watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
11:47:4911/06/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50 - Trang 31
Chỉ mục bài viết
Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Trang 37
Trang 38
Trang 39
Trang 40
Trang 41
Tất cả các trang
Trang 31 trong tổng số 41

Chương 46a
Công Cha, Nghĩa Mẹ

Tại căn cứ Nham-biền, Đại-Việt.
Ngày 19 tháng giêng năm Đinh-Tỵ, niên hiệu Anh-vũ Chiêu-thắng thứ nhì đời vua Nhân-tông bên Đại-Việt, nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ mười đời vua Thần-tông nhà Tống 0
Trong khi trận Như-nguyệt, Vạn-xuân, Phú-lương diễn ra, thì hạm đội Bạch-đằng từ sông Lục-Nam tốc thẳng đến mỏm Nham-biền, rồi đổ quân lên.
Đạo thủy quân hạm đội Bạch-đằng, của đô đốc Trần An có nhiệm vụ đánh trại phía Đông, do hàng tướng Lưu Báo với gần năm vạn quân khê động Tống trấn đóng. Tuy bị bất ngờ, nhưng khoảng cách từ bãi sông tới trại tới sáu dặm (3km), khi thấy quân Việt đỗ bộ, quyân Tống còn đủ thời giờ báo động, sẵn sàng nghinh chiến. Thủy quân Việt rất thiện chiến, nhưng quân số chỉ bằng một phần năm quân Tống, nên khi tới nơi, đô đốc Trần An cho dàn trận cách xa hơn dặm, rồi dùng Lôi-tiễn bắn vào. Sau hai loạt nã Lôi-tiễn, trại Tống bốc cháy khắp nơi. Bấy giờ thủy quân mới công phá doanh trại địch. Cuộc chiến diễn ra cực kỳ ác liệt.
Ninh-viễn đại tướng quân, Dũng-Tâm hầu Tạ Duy với phu nhân Phương-Quế chỉ huy hiệu Vạn-tiệp đánh căn cứ Bắc Nham-biền. Trong căn cứ chỉ còn có năm chỉ huy tân-đằng-hải, cùng với thương binh, do một đô thống chỉ huy. Từ bãi sông đổ bộ đến căn cứ dài tới tám dặm. Khi quân Việt đổ bộ, Tống đã biết, chuẩn bị nghênh chiến. Quân tân-đằng-hải vốn không thiện chiến, thiếu phối hợp, lại chỉ bằng một phần tư hiệu Vạn-tiệp thì chống sao nổi? Quân Việt dàn ra, rồi đánh vào trại. Cuộc chiến không đầy hai khắc (30 phút) thì quân Việt đã tràn ngập. Hầu hết tân-đằng-hải đầu hàng.
Lập tức Tạ Duy sai chim ưng báo cho Trung-Thành vương biết. Không đầy nửa khắc sau, hầu được lệnh vương giúp thủy quân đánh trại Đông. Hiệu Vạn-tiệp reo lên, rồi tiến về phía Đông. Hai khắc sau hai đạo Vạn-tiệp, thủy quân bắt tay được với nhau.
Tạ Duy hỏi đô đốc Trần An:
- Đô đốc! Tình hình ra sao?
- Chúng chống trả mãnh liệt. Vì quân số mình ít, quân chúng đông mà thủ, nên tôi chỉ mới cho nã Lôi-tiễn mà thôi. Giặc cùng chớ đánh. Vậy chúng ta dọa cho chúng bỏ chạy, rồi đuổi theo tiêu diệt thì hay hơn. Bây giờ tôi đánh vào mặt Đông, tướng quân đánh mặt Bắc. Mặt Nam thì trại Tống bị hiệu Thần-điện đánh úp rồi. Vậy ta để hở mặt Tây cho chúng chạy.
Tạ Duy đồng ý. Hầu cho dàn quân đánh vào mặt Bắc. Còn phu nhân Phương-Quế chi huy Lôi-tiễn nã vào trại Tống. Hai đạo quân cùng nã Lôi-tiễn trong nửa giờ, thì toàn thể trại Tống biến thành một biển lửa. Bấy giờ cả hai mặt Đông, Bắc cùng đánh vào. Quân phòng thủ chống trả được hơn khắc, thì trại bị tràn ngập. Số đông quân Tống đầu hàng.
Lưu Báo đã biết chiến thhuật của Thiên-tử binh là không bao giờ mạo hiểm truy kích địch. Vì vậy y cho đội cung thủ đi đoạn hậu, còn tiền quân rút chạy về phía Như-nguyệt.
