thúc là thời kỳ vua Tống Thái-tông, Chân-tông. Sau khi bị bại ở Chi-lăng vào thời Lê bên Đại-Việt, Tống còn bị Liêu đánh phải bỏ Thái-nguyên, U-tô. Vì phải lo đối phó với Liêu, vua Thái-tông, vua Chân-Tông ước thúc bọn đại thần Nam thùy phải mềm mỏng, tránh gây chiến với các nước phương Nam, để dồn nỗ lực đánh với Liêu. Thời vua Chân-tông họ bị Liêu chiếm mất mấy châu phía Bắc, còn bắt triều cống mỗi năm mấy vạn lạng vàng, hàng triệu hộc lúa, cực kỳ nhục nhã. Lúc vua Chân-tông băng hà, Lưu thái hậu nhiếp chính. Bà cùng Tể-tướng Lã Di-Giản, Tào Lợi-Dụng chủ trương nhún mình với phương Bắc, để đánh phương Nam. Sau khi đánh được các nước phương Nam, Tống sẽ có thêm lương thảo, nhân lực. Bấy giờ họ mới quay lên Bắc đối phó với Liêu. Biết được chủ trương này, Khai-Quốc vương đem một sứ đoàn sang Tống, giúp Yên-vương Triệu Nguyên-Nghiễm lật Lưu thái hậu, cùng phe chủ chiến trong triều. Vương kết thân với Yên-vương. Rồi thiếu hiệp Trần Tự-Mai kết thân với vua Nhân-Tông, thành phò mã Tống, được phong làm Ngô-quốc quận vương. Vua Nhân-Tông quyết định giữ yên mặt Nam, quay lên Bắc đối phó với Liêu. Ngô-quốc quận vương Trần Tự-Mai với công-chúa Huệ-Nhu được trao nhiệm vụ tổng trấn Nam thùy. Nhờ uy của hai vị mà trong hơn hai chục năm Tống-Việt vô sự -19 0.
Công-chúa đem ra một cái trục lớn treo lên. Trên trục vẽ bản đồ Trung-quốc và Tây-hạ, rồi tiếp:
- Trong thời gian hai mươi năm ấy, Tây-hạ được cai trị bởi một vị vua trẻ, có hùng tâm, đại lược. Chỉ sau mười năm, Hạ trở thành một nước binh hùng, tướng mạnh. Hạ-vương không chịu thần phục Tống, mang quân chiếm một vùng đất lớn. Tống sai bọn Địch Thanh, Tôn Tiết, Trương Ngọc đem quân chống cự, nhưng bị bại liên tiếp. Vua Nhân-tông triệu Ngô-quốc quận vương về kinh cải phong là Tần-vương, chuyển lên Tây-thùy đánh nhau với Hạ. Thế là vấn đề ước-thúc Nam-biên mất người chủ trương. Bọn biên thần Nam phương như Dư Tĩnh, Tiêu Chú hăm he muốn gây chiến. Chúng luyện binh sĩ, đồn chứa lương thảo, ép các trang động Bắc-biên, xui Chiêm đánh phía sau ta. Đứng trước tình trạng đó, Khai-Quốc vương quyết định ra tay trước. Một mặt người ra quân thình lình đánh Chiêm. Sau khi bình Chiêm, người huy động quân tám vùng tộc Việt đánh chiếm Lưỡng-quảng, thiết lập nước Đại-Nam, trao cho Nùng Trí-Cao làm vua. Không may cho ta, Nùng Trí-Cao lên làm vua rồi, ông ỷ nước mình lớn, không thần phục Đại-Việt, muốn lấn áp Đại-lý. Gặp lúc Khai-Quốcvương vân du Chân-lạp, Tống dồn hết quân Tây-thùy, Bắc-thùy trao cho Địch Thanh đánh Nùng Trí-Cao. Trí-Cao không được Đại-Việt, Đại-lý chi viện, nên Đại-Nam bị Tống chiếm mất. Từ đấy Tống bỏ chính sách ước thúc ở Nam-thùy; đổi sang chính sách hoà-hoãn. 0.
