watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
15:45:2126/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50 - Trang 7
Chỉ mục bài viết
Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Trang 37
Trang 38
Trang 39
Trang 40
Trang 41
Tất cả các trang
Trang 7 trong tổng số 41



Chương 34a

Châu Chấu Đá Xe

Tại động Giáp, thủ đô của Bắc-biên, nước Đại-Việt. Hôm ấy là ngày Quý-Dậu 14 tháng 9 năm Ất-Mão nhằm niên hiệu Thái-Ninh thứ tư đời vua Lý Nhân-tông của Đại-Việt -1085 bên Trung-nguyên là niên hiệu Hy-Ninh thứ tám đời vua Thần-tông. Trong một phòng hội được canh phòng cẩn mật. Chư tướng ngồi im lặng nghe Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản điều quân.
Bằng một giọng ấm áp, ông nói:
- Tất cả chúng ta hiện diện hôm nay, phụ trách toàn bộ đạo quân bộ vượt biên đánh sang Tống. Các cửa ải quân sự Tống đóng dọc theo biên giới Hoa-Việt gồm có Hoành-sơn, Thái-bình, Vĩnh-bình, Tây-bình, Lộc-châu, Cổ-vạn, Như-tích, Thiên-long, Để-trạo... thành một hàng rào bảo vệ Nam-thùy. Phía sau các ải này cho tới Ung-châu không còn trại nào nữa. Ta chỉ cần hạ tất cả các ải hàng rào thì ung dung thẳng đường tới Ung-châu, rồi tiến lên Ngũ-lĩnh. Ta chia quân làm bốn cánh. Một là Quảng-nguyên, hai là Môn-châu, ba là Quang-lang, bốn là Tô-mậu.
Ông nói lớn:
- Mời Thái-tử thiếu bảo, Phiêu-kị thượng tướng quân, Quảng-nguyên hầu Lưu Kỷ nhận lệnh.
Một người thân thể hùng vĩ, tóc hơi bạc đứng dậy:
- Xin chờ lệnh Long-thành đại hiệp.
- Quân hầu trấn nhậm châu Quảng-nguyên đã lâu, đụng chạm với Tống cũng nhiều. Xin quân hầu cho biết tình hình địch tại Thái-bình và Hoành-sơn.
- Thưa đại hiệp, vào thời Đinh, thì vùng Thái-bình, Hoành-sơn còn thuộc Đại-Việt ta, với chín trang ấp. Trong thời gian vua Ngọa-triều cai trị, các trang ấp chán nản bỏ theo Tống, trở thành khê động của họ. Trong chín khê động, thì Hoành-sơn và Thái-bình mạnh hơn cả. Họ áp chế các khê động yếu thế, sát nhập vào đất của họ. Nay các khê động đó hợp thành hai khê động Thái-bình, Hoành-sơn. Chúa khê động Thái-bình là viên quản hạt Ngũ-Cử. Phó là giám-áp trại Quách Vĩnh-Nghiêm. Hai tên này văn võ kiêm toàn, rất giỏi chiến trận. Chúng đã đụng chạm với tôi nhiều lần. Về quân số của Thái-bình, thì có năm nghìn bảo-giáp, năm nghìn quân Quảng. Ải Hoành-sơn thì đông hơn, Bảo-giáp bẩy nghìn, quân Quảng năm nghìn, thủ lĩnh là An-viễn tướng quân Lâm Mậu-Thăng. Cộng chung, chúng có hơn hai vạn. Hai ải Thái-bình, Hoành-sơn được chỉ huy bởi một viên quan Tống tên Thái Bằng, lĩnh chức Trấn Nam tướng quân, văn võ song toàn.
Tôn Đản tần ngần suy nghĩ một lát, rồi tiếp:
- Thái Bằng trước đây xuất thân tiến-sĩ thời vua Nhân-tông. Y vừa có văn tài, vừa có tài dùng binh. Nhưng y đối đáp không vừa lòng tể tướng Lã Di-Giản, nên bị trù. Phải chờ cho tới khi Kinh-Nam vương Tự- Mai đem quân đánh Hy-hà, vương mới trọng dụng y làm chức Tham-tán đạo Tả-quân. Dần dần vương cất nhắc y lên, rồi đề bạt y làm tri châu Hoài, rồi tới chức Tiết-độ-sứ vùng Giang-châu. Mấy năm trước, vì Kinh-Nam vương rời chính trường, y bị Vương An-Thạch chèn ép. Sau nhân một lỗi nhỏ, An-Thạch tâu xin cách chức y, đầy xuống trấn nhậm Thái-bình, Hoành-sơn. Tuy y thất chí, nhưng khi đối trận với y phải cẩn thận.
