watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
15:48:3126/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50 - Trang 16
Chỉ mục bài viết
Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Trang 37
Trang 38
Trang 39
Trang 40
Trang 41
Tất cả các trang
Trang 16 trong tổng số 41



Chương 38b

Đinh Hoàng-Nghi đưa mắt nhìn vương, miệng cười tủm tỉm:
- Xin tuân chỉ.
Thấy nét mặt Hoàng-Nghi cười mà không phải cười vương hỏi:
- Nghi đệ hiểu ý ta rồi ư?
- Dĩ nhiên em hiểu.
- Em thử nói cho ta nghe xem, có đúng không nào?
- Sau này chúng ta rút đi rồi thế nào Tống cũng đem quân từ Tây, từ Bắc xuống Nam đánh ta trả thù. Quân nhất định phải qua Đại-giáp, Hoả-giáp, Ngọc-tuyền. Thử hỏi ai ra trận mà không sợ chết? Khi quân Tống qua đây, trong lòng vốn sợ sệt, mà suốt dọc đường thấy bốn vạn cái mả, với ngôi mộ lớn của năm tướng, thì dù can đảm đến đâu cũng phải bở vía. Vương sai em chôn quân Tống thì một là do thiện-tâm, hai là dùng mả Tống hớp hồn quân Tống vậy.
- Đúng thế.
Tướng sĩ tề tựu vương hỏi:
- Trong trận vừa qua, ta dùng hư binh nhiều hơn là thực, ta đánh vào tâm giặc hơn là dùng đao kiếm. Chính vì vậy quân Tống tan vỡ mau chóng, mà cả hai bên đều ít đổ máu. Bây giờ ta rút quân.
Phạm Dật đứng lên nói:
- Khải vương gia, hôm trước đánh chiếm Côn-lôn, đệ đã cho phá hầu hết những gì do Tân-pháp thiết lập, lại hủy hết cầu cống, thành trì từ Côn-lôn tới Liễu-châu, Tân-châu. Ta rút là phải.
Lý Đoan đứng dậy:
- Khải vương gia, thời Lĩnh-Nam, công-chúa Gia-hưng Trần Quốc được lệnh đem quân đốt hết kho lẫm, xưởng đóng chiến thuyền Hán. Người đã nhân đó, vi chỉ, đem quân tiến về Lạc-dương lật đổ triều Hán. Nay vùng Quế-châu, Trường-sa... Tống không còn quân. Ta nhân mới đại thắng, thể như trẻ tre, xin vương gia cho bọn đệ tiến về chiếm lại Trường-sa, hồ Động-đình, lập lại lãnh thổ thời Văn-lang, thời Lĩnh-Nam.
Trung-Thành vương hỏi các tướng:
- Chư tướng nghĩ gì về lời đề nghị của Lý đệ?
Tất cả Long-biên ngũ hùng, Thần-vũ thập anh đều tán thành ý kiến của Lý Đoan. Trung-Thành vương chưa biết trả lời sao, thì thân binh báo có nguyên-soái Thường-Kiệt, Tôn Đản, Cẩm-Thi, Tín-Nghĩa vương tới. Vương vội dẫn các tướng ra đón vào.
Lễ tất.
Tín-Nghĩa vương khen ngợi Long-biên ngũ hùng và Thần-vũ thập anh:
- Ta không ngờ các em lại biến chế Thần-nỏ thành những nỏ bắn mã não, hoàng thạch lợi hại như vậy. Nhân bà chúa kho Thiên-Ninh than rằng các em dùng số mã não, hoàng thạch nhiều quá, không kịp tiếp tế. Lại nhân ta thu được mấy kho loại nhựa cháy, mã não, hoàng thạch của Tống tích trữ ở Khâm, Liêm, Dung, Nghi, Bạch châu. Ta sai chở lên Ung-châu cho các em dùng.
Tôn Đản vỗ tay lên vai Lý Đoan:
- Trước khi cho Long-biên ngũ hùng, Thần-võ thập anh lên đây đánh viện binh Tống, vua bà Bình-Dương đã bàn với nguyên soái Thường-Kiệt và ta rằng: Cho Trung-Thành vương với các cháu đi phen này, thì thành công cầm chắc trong tay. Nhưng phải cẩn thận, bằng không các cháu sẽ đánh lên chiếm lại vùng Trường-sa, hồ Động-đình, mà gây ra tai vạ lớn. Nay quả nhiên đúng như vậy.