... Hòa hoãn có nghĩa là không đem quân xâm lấn, nhưng cái gương Nùng Trí-Cao, khiến Tống đem trọng binh xuống Nan-thùy, mộ thêm quân, huấn luyện thổ-binh, lập nhiều đồn, tích trữ lương thảo. Sau mấy năm, binh lực Tống ở Nam-thùy trở thành hùng mạnh. Bọn biên-thần được mật chỉ của vua Nhân-Tông, chiêu mộ, đe dọa, ép các trang-động Bắc-biên. Thấy rằng nếu cứ để Tống áp dụng chính sách tằm ăn dâu mãi, thì Bắc-biên sẽ không còn khê động nào nữa. Đức Thánh-tông hội với cô-mẫu 0, rồi đem quân vượt biên đánh chiếm lại hết các trang động đã mất. Tống mang quân phản công, bị thua, đành xin hoà, cách chức hết bọn biên thần Nam-thùy như Lý Sư-Trung, Tiêu Cố, Tiêu Chú, Dư Tĩnh. -5.
... Sau thời gian này, vua Nhân-Tông băng, Anh-Tông lên kế vị. Vì hồi còn là Thái-tử, Anh-Tông chủ đánh Nam-thùy; ông sang Đại-Việt nghiên cứu, bị võ-lâm triều đình Đại-Việt làm cho kinh hồn táng đởm. Nên khi lên ngôi vua, ông áp dụng chính sách co rút. Nghĩa là binh lực Nam-thùy vẫn giữ nguyên, nhưng tuyệt đối không lấn các nước lân bang -3.
... Nhưng vua Anh-Tông trị vì không được lâu dài. Sau khi người băng hà, Thái-tử lên nối ngôi hiệu là Hy-Ninh. Thời gian làm thái-tử Hy-Ninh từng nghe ông cha, thái-phó nói nhiều về cái nhục phương Bắc, Tây, Nam, nên ông nảy ra hùng tâm muốn thoát ra khỏi tình trạng đó. Ông dùng Vương An-Thạch, áp dụng Tân-pháp. Sau sáu năm, dân trở thành giầu, binh lực hùng mạnh, quốc sản dồi dào. Nên ba năm trước, Hy-Ninh với An-Thạch muốn dụng binh rửa nhục. Ông hội các đại thần nghị kế, nên đánh Liêu trước hay đánh Đại-Việt trước. Các văn quan muốn đánh Đại-Việt trước. Đại-Việt bại, thì Chiêm, Chân, Lào phải đầu hàng. Bấy giờ chỉ ngọn cờ về Tây là chiếm được Đại-lý, Xiêm. Còn các võ tướng thì lại chủ trương đánh Liêu trước, chiếm lại phần đất đã mất, rửa nhục bị tiến cống. Sau khi Liêu bại, thì các nước phương Nam không cần đánh cũng phải quy phục.
... Khi được tin này, ta cử ba sứ đoàn mật sang Tống, Liêu, Hạ. Cả ba sứ đoàn đều thành công. Nhưng từ khi Kinh-Nam vương cáo lão về ngao du sơn thủy, thì phe chủ đánh Nam phương thắng thế, Tống triều thay đổi chính sách như Trung-Thành vương tâu. Từ chính sách co rút, họ đổi sang chính sách hung hăng, khiêu khích. -8
Linh-Nhân hoàng thái-hậu đứng dậy hướng Côi-sơn tam anh:
- Tam vị sư bá. Xin các sư bá cho biết chi tiết về cuộc tranh luận của các đại thần Tống về việc đánh Nam hay đánh Bắc. Có như vậy ta mới có thể quyết định được đường lối.
Trần Trung-Đạo đứng lên trình bầy:
- Tâu thái-hậu, tâu hoàng-thượng, thần xin bắt đầu khi Vương An-Thạch lên chấp chính. Từ tiền cổ đến thời vua Thái-tông nhà Tống, những tể-thần phần đông là võ-quan có huân công, rồi lên làm tể-tướng, hoặc cũng có thể là thái-giám, là văn quan. Kể từ thời vua Chân-tông đến giờ -78 hầu hết những người nắm chức tả bộc-xạ, hữu bộc-xạ 0 hay tham-tri chính-sự 0 đều là những văn-gia, thi-sĩ, tư-tưởng gia nức tiếng thiên-hạ, có nhiều tác phẩm danh tiếng. Dĩ nhiên họ đều là nho-gia. Mà khi là nho gia, thì thủ cựu. Việc cai trị dân luôn luôn phải theo Tam-hoàng, Ngũ-đế. Mỗi luật lệ đều phải phỏng theo Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang. Mỗi chế, chiếu, biểu đều phải dẫn Tứ-thư, Ngũ-kinh. Trong khi ta, Liêu, Hạ lại vượt qua những điều hủ lậu, miễn sao làm cho dân hạnh phúc là được rồi. Việc cải cách của Vương An-Thạch, bình tâm mà bàn, quả là thực tế. Nội dung cải cách đó đối với ta thì thua xa, trong khi đối với các nho thần Tống thì quá táo bạo. Ngay những năm đầu cải cách, hầu hết các tể thần đều chống đối. Hy-Ninh đế thẳng tay cách chức những tể-thần đó, đổi ra các châu. Đó là điểm vừa yếu, vừa dại.