Tôn Đản hạ lệnh:
- Quân hầu chỉ huy canh thứ nhất, mang tên Quảng-nguyên. Quân hầu đã có đạo quân Quảng-nguyên dưới quyền, được tăng viện thêm Đô-thống Phạm Dật, phu nhân Lê Kim-Liên với hiệu quân Ngự-long, một lữ thú, một lữ kị. Nhiệm vụ của quân hầu là đánh chiếm thành Thái-bình, Hoành-sơn. Sau khi đánh chiếm xong hai thành này, quân hầu trấn giữ tại đây, bảo vệ đường tiếp tế lương thảo, và đường rút quân của ta. Còn Đô-thống Phạm Dật với đạo Ngự-long thì tiến lên đánh Ung-châu. Tính chung quân hầu có một vạn quân của châu, một vạn Thiên-tử binh, cộng hai vạn quân. Như vậy quân số tương đương. Nhưng ta đánh bất ngờ, lại thêm một lữ thú, mà chúng không phòng bị, thì ta phải thắng.
Ông hướng vào cử tọa:
- Kính mời Thái-tử thiếu-sư, Trấn Bắc thượng tướng quân, Môn-châu hầu Hoàng Kim-Mãn nhận lệnh.
Một trung niên nam tử đứng dậy cung tay:
- Xin chờ lệnh đại hiệp.
- Quân hầu trấn nhậm vùng Môn-châu, đối diện với vùng Vĩnh-bình của Tống từ lâu. Xin quân hầu cho biết tình hình địch.
Hoàng Kim-Mãn cung tay:
- Thưa tiền bối! Từ trước đến nay giữa châu Vĩnh-bình với Môn-châu ở vào thế đối nghịch, thù hận bao nhiêu đời rồi. Bất cứ một gia đình, một giòng họ nào ở Vĩnh-bình cũng có người chết vì Môn-châu. Ngược lại bất cứ một người nào ở Môn-châu cũng có kẻ thù ở Vĩnh-bình.
Đô-thống Lý Đoan kinh ngạc:
- Thưa quân hầu nguyên do nào lại đưa đến tình trạng này?
- Cũng dễ hiểu thôi. Đường từ Trung-nguyên sang Đại-Việt nằm trên tuyến Vĩnh-bình, Môn-châu. Cho nên mỗi khi Tầu đem quân đánh mình, thì phải qua tuyến này. Trên đường đi, họ bắt lính, bắt dân phu ở Vĩnh-bình. Những binh lính, dân phu đó qua Môn-châu là tác oai tác quái, cướp của giết người cực kỳ tàn bạo. Cho nên khi Đại-Việt phản công, quân Tàu bỏ chạy, dân Môn-châu tràn sang đòi lại của, đòi lại người; nhân đó giết kẻ thù để trả hận. Mới đây, thời Chương-thánh Gia-khánh 0 bọn Tống Sĩ-Nghiêu, Dương Lữ-Tài, Lý Đức-Dụng, Tả Minh, Hà Nhuận, Trần Bật mang quân sang đánh Đại-Việt; thì Môn-châu bị quân Tống cướp sạch, đến nỗi cả châu không còn một con trâu, con bò nào. Đến khi vua bà Bình-Dương với phò-mã Thân Thiệu-Thái phản công, dân Môn-châu tràn sang bắt lại thú, đòi lại người, rồi chém giết trả thù. Cũng vì lý do này, mà phụ huynh Môn-châu trong mười lăm năm qua, lúc nào cũng dạy dỗ con cái phải lo trả thù. Các trang trực thuộc thì nam, nữ luyện tập võ nghệ, tập hành binh bố trận để chờ... ngày hôm nay. Bất cứ lúc nào, chỉ cần một lệnh ban ra, thì nửa giờ sau tiểu bối có thể tập trung quân đánh tràn qua biên giới được. Quân số cả nam lẫn nữ gồm năm nghìn người.
Kim-Mãn thở dài:
- Quân số của Vĩnh-bình gồm có hai loại. Quân Quảng khoảng năm nghìn người. Còn bảo-giáp gồm toàn thể tráng đinh tuổi từ mười lăm trở lên khoảng hơn vạn. Người thủ lĩnh trại Vĩnh-bình là Tô Tá, lĩnh chức Chiêu-thảo sứ của Tống, phụ trách cả văn lẫn võ. Mười lăm năm trước, chính y theo quân Tống tràn sang giết vợ, con tôi. Tôi nuốt hận mười năm năm, để chờ cái ngày hôm nay có dịp băm vằm y ra cho hả giận. Y cũng biết vậy, nên phòng thủ rất chu đáo. Cho nên trận chiến sẽ khủng khiếp lắm, chứ không bình thường đâu. Chỉ dụ của hoàng-thượng ban ra là không được giết tù hàng binh, không được giết người cướp của, không được đốt phá chùa miếu... Tiểu bối e khó có thể thi hành được. Vậy xin trình với đại hiệp trước.