Bộ chỉ huy của Trung-Thành vương đi theo hiệu Thần Điện của Tuyên-vũ đại tướng quân Tín-Tâm hầu Triệu Thu với phu nhân Phương-Liễu, đánh trại Nam Nham-biền. Trại này do chính binh Tống trấn đóng. Nhưng chính binh đã xuất trận hết, trong trại chỉ còn bảo binh, thương binh, do tướng Giới-Định chỉ huy. Vì vậy khi thấy hiệu Thần-điện vừa dàn ra ngoài trại, đánh trống, rồi dùng Thần-nỏ nã Lôi-tiễn vào, thì bảo binh bỏ chạy. Thế là trại vỡ. Vương lệnh cho Triệu Thu đánh vào trại trung ương, nơi đặt tổng hành doanh, chứa lương của Tu Kỷ. Hiệu Thần-điên reo lên, rồi tiến về trung ương. Trại trung ương trống trơn, chỉ còn lại hơn năm trăm thương binh.
Tín-Tâm hầu Triệu Thu vừa chiếm được trại trung ương, còn đang kiểm kê kho đụn, thì Trung-Thành vương với vương phi tới. Hầu tường trình tự sự. Đúng lúc đó vương nhận được báo cáo của đô đốc Trần An, Ninh-viễn đại tướng quân Tạ Duy rằng đã chiếm xong căn cứ phía Đông. Bọn Lưu Báo, Giới Định rút chạy về phía Như-nguyệt.
Vương ra lệnh cho Triệu Thu:
- Em cùng Phương-Liễu khẩn đem Thần-nỏ, với bản bộ quân mã đuổi theo ngay, đừng cho chúng chạy thoát về Như-nguyệt. Ta tăng viện cho hai em hai cặp vợ chồng Lý Lục, Lý Thất, vì võ công Giới Định rất cao.
Hầu tuân lệnh điểm binh lên đường liền. Đuổi không đầy hai khắc, thì đã thấy tàn quân Tống đang chạy phía trước. Lưu Báo biết có chạy, cũng khó thoát thân. Y cho dàn quân ra ở chân núi, sẵn sàng nghênh chiến. Quân số của y còn ước hơn vạn, đông hơn hiệu Thần-điện nhiều.
Hầu nói với phu nhân:
- Em với Mai-Lục, Mai-Thất đánh vào bên trái; còn anh với Lý Lục, Lý Thất đánh vào bên phải.
Hiệu Thần-điện xung vào trận. Quân Tống tuy vừa bại trận, nhưng bây giờ lâm thế cùng đường, bắt buộc phải tử chiến. Hai bên giao tranh ác liệt. Quân Tống dựa lưng vào núi, nấp sau những phiến đá dùng cung tên chống lại, thành ra Thần-nỏ hóa vô dụng. Sau hơn hai khắc giao tranh, thì hàng ngũ Tống bắt đầu rối loạn. Cánh trái của Phương-Đơn đã chiếm được một phần sườn núi. Cuộc đánh cận chiến bắt đầu.
Giữa lúc đó, có tiếng ngựa hí, tiếng quân reo. Triệu Thu nhìn lại phía sau: Xa xa, một đoàn kị binh Tống dàn ra đang phi tới như bay. Phía trước thì quân của Lưu Báo, phía sau thì kị binh. Hầu hô lớn:
- Phải thanh toán bộ binh, chiếm sườn núi, bằng không thì kị binh tới sẽ nguy lắm.
Quân Việt tấn công ào ạt, nhưng kị binh tới nhanh quá. Hầu cầm cờ biến thế trận: Hiệu Thần-điện chia làm hai, quay lưng vào nhau chiến đấu. Phu nhân đánh quân Lưu Báo, còn hầu chống với kị binh.
Chân núi là khu đất bằng, kị binh dàn ra xung vào trận mạnh như thác đổ. Lập tức Thần-nỏ tác xạ. Nhưng kị binh phi đến gần tầm sát hại của Thấn-nỏ, rồi quay đầu phi ngược trở lại. Cứ như thế, sau hai loạt tên bắn vô ích, đến lần thứ ba thì kị binh Tống ào ạt chọc sâu vào phòng tuyến Việt phóng lao, bắn tên, tấn công thực sự. Hiệu Thần-điện vẫn can trương quay lưng vào nhau chiến đấu.
Hiệu Thần-điện trước đã đánh trại Nam, trại trung ương, rồi giao chiến với bộ binh Lưu Báo, sức giảm phân nửa, tên gần cạn. Bây giờ phải chống nhau với đội kị binh thiện chiến bậc nhất của Tống, nên sau hai đợt xung phong của kị binh, phòng tuyến bị cắt làm ba. Triệu Thu ra lệnh cho quân rút lên núi, tử chiến với bộ binh Tống, tránh mũi nhọn của kị binh.