Đô-thống Vũ Quang hỏi:
- Thưa sư-bá 0, xin sư bá giải rõ đôi chút, rằng tại sao Hy-Ninh đưa các tể thần ra các châu là điều vừa yếu, vừa dại?
- Giản-dị thôi. Như trên đã tâu, các tể thần đều là văn gia, tư tưởng gia có những danh tác, rất được quần chúng hâm mộ. Nay cách chức họ, thì dân chúng bất phục, đó có phải là điều làm suy yếu lòng tin của dân chúng về Tân-pháp không? Khi đưa họ ra các châu làm quan, họ gần dân chúng hơn, gần sĩ dân hơn, họ có dịp nói với mọi người rằng họ có lý. Họ đem những cái dở, cái bất lợi của Tân-pháp phơi ra với quần chúng. Đó có phải là điều dại không?
Ông tiếp:
- Nay sau chín năm áp dụng Tân-pháp, thành công nhiều về quốc-sản, về binh-bị, nhưng thất bại về nhân tâm. Ngày 13 tháng 7 niên hiệu Thần-vũ thứ nhì 0,An-Thạch tâu với nhà vua rằng: « Trước đây triều đình chỉ chú trọng vào mộ-binh (binh triều), thành ra binh không nhiều lại rất tốn kém, mà khi hữu sự phải điều động. Ta phải bắt chước Giao-chỉ huấn luyện dân binh, gọi là bảo-giáp 0. Khi có biến, bảo-giáp tự chống cự cầm chân giặc, rồi ta cứu viện bằng chính binh sau ». Vua thuận. Thế là Tống cử Tô Giàm, một biên thần có công chống Nùng Trí-Cao về coi Ung-châu, lo việc luyện dân binh, lập thêm một đạo binh (ghi chú: đạo của Tống khoảng 10 nghìn người, tương đương với ngày nay là một sư đoàn).Cuối năm này, viên chuyển vận sứ Quảng-Tây là Đỗ Kỷ sưu tầm đầy đủ về tình hình nước ta: dân số, tổ chức quân đội, địa thế. Bấy giờ ta mới thắng Chiêm, thanh thế lừng lẫy nên Tống chưa dám đánh. Nhà vua chuyển những chi tiết đó cho Khu-mật viện làm tài liệu. 0.
Công-chúa Thiên-Ninh góp ý:
- Như vậy ta cũng biết rõ tâm-tư Hy-Ninh và Vương An-Thạch: Họ gờm ta. Khi họ đã gờm, thì lúc đánh ta họ phải dùng hết lực.
Trung-Đạo tiếp:
- Điện hạ luận đúng. Tháng giêng niên hiệu Thần-vũ thứ ba 0, Hy-Ninh phục chức cho Tiêu Chú. Nguyên niên hiệu Chương-thánh Gia-khánh thứ nhì đời vua Thánh-tông 0, Tiêu Chú tuân mật chỉ của nhà vua lấn chiếm các trang, động của Đại-Việt, bị vua bà Bình-Dương, phò mã Thân Thiệu-Thái mang quân đánh tràn qua. Quân Tống đại bại xin hòa. Vua bà đòi cách chức hết bọn biên thần. Vua Nhân-tông phải giả cách chức bọn biên thần Nam-phương, rồi phong cho chức tước lớn hơn, đổi đi những vùng béo bở hơn. Tháng giêng niên hiệu Thần-vũ thứ ba 0, để chuẩn bị đánh Đại-Việt, Hy-Ninh vội triệu Tiêu Chú về hỏi ý kiến. Tiêu Chú tâu « Trước đây tôi đã ở Ung-châu lâu, tôi biết rằng Giao-chỉ có thể lấy được ». Hy-Ninh cử Chú coi Quế-châu, kiêm luôn Kinh-lược an-phủ-sứ Quảng-Tây. Chú trở về đất cũ, với thái độ hung hăng. Y cho người liên lạc với các chúa khê động Bắc-biên xưa, thanh thế Tống trở thành mạnh. Mỗi hoạt động của ta, Tống đều biết hết. Tháng 11, tin đó về triều, đức Thánh-tông sai động trưởng Quảng-nguyên là Lưu Kỷ đem quân chiếm lại châu Quy-hóa là châu Nùng Tông-Đán theo Tống, nộp cho Tống. Tiêu Chú xin chỉ dụ của triều đình bắt buộc các tri-châu khi thấy có giặc qua địa hạt mình, thì phải đem quân tiếp cứu các khê động. Ai không tuân thì giết. Nhưng vua Tống lại ban chỉ : « Khi báo có giặc, chưa biết thực hư, nhiều ít mà bắt đem quân chống thì sao thắng được, mà đòi trị tội? ». Vì vậy Chú ở hai năm, mà chẳng làm nên cơm cháo gì.(TS 334).