Ngô Cẩm-Thi xua tay:
- Hoàn cảnh như vậy, thì ta đành chịu vậy. Tướng ngoài mặt trận không nhất thiết phải theo lệnh vua.
Ghi chú,
Trong bộ Tống-triều công thần bi ký, bản văn trên mộ chí Tô Tá chép rằng : « Vợ của Tôn Đản, nguyên-soái Giao-chỉ tên Ngô Cẩm-Thi ra lệnh cho Hoàng Kim-Mãn tàn sát dân Vĩnh-bình đến mấy vạn người. Bao nhiêu của cải, gia súc cướp sạch mang về ». Bộ Quách-thị Nam-chinh viết : « Vợ Tôn Đản tên Ngô Cẩm-Thi, cháu năm đời Ngô Quyền, là người tài kiêm văn võ, nên cũng tham dự việc quân. Ngô-thị ra lệnh cho Hoàng Kim-Mãn rằng : Nếu chiếm được Vĩnh-bình thì muốn chém giết, tha hồ chém giết; đàn bà thì cho bắt về làm tỳ nữ. Của cải, thú vật thì được chở tận số về làm của riêng ». Bộ Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký viết hơi khác: « Tuy Tôn Đản với vợ là Ngô Cẩm-Thi đã ngăn cấm không cho chém giết lương dân, cướp bóc. Nhưng thù hận giữa Vĩnh-bình, Môn-châu sau biết bao lần binh cách chồng chất quá cao; nên Hoàng Kim-Mãn cho quân tàn sát dân Vĩnh-bình, cướp hết của mang về. Nhà thì đốt sạch ». Ở đây tôi viết theo bộ Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký. Bởi trong hai cuộc bình Chiêm, ba cuộc đánh sang Tống, cánh quân của Tôn Đản, Cẩm-Thi nổi tiếng là kỷ luật, nhân đạo thì không lẽ trong cuộc hành binh này, bà lại ra lệnh trái với chủ trương thông thường?

Tôn Đản hạ lệnh:
- Quân-hầu chỉ huy đạo binh Môn-châu, gồm hoàng-nam bản bộ, được tăng viện thêm đô-thống Vũ Quang, phu nhân Võ Kim-Loan và hiệu Thiên-tử binh Quảng-thánh; một lữ thú, một lữ kị-binh. Sau khi chiếm Vĩnh-bình, quân hầu trấn tại đây bảo vệ đường tiếp tế lương thảo của ta, và giữ đường rút lui sau này. Còn Đô-thống Vũ Quang thì tiếp tục tiến về thánh Ung. Không biết với quân số như vậy có đủ không?
- Thưa tiền bối đủ rồi.
Tôn Đản đứng dậy hướng vào cử tọa:
- Kinh mời Kiểm-hiệu tư-không, Hữu-bộc xạ, Khu-mật viện sứ, Phụ-quốc đại tướng quân, Nghĩa-dũng quốc-công, phò-mã Thân Cảnh-Long nhận lệnh.
Phò-mã Thân Cảnh-Long đứng dậy hành lễ:
- Đệ tử xin chờ lệnh sư thúc.
Ghi chú,
Phò-mã Thân Cảnh-Long là con vua bà Bình-Dương. Mà trong Thuận-Thiên thập hùng, thì Tôn Đản nhỏ tuổi hơn vua Bà, tức ông là vai em. Vì vậy Thân Cảnh-Long mới gọi ông là sư thúc. Tuy vậy, vì chức tước Cảnh-Long quá cao, nên Tôn Đản phải đứng dậy mà ban lệnh.
- Trong bốn đạo quân bộ đánh Tống, thì đạo quân của phò-mã lĩnh nhiệm vụ quan trọng nhất là đánh chiếm Tây-bình, Lộc-châu. Sau khi chiếm hai ải này, phò-mã lĩnh nhiệm vụ trấn thủ, bảo vệ hậu quân cùng đường rút tiếp tế lương thảo, đường lui của ta. Xin phò-mã cho biết tình hình hai ải Tây-bình, Lộc-châu?
- Trình sư thúc! Tây-bình, Lộc-châu, nằm trên con đường chính thông thương giữa Trung-nguyên với ta. Cho nên mấy năm qua Thẩm Khởi, Lưu Di ra sức chiêu mộ, đoàn ngũ hóa, luyện tập tráng đinh để đánh Đại-Việt. Châu-trưởng Tây-bình là Nùng Toàn-An, châu trưởng Lộc-châu là Nùng Tông-Đán. Cả hai được lĩnh chức Chiêu-thảo sứ. Hai châu này được một đại thần Tống là Trấn-viễn đại tướng quân Lưu Khả chỉ huy. Quân bảo-giáp của chúng ước khoảng hai vạn, quân Quảng gồm năm nghìn bộ, ba nghìn kị, rất thiện chiến.