Quân kị lại ào ạt xung phong, tên bắn như mưa, một mũi tên trúng giữa bụng hầu. Tuy đau thấm tâm can, nhưng sợ binh sĩ trông thấy, hầu rút kiếm cắt đứt đuôi tên, rồi xé vạt áo buộc bụng lại, sau đó tiếp tục đứng chỉ huy quân. Nhờ Lý Lục, Lý Thất võ công cao cường đứng đầu hàng quân chống với kị binh, nên hàng ngũ chưa đến nỗi loạn.
Nhìn lại phía trận của phu nhân, bất giác hầu kinh hãi rụng rời, vì phu nhân đang giao chiến với Lưu Báo, đầu tóc rũ rượi, có vẻ yếu thế lắm rồi. Mai-Lục đấu với Giới Định ngang tay. Còn Mai-Thất đang thay thế phu nhân chỉ huy quân chống trả.
Trong lúc quân Việt đang chiến đấu tuyệt vọng, thì bỗng kị binh Tống reo lên rồi rút chạy về phía Tây. Hầu kinh ngạc nghiến răng chịu đau quan sát: Từ phía Đông, hiệu binh Đằng-hải đang tiến đến như gió, bên trái Trần Ninh, Ngọc-Hương, bên phải Lý Ngũ, Mai Ngũ; Thần-nỏ chỉ bắn hai loạt, khiến mấy trăm kị mã ngã ngựa.
Một thiếu phụ cực kỳ xinh đẹp tung người khỏi mình ngựa tiến về sườn núi. Chỉ nhấp nhô mấy cái, bà đã tới chỗ Phương-Liễu đang giao tranh với Lưu Báo. Bà rút kiếm đưa vào ngực y, y lộn người ra sau tránh, nhưng bà đã tung người theo, kiếm chặt y làm hai khúc. Thiếu phụ thấy Phương-Liễu đang ôm ngực thở hổn hển, bà hỏi:
- Có sao không em?
Phương-Liễu nhìn lại: Người cứu mình là vương phi Trinh Dung. Bà thở khò khè:
- Em bị trúng tên vào ngực trái, đã cắt chuôi.
Vương phi vội bồng Phương-Liễu lên, đưa lại chỗ Triệu Thu. Hầu ngồi dựa lưng vào phiến đá, cho Trần Ninh băng bó. Hầu hỏi phu nhân:
- Em! Có sao không?
- Em bị trúng hai mũi tên, một vào ngực trái, một vào bụng. Em cắt tên... máu ra nhiều... lại phải đấu với Lưu..ưu..ưu.
Đến đó phu nhân nghẹo đầu sang một bên. Hầu thét lên:
- Liễu! Liễu sao rồi?
Đến đó hầu giật lên mấy cái, rồi ngả đầu vào lòng phu nhân. Người ngoài đứng xa tưởng rằng đó là cặp tình nhân trẻ đang âu yếm nhau, đâu ngờ, họ đã cùng nhau ra đi, để về với thế giới vua Hùng, vua Trưng, trường thọ với non sông.
Về phía Mai-Lục đấu với Giới Định ngang tay. Định Thấy trận tuyến bên mình tan vỡ, y đâm đại một bát-xà-mâu rồi tung người lên cao chạy khỏi vòng vây. Nhưng khi y vừa đáp xuống, thì một thanh kiếm đưa vào cổ y, rồi có tiếng trong trẻo ra lệnh:
- Buông vũ khí đầu hàng, bằng không ta nhả kình lực.
Giới Định nhìn lại, thì ra Mai-Thất. Y chưa kịp phản ứng, thì Mai-Lục đã điểm vào huyệt Đại-chùy của y. Y tê liệt ngã xuống. Quân Việt trói y lại.
Ghi chú ,
Tuyên-vũ đại tướng quân Tín-Tâm hầu Triệu Thu tuẫn quốc năm 26 tuổi, phu nhân Phàn Phương-Liễu tuẫn quốc năm 25 tuổi. Sau khi hết giặc, triều đình nghị công phong cho hầu tước Anh-văn, Tuyên-vũ đại vương, phu nhân được phong Trang-Ninh quận chúa, truyền xây đền thờ. Trải qua biết bao lớp sóng phế hưng, cho đến nay (1995) sau 918 năm, đền thờ ngài vẫn còn tại xã Cung-nhượng, tổng Thọ-xương, phủ Lạng-giang, tỉnh Bắc-giang, nay là Hà-bắc. Độc giả muốn thâm cứu thêm về tiểu sử ngài, xin xem bài tựa, NQSH quyển 1, mục 7.2.3.
Trời đã về chiều.