Nhà vua cười:
- Giá như bấy giờ Hy-Ninh thuận cho Chú dùng nghiêm luật, thì chắc y đã tiến quân vào Đại-Việt giữa lúc Dương hậu làm binh biến rồi.
Mọi người đều kinh ngạc về nhận xét của ông vua con.
- Tháng hai niên hiệu Thái-Ninh thứ nhì 0, nhà vua triệu Tiêu Chú về bàn sách lược đánh Đại-Việt. Chú tâu rằng sau cuộc binh biến của Dương hậu, tổ chức cai trị của ta vững, binh lực hùng hậu, khó có thể đánh. Hy-Ninh, An-Thạch không vui lòng, cất chức y, cử Thẩm Khởi thay thế. Thẩm Khởi đang lĩnh chức Hình-bộ lang-trung, chân tay của Vương An-Thạch. Thẩm tâu: « Giao-chỉ là đồ hèn hạ, đánh là thắng ». Thẩm Khởi coi Quế-châu, lĩnh Kinh-lược an-phủ-sứ Quảng-Tây, kiêm luôn chức chuyển-vận sứ (coi về lương thảo), tức là toàn quyền về hành-chính, quân-sự vào tháng hai. Khởi nhận mật chỉ rằng : « Phải chuẩn bị binh, lương sẵn sàng để đánh Giao-chỉ. Cần nhất làm cho khéo, cho kín, bằng không Giao-chỉ biết trước, đề phòng thì hỏng việc ». Thẩm Khởi cậy được tín nhiệm nên vừa tới Quảng-Tây, ra mặt khiêu khích ta. Lập tức y tổ chức đường vận chuyển lương thảo, huấn luyện binh sĩ, đặt thêm doanh trại ở châu Dung, Nghi, rồi đem quân đánh Vương-khẩu của ta để dò dẫm vào tháng ba. Không ngờ Khởi ra binh bất thần, với ba vạn quân triều, mà đánh một đồn ba trăm quân khê động của ta lại không thắng, binh sĩ chết hơn vạn. 0.
Tín-Nghĩa vương hỏi công chúa Thiên-Thành:
- Vua bà! Làm thế nào mà ba trăm quân của vua Bà lại chống nổi ba vạn quân Tống?
- Khải hoàng-thúc, không có gì lạ. Nhất cử nhất động của Khởi, Bắc-biên biết hết. Cho nên trên bầu trời các đồn biên phòng lúc nào cũng có chim ưng tuần tiễu. Do đó khi quân Khởi bắt đầu chuyển động, đồn Vương-khẩu đã biết mà đề phòng. Tướng Tống kéo quân tới, thấy đồn binh ta phòng vệ nghiêm mật, y xua quân tấn công ào ạt. Quân trong đồn dùng tên liên châu bắn ra. Binh Tống chết hàng hàng lớp lớp, họ đành rút ra để nhặt xác chết. Giữa lúc đó, ta cho đội voi, hổ từ trong rừng đánh tập hậu. Binh Tống bỏ chạy tán loạn. Ta dùng thú binh đuổi theo tới biên giới rồi mới rút về.
Công chúa đưa mắt cho Trung-Đạo:
- Xin sư bá tiếp tục.