Cẩm-Thi hỏi:
- Lưu Khả là người thế nào?
- Thưa y là con của chị gái Tôn Tiết. Tôn Tiết là một trong Tam-anh của Tống gồm Địch Thanh, Trương Ngọc, Tôn Tiết. Trong dịp công-chúa Bảo-Hòa đem quân đánh Tống, Tam-anh đưa quân từ Kinh-châu về cứu Quảng-châu. Tôn bị giết. Vua Nhân-tông bên Tống truyền cho Khả được tập ấm. Y thi đỗ tiến sĩ thời vua Anh-tông, từng theo Kinh-Nam vương đánh Liêu, Hạ, lập công. Mới đây y được đưa về trấn Tây-bình, Lộc-châu. Võ công y rất cao, tương truyền y đã đỡ được của Kinh-Nam vương tới chín chiêu.
Cử tọa đều bật lên tiếng ”ồ” kinh ngạc. Vì với bản lĩnh của Kinh-Nam vương, trong thiên hạ, khó ai đỡ nổi ba chiêu.
Tôn Đản hỏi:
- Quang-lang là thủ đô của Bắc-biên, vậy lực lượng của phò-mã được bao nhiêu?
- Thưa sư thúc, đệ tử thấy Tống dồn trọng binh đối diện với mình, nên dùng hư kế, chuyển ba đạo binh Bắc-biên trấn ở Quảng-nguyên, Tô-mậu, Môn-châu. Còn chính Quảng-nguyên lại bỏ trống. Mục đích để khi chúng tiến binh sang, đệ tử sẽ rút lui, rồi điều hai đạo Môn-châu, Tô-mậu phục ở tử đạo Chi-lăng. Còn đạo Quảng-nguyên sẽ đánh cắt đường về của chúng. Như vậy chúng sẽ lâm vào tử địa. Cho nên tại Quảng-nguyên chỉ cỏ hoàng-nam mà thôi.
Tôn Đản hài lòng:
- Tôi hiểu! Trước đây vua bà Bình-Dương, phò-mã Thân Thiệu-Thái đã dùng kế này để nhử Tống Sĩ-Nghiêu, Dương Lữ-Tài, đánh tan đạo quân của chúng vào thời Chương-thánh Gia-khánh 0. Như vậy bây giờ Lưu Khả không đề phòng Quang-lang. Ta ra quân như sét nổ, ắt chúng phải thất bại.
Ông chỉ công chúa Thiên-Thành:
- Khi các đạo quân lên đường, thì vua bà trấn thủ Bắc-biên. Mỗi trang, động đều có hoàng-nam làm lực lượng cơ hữu canh phòng trộm cướp, tự vệ khi bị tấn công. Ngoài ra tôi tăng viện cho vua bà hai hiệu binh của Kinh-Bắc, Hồng-châu nữa. Còn phò-mã chỉ huy một lữ thú-binh, một lữ kị binh. Tôi tăng viện cho Đô-thống Trần Ninh, phu-nhân Trần Ngọc-Hương với hiệu Thiên-tử binh Đằng-hải; Đô-thống Lý Đoan, phu-nhân Trần Ngọc-Liên với hiệu Thiên-tử binh Bổng-nhật. Nhiệm vụa của phò-mã là đánh chớp nhoáng chiếm hai ải Tây-bình, Lộc-châu, tổ chức phòng vệ để giữ vững hậu quân, cùng đường tiếp tế lương thảo, đường rút quân. Sau đó tiến về Ung-châu.
Phò-mã Thân Cảnh-Long cúi đầu:
- Đệ tử tuân lệnh sư thúc.
Tôn Đản lại hướng vào chư tướng:
- Xin mời Thái-tử thái-phó, Trấn-võ thượng tướng quân, Tô-mậu hầu Vi Thủ-An nhận lệnh.
Một trung niên nam tử mình hạc, xương mai, nhưng tóc đã bạc phơ đứng dậy:
- Xin chờ lệnh tiền bối.
- Quân hầu trấn nhậm châu Tô-mậu, đối diện với châu Cổ-vạn của Tống. Xin quân hầu cho biết tình hình ta với Tống.
Vi Thủ-An cung tay:
- Thưa tiền bối, Tô-mậu tuy giầu có, nhưng dân số lại ít, việc võ bị lơ là. Hiện ngoài đạo quân của Bắc-biên, quân của châu chưa quá nghìn tráng đinh. Trong khi châu Cổ-vạn là cuống họng thông từ Đông sang Tây của Quảng-Tây lộ. Tống có trọng binh đóng ở đây. Chủ trại là Nùng Hiệp-Thành với hơn bốn nghìn quân bảo-giáp. Tướng trấn thủ là Tả-lãnh vệ đại tướng quân Chu Am, phó là Bát-tác sứ Toàn Hưng, với năm nghìn quân Quảng, một nghìn kị binh.