Sau khi kiểm điểm lại nhân mã, tù binh; Trung-Thành vương cử đô thống Lý Lục, với phu nhân là Mai Lục thay thế Triệu Thu chỉ huy hiệu Thần-điện. Vương truyền lệnh cho hiệu Đằng-hải, Thần-điện dựa lưng vào chân núi đóng trại, rồi sai giải Giới Định lên. Quân vừa dẫn Giới Định vào, vương thân cởi trói cho y, rồi mời ngồi. Mặt Giới Định lạnh như tiền, y thản nhiên ngồi, không nói không rằng. Vương rót rượu, đem giò, chả, nem mời y:
- Giới tướng quân là tinh hoa của tộc Hán, võ công cao, văn chương nức tiếng Tây thùy. Tôi ở mãi miền thấp nhiệt này, mà cũng nghe danh Tương-giang túy khách.
Giới Định là một tướng võ, nhưng cũng như Trương Thế-Cự, y là một thi nhân có danh đương thời, với biệt hiệu là Tương-giang túy-khach. Bây giờ dù bị cầm tù, dù đối diện với tướng Đại-Việt, nhưng thấy kẻ đối đầu tỏ vẻ hâm mộ văn chương của mình, y cố giữ cái phong nhã:
- Đa tạ vương gia quá khen, Giới này thực xấu hổ. Vương gia khen tiểu tướng có võ công cao, mà lại bị bại về tay một thiếu nữ Việt. Còn văn chương nức tiếng, thì thực Giới không dám nhận. Này, không biết vương gia đã đọc những áng văn nào của tiểu tướng?
Miệng nói, y tiếp chung rượu từ tay Trung-Thành vương uống cạn, tay cầm đũa gắp nem (chả giò) ăn.
- Kiến văn của tôi hủ lậu lắm, sở dĩ tôi được nghe danh Tương-giang túy-khách là do một lần đứng hầu mẫu thân với cậu mợ út của tôi. Trong câu chuyện, cậu mợ không ngớt khen từ của tướng quân rằng : « Bảo rằng hùng tráng, thì cũng thực hùng tráng; bảo rằng tươi như hoa, như cỏ Xuân, thì cũng thực tươi ». Mợ út cứ khen bài « Túy ngọa Hy-hà »0 với bài « Điểu minh Xuân dạ » (Chim hót đêm Xuân), thì chỉ có thơ của Ngụy Võ-đế (Tào Tháo) là hơn được mà thôi.
Ghi chú,
Giới Định người đất Trường-sa, sinh giờ Tý ngày 29 tháng 9 năm Giáp-Tuất, nhằm niên hiệu Cảnh-hựu nguyên niên đời vua Tống Nhân-tông (1034), tự là Minh-Đạo, hiệu là Tương-giang túy khách. Thi tiến sĩ bị trượt, bỏ văn theo võ. Sau nhiều lần lập chiến công ở Tây-thùy lên tới chức đô-thống, rồi Tả-thiên ngưu vệ thượng tướng quân. Trong khi theo Quách Qùy sang đánh Đại-Việt, bị bắt ở trận ngã ba sông Thương, sông Lục-Nam. Sau chiến tranh, Giới xin ở lại Thăng-long dạy học. Trong thời gian này, Giới kết hôn với một thôn nữ tên Bùi-thị Như-Phương, sinh được hai con trai. Niên hiệu Nguyên-hữu thứ tám đời vua Tống Triết Tông, nhằm niên hiệu Hội-phong thứ nhì đời vua Nhân-tông bên Đại-Việt, Giới 60 tuổi (1093), dẫn vợ con hồi hương. Tác phẩm để lại có thi tập Tương-giang túy khách cảo lục, gồm 35 bài từ, 59 bài thơ. Thi tập này được hội Văn-học Trường-sa tái bản năm 1988. Năm 1990, tôi có dịp tiếp xúc với danh ca Giới Thu-Hoa, hậu duệ của Giới Định tại Nhạc-dương lâu bên bờ hồ Động-đình, nhờ đó tôi được đọc gia phả họ Giới. Kể từ Giới Định tới Thu-Hoa trải 33 đời.
Giới Định kinh ngạc:
- Không biết cữu phụ, cữu mẫu của vương gia là ai?
Trung-Thành vương lấy thanh trủy thủ mà Mai-Lục tịch thu được trên người Giới Định ra trao tận tay y:
- Là người đã ban thưởng cho tướng quân thanh trủy thủ này.
Giới Định bật người dậy:
- Thì ra vương gia là cháu Kinh-Nam vương. Hèn gì quân Giới Định này bị tan, thân Giới Định này bị bắt thì cũng là sự thường thôi.
Trung-Thành vương nói:
- Trước khi ra trận, cậu út tôi có dạy: Binh tướng Tống đều là thủ hạ cũ của cậu mợ. Chẳng may Hy-Ninh hoàng đế tin dùng ma pháp của tên cẩu nho Vương An-Thạch, mà bị đẩy vào vòng chiến với Đại-Việt. Vậy khi ra trận, tuyệt đối tránh chém giết. Nếu bắt được tù binh thì phải đối xử tử tế, rồi đưa về Thiên-trường cho cậu mợ nuôi. Đợi hết chiến tranh, cậu mợ sẽ đưa về Tống, như vậy bọn mặt dơi tai chuột không dám kết tội rồi giết cả nhà như tù binh thời vua Thái-tông bị bắt ở Chi-lăng, Bạch-đằng.