- Binh tướng chết nhiều, mà Thẩm Khởi bắt phu đắp đồn lũy ở châu Dung, Nghi. Dân chúng tức giận nổi loạn, chém giết quan lại. Tháng tư (vẫn 1073) Khởi dấy động binh năm mươi mốt động thuộc Ung-châu để kết thành quân bảo-giáp. Hy-Ninh cực hoan hỉ, cấp thêm lương tiền. Y lại sai tướng vào các khê-động kiểm điểm dân đinh dạy trận đồ, kết thành bảo-ngũ. Về mặt biển, y bắt hết tráng đinh của những thương thuyền luyện tập luyện. Vì sợ tế tác ta biết, y cấm các thuyền buôn không được sang ta (TS.334). Đến đây Khởi tiến thêm một bước là dụ dỗ, áp lực các châu động của ta theo họ. Y làm việc quá ồn ào, trong khi Hy-Ninh ban chỉ cho y phải làm thực kín. Việc này xin để vua bà Bắc-biên tâu trình.
Công-chúa Thiên-Thành tâu:
- Tháng tư năm đó (1073), Tống ban chức tước cho bọn trang động Việt dâng đất theo họ. Nùng Tông Đán được giữ chức Đô-giám Quế-châu, Nùng Trí-Hội được coi châu Quy-hóa. Cả hai được phong tước Cung-bị khố phó sứ. Khởi lại sai người dụ Lưu-Kỷ ở Quảng-nguyên. Nhưng Kỷ không theo. Cuối năm, bọn Nùng Thiện-Mỹ đem châu Ân-tình, và 600 gia thuộc theo Tống. Tống nhận. Thần vội mật tấu về triều. Thái-hậu ban chỉ: Tống không e dè mình, thì mình phải tỏ ra mạnh, chúng mới sợ. Một mặt Bắc-cương truyền lệnh đi khắp các châu động chuẩn bị lương thảo, binh lính để làm lại chuyện cô mẫu Bình-Dương đã làm năm Chương-thánh Gia-khánh 0. Quả nhiên tin đồn ra, tế tác Tống vội tấu về Biện-kinh, làm cho Hy-Ninh đế lo sợ hồi hộp. Một mặt Thái-hậu sai sứ sang triều Tống cáo những việc làm của Khởi và đặt vấn đề: Nếu quả Khởi tuân chỉ của triều đình, thì Đại-Việt xin đem quân qua đòi lại. Còn như tự ý Khởi, thì xin trị tội y cho an lòng các nước Nam biên. Hy-Ninh thấy Khởi làm việc lộ liễu quá rồi, sợ Đại-Việt tiến binh, trong khi họ chưa chuẩn bị xong. Hy-Ninh vội họp đại thần nghị sự.
Thái-úy Hoàng Kiện hỏi Trung-Đạo:
- Xin sư thúc tâu tiếp về tình hình Tống triều.
- Lúc ấy anh em thần đang ở Biện-kinh. Nghe tin này, thần đem vàng bạc đút lót cho bọn văn quan chống Vương An-Thạch như Hàn Kỳ, Tôn Giác, Lã Công-Trứ, Trình Hiệu, Lý Thường, Tô Thức, Tô Triệt... cung cấp tin tức cho họ. Họ xúm váo hạch tội Vương An-Thạch dung dưỡng Thẩm Khởi. Anh em thần lại dùng chim ưng báo tin cho sứ đoàn ta ở Liêu, Tây-hạ. Trần Thanh-Hợp cùng Tuyết-sơn thập anh khích Liêu đòi Tống cắt đất vùng Phần-thủy-lĩnh cho. Động-đình thất kiệt xui Hạ đem quân vào Tây thùy lấn chiếm hai châu. Bỗng chốc Tống thấy Bắc, Tây, Nam cùng chuẩn bị đánh mình. Vương An-Thạch gỡ sức ép của Liêu bằng cách tâu Hy-Ninh cắt đất, như họ đòi. Phía Tây chịu giảng hòa. Còn phía Nam thì chịu nhún bằng cách bãi Thẩm Khởi. Lệnh bãi ban ra ngày 1 tháng ba, niên hiệu Thái-Ninh thứ ba 0, và cử Lưu Di thay Khởi. Anh em thần lại cung cấp tin tức Nam thùy cho các văn thần Tống. Họ xúm vào đàn hạch Vương An-Thạch rằng chỉ vì ham gây sự ở Nam thùy, mà triều đình bị nhục ở Nam, mất đất ở Bắc, mất hai châu ở Tây. Hy-Ninh đế truyền cho Vương An-Thạch rút lui, lấy đàn em Thạch là Lã Huệ-Khanh thay thế vào ngày 6 tháng tư cùng năm (1074). Còn Lưu Di làm những gì ở Nam biên từ hồi đó đến giờ, xin để vua bà Bắc-biên tâu trình.
- Tâu Thái-hậu, tâu Hoàng-thượng.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 182
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com