- Bọn Chu Am với Toàn Hưng là người như thế nào?
- Am là đệ tử của phái Hoa-sơn, phải gọi công chúa Huệ-Nhu, cùng bọn Triệu Tiết, Khúc Chẩn bằng sư thúc. Xuất thân tiến sĩ, từng theo Kinh-Nam vương đánh Hy-hà có công. Vì là người cùng quê với Vương An-Thạch, nên được Thạch gửi xuống trấn Cổ-vạn trấn thủ, để chỉ huy tế tác dò thám ta, hầu chuẩn bị đem quân sang. Cho nên quân đóng ở Cổ-vạn luôn gây sự với Tô-mậu.
Ông chỉ vào đô-thống Đinh Hoàng-Nghi với phu nhân Phương-Quỳnh:
- Đã thế, hơn tháng qua Đinh đô-thống cùng phu-nhân từ miền xuôi lên với lệnh của Khu-mật viện nói rằng « làm một số việc cơ mật ». Cơ mật gì mà đô-thống đem một số tùy tùng lên gây ra nhiều chuyện quái đản, khiến cho bên Cổ-vạn căm hờn; họ đang tập trung quân, chuẩn bị đánh sang.
Trong khi Vi Thủ-An than thở, thì Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh ngồi ôm gối mỉm cười trông rất nhàn nhã ung dung. Vi Thủ-An giận muốn ứa gan, mặt hằm hằm tiếp:
- Thứ nhất, đô-thống cho tùy tùng đào bới ở chân ngọn đèo giáp ranh giữa Tô-mậu với Cổ-vạn. Ngày nào đoàn đào đất cũng tìm ra được những thùng gỗ chôn dưới đất, rồi nói rằng đó là thùng vàng, ngọc mà các quan Tầu sang ta cai trị vào đời Đường chôn dấu. Tin này đồn ra làm rúng động quan, quân Cổ-vạn, chúng bàn nhau lăm le muốn kéo sang cướp. Rồi trên tuần qua, người cho Thiên-tử binh giả làm hoàng-nam Tô-mậu; ngày thì thả ngựa, ngày thì thả trâu cho ăn lúa của Cổ-vạn. Bây giờ là tháng chín, hạt lúa đã săn, sắp chín, mà trâu ngựa ăn của người ta mỗi lần hết hơn sào (360 m vuông ngày nay), thì đời nào người ta chịu? Thế là họ ra bắt trâu, bắt ngựa để đòi bồi thường. Thiên-tử binh đã không bồi thường, còn đánh người ta. Thành ra ngày nào cũng có cuộc xô xát, mà bao nhiêu oán hờn bọn Cổ-vạn đổ lên đầu Tô-mậu.
Trong khi Vi Thủ-An vừa giận, vừa sợ, thì Tôn Đản, Cẩm-Thi, Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh lại tủm tỉm cười tỏ vẻ khoan khoái. Vì vậy ông càng cáu thêm, ông tiếp:
- Hiện tiểu bối có ba điều lo lắng, xin tiền bối giúp cho.
- Quân hầu cứ nói.
- Một là binh lực thuộc quyền tiểu-bối quá ít, quá yếu, so với Cổ-vạn. Bọn chúng thường gây sự, chèn ép đủ điều, tiểu bối vốn đã phải nhịn nhục với bọn Nùng quá lắm rồi. Hai là, bọn Nùng vốn ăn hiếp tiểu bối đã quen, thế mà nay Đinh đô-thống mới lên lại làm ngược lại, không những không nhường nhịn chúng, mà còn gây gổ, khiêu khích chúng. Đây là cái cớ, mà bất cứ lúc nào chúng cũng có thể tràn qua đánh cướp, viện cớ mình gây sự. Ba là thời gian qua, chả biết Đinh đô thống đã đào được bao nhiêu vàng ngọc thì tiểu bối không biết, mà tin đồn ra là đào được tới hơn ba chục thùng. Như vậy ngày một ngày hai bọn Nùng sẽ tràn qua lấy cớ trả hận, nhưng thực ra là cướp vàng ngọc.
Nói xong ông quay lại nhìn Đinh Hoàng-Nghi để trút cái hận, thì lại thấy vợ chồng Nghi cười khúc khích, tỏ vẻ khoái chí, khiến mặt ông hầm hầm muốn toé lửa.