Giới Định chắp tay hướng Trung-Thành vương vái ba vái:
- Đa tạ Kinh-Nam vương, đa tạ Thái Công-chúa, đa tạ vương gia.
Chợt thấy Mai-Lục, Mai-Thất đứng hầu sau vương phi Trinh Dung, Giới Định hỏi:
- Giới này bị bại về tay hai tiểu cô nương mà trong lòng còn ấm ức. Cứ như con mắt của Giới này, thì nhị vị cô nương chưa quá cái tuổi đôi mươi, mà sao công lực lại cao thâm đến như thế?
Vương phi Trinh-Dung đáp bằng giọng cực kỳ ôn nhu:
- Để tôi giới thiệu với Giới tướng quân, hai nữ tướng này khuê danh là Mai Lục, Mai Thất...
Giới Định bật lên tiếng than:
- Hỡi ơi! Tiểu tướng đã bại về tay hai trong Thập-bát Kim-cương, ái đồ của Mộc-tồn hòa thượng thì không ân hận gì nữa.
Sau khi khoản đãi Giới Định cùng một số tướng sĩ bị bắt, Trung-Thành vương truyền đem tất cả tù binh chở về Thiên-trường trao cho Kinh-Nam vương với công chúa Huệ-Nhu.
Vương phi Trinh-Dung bàn:
- Triệu Thu, Phương-Liễu tuẫn quốc, em đề nghị cho Lý Lục, Mai Lục thay thế chỉ huy hiệu Thần-điện. Tinh thần binh tướng hiệu này đang giao động. Vậy ta nên cho hiệu này về trấn chiến lũy Vạn-Xuân, đem hiệu Long-dực đến đây thay thế.
- Được. Để anh viết thư cho Chiêu-Văn, báo tình hình.
Chiều hôm sau, tức ngày 20 tháng giêng, Dương Minh, Phương-Cúc, cùng hiệu Long-dực tới. Trung-Thành vương cử Lý Thất, Mai-Thất làm phó thống lĩnh cho Dương Minh, Phương-Cúc.
Vương ra lệnh:
- Chim ưng của Khu-mật viện báo cho biết, chiến tuyến Như-nnguyệt bị vỡ. Vậy chúng ta phải tiến thực mau, uy hiếp hậu cứ Như-nguyệt của Tống, bằng không Thăng-long nguy mất. Ta đã cho hạm đội Bạch-đằng chở hiệu Vạn-tiệp theo sông Cầu đi sau hạm đội Thần-phù giả tiến về Như-nguyệt. Vậy bây giờ hiệu Đằng-hải đi làm tiền đội, hiệu Long-dực đi làm hậu đội tiến về Như-nguyệt. Khi còn cách Như-nguyệt năm chục dặm, ta đóng quân lại để uy hiếp hậu cứ Quách Qùy, bắt y phải rút quân từ chiến lũy Như-nguyệt về. Như vậy công chúa Thiên-Ninh mới có thể tái chiếm chiến lũy.
Quân tướng rầm rập, rầm rập lên đường.
Tại phía Nam chiến lũy Như-nguyệt, Đại-Viêt.
Đúng lúc đó (19 tháng giêng), Quách Quỳ vừa chiếm được chiến lũy Như-nguyệt. Tuy vượt qua song, nhưng tất cả 30 đạo binh triều đều bị tổn thất nặng, duy kị binh thì tinh lực còn nguyên.
Quách Quỳ họp chư tướng lại ban lệnh:
- Giặc mới bị thua, nhân lúc chúng bàng hoàng, ta ở thế thắng như chẻ tre, đánh như sét nổ, khiến chúng không kịp trở tay. Từ đây về Thăng-long toàn đồng bằng, vậy chư tướng có ý kiến gì?
Triệu Tiết thấy Quách Quỳ thành công, y dọa già:
- Tuy chỉ có quãng đường năm mươi dặm, nhưng không phải dễ dàng đâu. Đường Như-nguyệt, Thăng-long có ba khúc, ta phải thanh toán từng khúc một. Khúc thứ nhất, Như-Nguyệt tới rừng tre, hai bên đường có mười tám xã. Khúc thứ nhì từ rừng tre đến Cổ-pháp nơi có lăng tẩm triều Lý là vòng đai phòng thủ Thăng-long. Giao-chỉ có trọng binh tại đây; khúc này có tới hai mươi bốn xã. Khúc cuối cùng từ Cổ-pháp tới Thăng-long cũng có trọng binh với ba mươi sáu xã.
Quỳ vui mừng:
- Hay! Ta cho quân vào xã bắt hoàng nam làm dân phu, lấy lương cho binh sĩ ăn.
Tiết cười, mỉa mai Quách Quỳ dốt nát:
- Xã ở vùng đồng bằng đều bao bọc bởi một lũy sống, dầy tới ba bốn trượng, muốn chặt lũy mà vào, e tốn công, tốn sức không ít. Xã thông với bên ngoài bằng hai tới năm cổng, với những con đường nhỏ nằm giữa ruộng lầy lội. Mỗi xã đều tổ chức thành một chiến lũy, tại các cổng đều có hệ thống phòng thủ, do hoàng nam, hoàng nữ trấn giữ. Bọn này được huấn luyện võ nghệ, xung phong, hãm trận rất công phu. Lương thảo của quân Giao-chỉ đều do các xã cất giữ. Ta muốn có phu, có dân phu để khuân vác; muốn có gạo thịt, tôm cá, rau dậu cho quân ăn; muốn có cỏ non cho ngựa... thì bằng mọi giá phải đánh chiếm mười tám xã trước đã.
Gì mà Quỳ không hiểu ý Triệu Tiết. Y giận cành hông, nhưng phải nuốt hận ban lệnh cho Vũ-kị thượng tướng quân Trương Thế-Cự:
- Thiết kỵ là sức mạnh vô địch, Trương tướng quân cứ thẳng tiến về Thăng-long, bỏ lại tất cả các đồn ải dọc đường. Các đồn ải tôi sẽ cho bộ binh tiến đánh cùng một lúc. Còn các xã thì ta dùng các chỉ huy tân-đằng-hải đánh. Nội chiều hôm nay, kị binh phải tới Thăng-long. Ngay khi tới nơi, cho thiết kị đi đi, lại lại quanh thành dương oai diễu võ làm cho vua tôi Giao-chỉ sợ hãi. Đêm thì dùng mã não, hoàng thạch bắn vào đốt nhà, dinh thự. Nhưng phải đợi bộ binh tới rồi mới đánh thành.
Trương Thế-Cự hỏi:
- Ví thử Càn-Đức, Yến-Loan, Thường-Kiệt đầu hàng hay bỏ chạy thì tôi phải phản ứng ra sao ?
- Trường hợp chúng đầu hàng, thì một mặt tướng quân nhập thành, trấn các cửa, rồi sai sứ khẩn báo cho tôi biết. Còn như chúng bỏ chạy, thì bằng mọi giá phải đuổi đến cùng.
Quỳ nhấn mạnh:
- Trong khi kỵ binh vượt đường về Thăng-long, thì ta dùng quân tân-đằng-hải giải quyết các xã dọc đường. Trong mỗi xã, số hoàng nam cao nhất là ba chục, đến một trăm. Mỗi chỉ huy tân-đằng-hải của ta có tới năm trăm người. Mỗi xã ta dùng hai chỉ huy đến bao vây, rồi gọi loa chiêu dụ. Chiêu dụ không xong thì đánh chiếm.
Quỳ gọi Triệu Tiết:
- Tôi phối trí tại Nam ngạn Như-nguyệt sáu đạo binh tinh nhuệ nhất, chưa bị tổn thất, đó là các đạo 10, 11, 12, 13, 14, 15 và ba mươi sáu chỉ huy tân-đằng-hải. Tướng quân cùng các tướng Diêu Tự, Bình Viễn, Vương Tiến dùng binh triều giữ Nam ngạn sông Như-nguyệt, dùng tân-đằng-hải tiến đánh các xã hai bên đường từ đây tới rừng tre. Đánh xong, bắt hết hoàng nam hoàng nữ xung làm dân phu.
Quỳ gọi ba tướng Miêu Lý, Lưu Mân, Đặng Trung:
- Phía sau rừng tre là châu Cổ-pháp, có lăng tẩm của triều Lý. Chắc chắn bọn Giao-chỉ sẽ cho những cao thủ bậc nhất thủ tại đây đánh cảm tử. Trong tất cả chư tướng Nam chinh, thì ba vị có võ công cao nhất, vậy ba vị hãy đem quân đi sau đạo kị binh. Trước chiếm Cổ-pháp để uy hiếp Càn Đức, sau đó tiến về Thăng-long.
Miêu Lý đặt vấn đề:
- Trong trận đánh vừa rồi, ba mươi đạo quân triều đều hao hụt quá nửa. Vậy bây giờ đem đạo quân nào đi?
- Tôi đã kiểm điểm rồi. Chín đạo binh bị hao nhưng tinh lực chưa đến nỗi kiệt quệ. Vậy các vị hãy đem bảo binh bổ xung sáu đạo 4, 5, 6, 7, 8, 9, rồi lên đường ngay.
Miêu Lý, Lưu Mân, Đặng Trung lĩnh mệnh.