Tôn Đản mỉm cười với Vi Thủ-An:
- Quân hầu bình tĩnh! Việc Cổ-vạn tôi xin lo hết. Đừng có sợ! Này quân hầu ơi! Trước kia Thẩm Khởi huênh hoang, le te, ồn ào, để lộ cho ta biết âm mưu mà hỏng việc. Tống đã cách chức Khởi cử Lưu-Di thay thế. Nhưng Lưu còn ngu hơn Thẩm nhiều. Lưu biết rằng phần đối diện với y quân số ít ỏi, thì y cũng phải giảm quân số để đánh lạc hướng ta mới phải. Đây y ra cái bộ y mạnh, y tụ quân ngụ ý đe dọa. Hừ! Biết tâm y như vậy, ta càng khích thêm tính kiêu căng của y, thì việc hạ Cổ-vạn không khó.
Ông nói lớn:
- Khi triều đình nghị kế định rằng ta đánh Tống bằng hai đạo thủy, bộ. Đạo thủy đổ lên Khâm-châu, Liêm-châu. Đạo bộ là chúng ta. Vì Tống có trọng binh ở Khâm, Liêm, e đạo thủy khó đổ bộ lên. Vì vậy chúng ta phải tấn công trước, dẫn dụ cho Tống đem quân Quảng-châu, Khâm, Liêm, Ung về Tây-Nam cứu viện. Bấy giờ đạo thủy mới đổ bộ. Nhưng...
Ông ngừng lại cho mọi người chú ý rồi tiếp:
- Đạo bộ ta cũng phải lừa Tống một lần nữa. Đầu tiên ta đánh một ải dưới hình thức hai khê động Việt-Hoa giáp nhau đụng chạm vì lý do bình thường; để từ Lưu Di cho đến triều Tống tưởng rằng đó chỉ là những gây gổ giữa hai khê động. Sau đó mấy ngày, ta mới đại tấn công.
Ông chỉ Vi Thủ-An:
- Tôi quyết định dùng đạo quân Tô-Mậu khai chiến đánh ải Cổ-vạn để làm kế lừa địch.
Vi Thủ-An giẫy nẩy lên:
- Đại hiệp xét cho. Chúng tôi chỉ có nghìn người ô hợp, sao có thể đối đầu với hơn vạn quân tinh nhuệ của Tống?
Tôn Đản xua tay:
- Quân hầu yên tâm. Quân hầu chỉ đứng trên danh nghĩa để đánh lừa địch. Còn người chỉ huy là Trấn Bắc đại tướng quân, Tiên-yên tiết độ sứ, Tản-viên quốc công Tôn Mạnh với Côi-sơn công chúa Trần Thanh-Nguyên kia mà. Tất cả việc làm của Đinh đô-thống là lệnh của Khu-mật viện, với mục đích nhử cho Tống xuất ra khỏi Cổ-vạn đánh ta trước. Ta nhân đó phản công, như vậy Cổ-vạn mất, tin báo về Biện-kinh, vua tôi nhà Tống sẽ cho là chuyện xích mích giữa các khê động mà thôi.
Vi Thủ-An thở dài, như trút được gánh nặng bấy lâu trên vai, ông nhìn Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh như tỏ ý xin lỗi về những bực tức vừa qua.
Ông nói với Tôn Mạnh, Thanh-Nguyên:
- Đường từ Tô-mậu sang Cổ-vạn phải qua hai cái đèo. Vì vậy ta dùng ít bộ binh, mà dùng kị binh. Hai em được tăng viện Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh với hiệu Thiên-tử binh Quảng-vũ; Vũ-kị đại tướng quân Hà Mai-Việt với đạo kị binh Phù-đổng; Thần-vũ thập anh với hai lữ binh thú. Như vậy có đủ không?
Thanh-Nguyên dơ tay vẫy vẫy:
- Đủ rồi! Đủ rồi!
Tôn Đản nhấn mạnh:
- Cuộc « tấn công để tự vệ » này, quan hệ ở các đạo bộ binh chúng ta. Đạo bộ binh chúng ta, quan hệ ở trận đánh Cổ-vạn. Nhiệm vụ quan trọng ở chỗ: phải chiếm được Cổ-vạn trong vòng ba giờ, để binh Tống không phân biệt được đó là Đại-Việt đánh họ, hay Tô-mậu đánh họ. Nếu như trận này thất bại, thì ta sẽ phải khó khăn, tốn nhiều nhân mạng lắm mới có thể đạt được mục đích.
Tôn Đản đứng dậy hỏi hướng vào Tuyết-sơn thập anh:
- Bẩy nhân huynh đây đều là những người văn mô vũ lược. Vậy lão phu xin bẩy vị dạy cho ít lời.
Trong Tuyết-sơn thập anh thì Tam-Sơn, Tứ-Sơn, Ngũ-Sơn xuất thân tiến-sĩ, ông đứng dậy cung tay:
- Xưa học trò hỏi Khổng-tử rằng: Nếu như nhà vua trao quyền cho thầy, thì việc đầu tiên thầy làm gì? Ngài đáp: Phải chính danh. Hỏi: Sao lại phải chính danh? Đáp: Danh có chính thì ngôn mới thuận, ngôn đã thuận thì sự mới thành. Thưa tiền bối có đúng thế không.
- Quả không sai.
- Phàm ra quân phải có chính nghĩa, đó là chính danh. Vậy nay tiền bối ra quân chnh nghĩa là gì? Nếu tiền bối không tuyên cáo chính nghĩa cho dân thì người Tống sẽ nghĩ rằng: Giao-chỉ là nước nhỏ vượt biên đánh nước lớn, chẳng qua là một thứ đạo tặc mà thôi. Đó là một điều khó. Còn như tiền bối nói thực rằng mình đem quân sang phá các kho lương, thành trì của Tống, để Tống không thể đánh Đại-Việt được, thì lại càng làm cho dân khổ, cũng không có chính nghĩa. Đó là hai điều khó.
- Xin tiên sinh chỉ cho cách gỡ hai cái nút này.
- Tiền bối đều biết rằng hiện nay nửa dân Tống chống Tân-pháp của Vương An-Thạch. Các quan càng chống mạnh hơn. Thế thì tiền bối còn chờ gì mà chẳng làm tờ đại cáo với dân rằng: Đại-Việt ra quân chỉ với mục đích hỏi tội Vương An-Thạch bầy ra Tân-pháp làm khổ dân. Rồi những vùng chiếm được, tuyên bố bỏ Tân-pháp, xá thuế cho dân. Như vậy trong triều, ngoài dã từ quan tới dân đều nói rằng: Đấy, Đại-Việt ra quân chỉ vì Tân-pháp. Họ sẽ cùng Đại-Việt chống Tân-pháp hơn lên. Đấy có phải là ta có chính nghĩa không?
Tôn Đản tỉnh ngộ, cung tay:
- Xin nhờ tiên sinh múa bút soạn cho tờ đại cáo.
Tam-Sơn cầm bút viết:
« Trời sinh muôn dân, thì vua phải hòa-mục với họ. Đạo làm chúa dân, cốt ở nuôi dân. Nay nghe Tống chúa hôn ám, không nương theo phép thánh nhân, lại tin vào tà kế Vương An-Thạch, đặt ra cái gọi là Thanh-miêu, Trợ-dịch, khiến trăm họ khốn khổ, mà riêng nuôi thân mình cho mập.
Bởi sinh-mệnh muôn dân là tự trời, thế mà bỗng chốc họ bị sa vào cảnh khốn khó. Lượng kẻ trưởng thượng phải xót thương. Những việc từ trước chẳng nói làm gì!
Nay bản chức vâng lệnh quốc-vương, chỉ ngọn cờ lên Bắc, muốn dẹp yên sóng yêu ma; nên chỉ phân biệt quốc thổ, không phân biệt dân chúng. Phải quét sạch hôi tanh, để dân chúng được sống những ngày Nghiêu, tháng Thuấn thanh bình.
Ta nay ra quân, cốt cứu dân khỏi chìm đắm trong bể khổ. Nên truyền hịch để mọi người cùng nghe. Ainấy hãy đắn đo suy nghĩ, đừng mang lòng kinh sợ ».
Ghi chú,
Bản trên đây, tôi lấy trong Việt-điện u-linh. Trong An-Nam chí lược, Lê Tắc cũng có ghi, nhưng ý hơi khác. Ngoài ra trong Quách-thị Nam-chinh và Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký đều chép một tờ hịch nữa, nội dung hoàn toàn giống nhau. Xin đọc trong hồi 35.
Tôn Đản mừng lắm, sai khắc vào gỗ, rồi in rà thành mấy nghìn tờ, trao cho chúa tướng các đạo, để khi quân tới đâu, thì dán ở những nơi công cộng cho dân chúng đọc.
Tôn Đản nói với Tuyết-sơn thập anh:
- Các vị huynh đài đều là những đại hiệp vì dân trừ bạo. Trong các châu Nam-thùy Tống, có biết bao nhiêu tên cường hào ác bá, có biết bao nhiêu tên tham quan ô lại, có biết bao nhiêu tên đầu trộm đuôi cướp. Vậy lão phu đề nghị mười vị chia nhau theo các đạo quân, đe mỗi khi chiếm được vùng nào, các vị họp dân điều tra, rồi dùng luật võ lâm xử tội chúng, trước làm mát lòng dân, sau là thế thiên hành đạo.
Thập-anh cùng đứng dậy nhận lệnh.
Côi-sơn công chúa Trần Thanh-Nguyên góp ý:
- Sau buổi họp này, thì cuộc chuẩn bị của toàn thể quân Bắc-biên, lẫn hoàng-nam sẽ ồn ào vô cùng. Em sợ tế tác Tống biết được, họ đề phòng, thì cuộc chiến sẽ gay go vô cùng.