Triệu Tiết hỏi:
- Trong ba người, ai làm chúa tướng?
Quỳ chỉ Miêu Lý:
- Miêu tướng quân có đẳng trật cao nhất. Vậy Miêu tướng quân làm chúa tướng.
Quỳ vẫn để nguyên tổng hành doanh ở Bắc-ngạn sông Như-nguyệt, ý định chờ tin tức hai cánh Phú-lương, Nham-biền rồi mới cho sang sông.
Trương Thế-Cự xua kị binh ruổi trên con đường cái quan hướng về Thăng-long.
Cự là một tướng kị binh tài kiêm văn võ, ưu tú nhất của Tống. Cách đây hai mươi năm, khi mới nhập ngũ, với tuổi mười chín; nhờ võ công cao cường, lại có học thức, y được Kinh-Nam vương trọng dụng. Sau thời gian huấn luyện ở trường kị binh, vương cho y giữ chức lượng trưởng (coi 25 kị binh) và chú ý nâng đỡ. Nhờ những chiến công hiển hách trong các trận đánh với Tây-Hạ, Bắc-Liêu, y được thăng chức liên tiếp, dần dần tới Vũ-kị thượng tướng quân, tước tới Vũ-Dương hầu (Tương đương với ngày nay là tư lệnh kị binh).
Trong thời gian ở Tây-thùy, mỗi khi nghe thấy một võ lâm đồng đạo bị kết tử hình, tù đầy, lập tức Cự thượng biểu xin ân xá tội nhân, trao họ cho Cự, để đánh giặc lập công. Hóa cho nên, cạnh Cự, lúc nào cũng có hàng trăm cao thủ võ lâm đi theo. Tuy vậy đám võ sĩ này mới chỉ có những cao thủ bậc nhất, toàn loại đầu trộm đuôi cướp, chứ loại thượng thừa thì không có. Lúc quân lên đường, Cự năn nỉ Quách Quỳ cho một cao thủ thật uy tín, vào hàng đại tôn sư để chỉ huy bọn này. Quỳ sai đại sư Pháp-Tuệ thủ tọa Đạt-Ma chùa Thiếu-lâm đường đi theo Cự, nhưng dặn kỹ chỉ xuất hiện trong trường hợp bất khả kháng.
Tuy là tướng võ, nhưng Cự bị ảnh hưởng của Kinh-Nam vương, nên luôn luôn tỏ ra ôn nhu, văn nhã. Trong thời gian ruổi ngựa ở biên thùy, y sáng tác được rất nhiều bài từ chứa đựng tình cảm dào dạt, bi hùng của một người yêu nước. Đầu thời Nam-Tống, thời Thiệu-Hưng, nhà vua cho sưu tầm, in thành tập, mang tên Hy-giang túy ngoạ. Hy-giang hay Hy-hà là con sông lớn thuộc Tây-Hạ, sát với Tống. Đây là vùng đất mà Tống Thần-tông khởi khai chiến với Tây-hạ, sai Kinh-Nam vương đánh chiếm. Túy là say, ngọa là nằm. Ý lấy trong thơ Đường « Túy ngoạ sa trường quân mạc vấn. Do lai chinh chiến kỷ nhân hồi ». Nghĩa là « Say nằm bãi cát hỏi chi? Xưa nay chiến trận mấy khi trở về ».
Trương Thế-Cự cùng đoàn kị mã phi được hơn mười dặm, Nguyễn Dư chỉ về hướng Nam nói với y:
- Phía trước, chỗ có nhiều nhà trắng, ngói đỏ là làng Đình-bảng, thang mộc ấp của triều Lý, có lăng tẩm ba đời vua Lý. Nếu chiếm được Đình-bảng, quật mồ các vua Lý lên, thì từ trong triều tới ngoài trấn đều rúng động.
Cự lắc đầu:
- Đem binh sang cướp nước ta là bọn Lý Nhật-Tông, Lê-thị Yến-Loan, Lý Thường-Kiệt, Tôn Đản. Ta cần tới Thăng-long bắt chúng đem về cho triều đình trị tội; chứ ông bà, cha mẹ chúng không liên hệ gì. Vậy ta chỉ chiếm Đình-bảng, để uy hiếp triều Lý, chứ nhất định không đụng đến nơi an nghỉ của người quá cố. Nếu ta quật mồ tổ tiên họ Lý thì chẳng hóa ra ta là bọn tà ma, bọn thú vật sao?
Cự đưa mắt nhìn phía trước, tay mở tấm bản đồ vẽ bằng lụa: Chỉ cần qua khu rừng tre nữa là tới Đình-bảng. Sau Đình-bảng, một khắc (14 phút) sức ngựa sẽ tới Thăng-long.