Tôn Đản bật cười:
- Anh chị đã dự trù trường hợp đó rồi.
Ông đưa ra một bọc, trong bọc có hơn năm chục cuộn giấy, rồi nói:
- Đây là lệnh hư kế của Đại-tư-mã Lý Thường-Kiệt. Lệnh này nói rằng: Triều đình quyết định điều ba hiệu bộ binh, kị binh, thú binh đi chinh tiễu Chân-lạp để cứu Chiêm-thành. Vì vậy tất cả quân Bắc-biên phải chuẩn bị lừa, ngựa, lương thảo, chờ ngày xuất hành.
Chưa tướng cùng nhận lệnh. Cuộc họp chấm dứt.
Tôn Đản lưu Tôn Mạnh, Thanh Nguyên, Vi Thủ-An, Đinh Hoàng-Nghi Trần Phương-Quỳnh lại. Ông hỏi Hoàng-Nghi:
- Chuyện đó như thế nào?
- Hơn tháng qua cháu đã làm, thành công đã trong tầm tay. Mới đây nhất, ngày hôm qua cháu đã cho năm đứa trẻ giả làm dân Tô-mậu đem trâu sang cánh đồng sát chân núi chăn, rồi để trâu ăn lúa của vùng Cổ-vạn. Đây là lần thứ tám, trong một tháng. Bây giờ lúa sắp chín, mà trâu ăn mất một mảnh lớn ở ruộng. Quân bảo-giáp vùng Cổ-vạn cũng như mấy lần trước, chúng ùa ra bắt trâu, đòi phải mang tiền sang chuộc. Hai bên đánh nhau kịch liệt. Chiều cháu cho hai mươi Thiên-tử binh giả hoàng-nam sang bắt lại trâu. Hai bên giằng co, đánh nhau. Bên Cổ-vạn có hơn mười người bị thương, tám người chết. Như vậy bọn tướng sĩ Tống như Tả-lãnh vệ đại tướng quân Chu Am, Bát-tác sứ Toàn Hưng, châu trưởng Nùng Hiệp-Thành... có là Thích-Ca ngồi trên toà cũng phải nhúc nhích. Theo tin tế tác, đêm nay chúng sẽ vượt qua đường phía Tây đồi Vong-thiên, để sáng mai đánh Tô-mậu.
- Được! Còn hiệu binh Quảng-vũ, kị-binh bây giờ ở đâu?
- Cháu cho di chuyển bằng đường Đông đèo Vong-thiên đến sát Tô-mậu đêm qua. Hiện ẩn ở trong rừng. Chỉ đợi lệnh là vượt biên.
Tôn Đản nói rất chậm:
- Hôm nay là ngày 14 tháng chín, trăng sáng tỏ, vậy trời xập tối thì lên đường. Sao cho đến chân đèo phía Bắc Vong-thiên vào giờ Tý. Ta cho quân nghỉ ngơi, đến giờ Sửu thì tấn công. Kế hoạch tấn công ra sao?
- Cháu đã nghị với công chúa Côi-sơn rồi.
Thanh-Nguyên trình bầy:
- Khi được mật lệnh của anh chị, em sai cháu Hoàng-Nghi Phương-Quỳnh đích thân giả làm lái buôn sang Cổ-vạn thám sát địa thế cùng tình hình. Về địa thế thì châu Cổ-vạn được bao quanh bởi mặt Đông là dẫy đồi, mặt Bắc là con sông, mặt Tây, Nam là cánh đồng. Về mùa này ruộng đã khô, người ngựa có thể băng qua được. Phía Nam châu có bốn cổng nhỏ, hai cổng lớn. Cổng nhỏ cho người và thú ra đồng làm việc, tối cổng đóng lại, không có người canh gác. Cổng lớn rất rộng dành cho xe, người đi. Đây là trục giao thông chính của ta với Trung-nguyên, cho nên ngày đêm đều có quân canh gác. Quân sĩ thì chia làm bốn toán, mỗi ngày một toán ứng trực canh phòng, hai toán nghỉ, một toán luyện tập. Ban đêm thì tất cả đều về nhà ngủ, để cho quân bảo-giáp canh phòng.
- Kế hoạch đánh như thế nào?
Hoàng-Nghi nói thầm vào tai Tôn Đản một lúc. Ông vui vẻ:
- Được lắm. Ta ngồi xem các vị thành công.
Tôn Mạnh, Thanh-Nguyên, Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh, Vi Thủ-An lấy ngựa trở về Tô-mậu. Trước khi khởi hành, Tôn Mạnh viết lệnh triệu tập binh tướng tại Tô-mậu ngay đêm nay, rồi sai chim ưng mang đi. Ba người tới nơi, thì trời xập tối. Cơm nước xong, thì chư tướng đến.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 173
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com