Y truyền lệnh cho đạo kị mã chậm gót lại, rồi sai một đội tiền phong đi trước thám sát. Lát sau viên đội trưởng trở lại báo: Trong rừng tre, có nhiều đường thông qua rất rộng. Xe ngựa có thể đi hàng ba.
Cự truyền cho sư kị đệ nhất tiến trước. Sư đệ nhất rầm rộ vượt qua rừng như sóng vỡ bờ thực dễ dàng, không một bóng người, không một ụ đất cản trở. Viên sư trưởng sai thám mã trở lại báo tin. Cự hạ lệnh: Tiếp tục tiến về Thăng-long.
Sau khi ban lệnh, Cự mừng run lên:
- Biết bao nhiêu tâm huyết của triều đình, của trăm vạn quân, chỉ còn một khắc sức ngựa nữa là tới ổ giặc.
Cự lên ngựa, dẫn đầu sư đệ nhị vượt rừng, sai sư đệ tam đi đoạn hậu. Cự ra roi cho ngựa chạy bon bon qua cánh đồng lúa non, tới rừng tre. Trong rừng toàn loại tre già, sắc vàng cao vút từng mây. Đường đi bằng phẳng, rộng rãi. Cứ mỗi lần gặp những con đường nhỏ cắt ngang, Cự dừng ngựa quan sát thực kỹ, khi biết chắc không có dấu vết phục binh; y mới tiếp tục cất vó.
Tới khoảng giữa rừng, thì phía trước có con đường lớn theo hướng Đông-Tây cắt ngang con đường Nam-Bắc mà Cự đang đi.
Thình lình có ba con trâu lồng, trên lưng mỗi con đó một người cỡi. Một trong ba người cầm tù và thôi tu tu... chạy theo con đường Đông-Tây, vọt qua ngã tư, rồi biến mất. Cự ra roi cho ngựa xẹt tới, nhìn theo ba con trâu, thì chỉ thấy con đường xa thẳm, hai bên đường đầy hoa Xuân, cỏ mướt xanh. Còn trâu thì đã biến mất.
Biết rằng ba con trâu đã rẽ vào con lộ nào đó, Cự ra lệnh dừng quân, rồi truyền một tên đội trưởng dẫn mười kị binh, truy tầm tung tích. Sư kị đệ tam cũng vừa đến. Quân ùn lại trong rừng.
Cự chột dạ nghĩ thầm:
- Trong binh pháp, kị binh sợ nhất là gặp đồng lầy, và rừng rậm. Ta không nên ở đây lâu.
Tuy vậy, thấy sư đệ nhất đã vượt qua vô sự, y tự tin một phần nào. Hai sư đệ nhị, đệ tam dàn thành hàng dài bốn dặm, đang dừng vó, lỏng buông tay khấu, cho ngựa gặm cỏ non bên đường.
Cự nghĩ thầm:
- Suốt thời gian qua, ở Bắc-ngạn có bao nhiêu cỏ tươi, ngựa ăn hết rồi; hơn mười ngày nay, ngựa ăn toàn cỏ khô. Nay gặp cỏ xanh non thế kia, chiến mã ăn vào chắc dễ chịu lắm.
Đội thám thính đi khoảng hai dặm, thì dường như thấy điều gì kỳ lạ, nên rẽ vào con đường bên phải mất hút.
Hơn khắc sau, không thấy đội thám thính trở về, Cự lại sai một đội nữa đi tìm. Nhưng cũng như đội trước, không thấy đội thứ nhì trở về. Sốt ruột, Cự thân dẫn trăm kị binh đi tìm hai đội trước.
Khi đến chỗ rẽ, y dừng ngựa lại quan sát: Trước mặt y, con đường nhỏ sâu hun hút, không một bóng người. Sợ bị trúng phục binh, Cự quay ngựa trở về chờ đợi.
Khoảng hai khắc sau (30 phút ngày nay) hai đội thám thính đầu tiên bị mất tích bây giờ xuất hiện ở phía Nam, đang phi như bay trở về, ngược chiều với sư kị đệ nhị. Viên sư trưởng phất cờ ra lệnh cho chúng đi chậm lại. Hai đội thám thính như không thấy hiệu lệnh của chủ tướng, vẫn phi nước đại.
Viên sư trưởng cảm thấy có gì bất tường, y quát lên:
- Cản lại!
Một đội đao thủ dàn ngang qua đường. Hơn hai chục con ngựa thấy bị cản trở, chúng hí lên inh ỏi, hai vó trước cất cao lên, hất hai mươi hai kị mã xuống đất. Lạ thay, đám kị mã đều nằm đứ đừ, bất động.
Bấy giờ viên sư trưởng mới nhận ra, đó không phải là lính của y, mà chỉ là những bộ quân phục mặc vào hình nộm. Như vậy hai đội kị mã thám sát lành ít dữ nhiều.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 173
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com