Lý Đoan hỏi:
- Trình sư thúc, nay ta tiến lên, thì việc chiếm lại cố thổ thời Linh-Nam đâu có khó?
Tôn Đản mỉm cười:
- Cháu biết một mà không biết hai. Dĩ nhiên các cháu đánh Trường-sa thì thành công. Nhưng thành công rồi có giữ được không? Này cháu, đường từ Đại-Việt lên đây xa diệu vợi, làm sao ta có thể tiếp tế lương thảo cho năm vạn người ngựa? Với năm vạn người ngựa làm sao trấn được cả một vùng rộng gấp hai mươi lần Đại-Việt? Thời Lĩnh-Nam, bấy giờ vùng này cứ hai Hán, một Việt, mà khi người Hán nổi dây ta cũng không giữ nổi, huống hồ nay khắp vùng, ta không còn người Việt nào?
Lý Đoan im lặng ngồi xuống, nhưng trong lòng còn ấm ức.
Tín-Nghiã vương nói:
- Cáo chết ba năm, quay đầu về núi. Hồi đánh Chiêm, ta kết bạn, cứu giúp cho Động-đình thất kiệt, Tuyết-sơn thập anh, Trường-bạch ngũ hùng, cùng một số cao thủ. Ta lại đưa vợ con họ sang bên Đại-Việt sinh sống. Thế nhưng, trong trận đánh vừa qua ta giao cho họ việc tổ chức cai trị, trừng trị ác bá, tuyển mộ nhân tài. Ta dùng tù binh tổ chức thành hai hiệu binh Lĩnh-Nam, một hiệu binh Quế-lâm để trấn thủ đất chiếm được. Thế nhưng bây giờ trở về đất Trung-nguyên, họ lại muốn dùng quân ấy cát cứ địa phương. Cho nên ta chỉ nên đánh Tống, dành lại những khê động đã mất mà thôi, ta chẳng nên tham vọng chiếm đất của họ làm gì.
Thế là ngày hôm sau, Trung-Thành vương truyền lệnh rút quân.
Ngày Ất-Sửu, tháng giêng niên hiệu Thái-Ninh thứ năm đời vua Lý Nhân-tông bên Đại-Việt -1058.
Tại đại bản doanh của nguyên-soái Lý Thường-Kiệt, chư tướng tề tựu đầy đủ, để nghe Tuyết-sơn thập anh, Động-đình thất kiệt, Trường-bạch ngũ hùng tường trình về ba việc đã làm tại vùng quân Việt mới chiếm được: Một là hủy bỏ Tân-pháp của Vương An-Thạch, hai là tổ chức lại guồng máy cai trị như thời vua Tống Nhân-tông, ba là trừng trị bọn tham quan, bọn cường hào ác bá.
Sau khi nghe trình bầy xong, người đứng đầu Động-đình thất kiệt là Từ Bá-Tường đề nghị rằng tất cả vùng Khâm, Liêm, Dung, Nghi, Bạch xin để cho Động-đình thất kiệt cai trị; vùng Ung, Liễu, Tân xin để cho Tuyết-sơn thập anh cai trị; vùng các khê động 18 ải xin để cho Trường-bạch ngũ hùng cai trị.
Nguyên-soái Thường-Kiệt vui vẻ:
- Tục ngữ nói: Việc thiên hạ, ắt có người thiện hạ giải quyết, thực không sai. Nay các vị võ-lâm Trung-nguyên đã muốn như vậy, thì là điều chúng tôi cầu mà không được. Xin các vị cứ tự tiện bổ quan lại, định thuế khóa tùy ý.
Sau khi đám võ lâm Trung-nguyên rời hành doanh, nguyên-soái Thường-Kiệt cho canh phòng thực cẩn thận, rồi nghị tới việc rút quân.
Trung-Thành vương bàn:
- Mục đích thứ nhất của chúng ta là hủy bỏ Tân-pháp của Vương An-Thạch tại Quảng-Nam Tây-lộ. Nay đã xong. Mục đích thừ nhì là phá hết kho lương thảo, vũ khí, thành trì, quân lữ của Tống chuẩn bị đánh ta cũng đã xong. Mục đích thứ ba là chiếm lại các vùng đất bị Tống cướp, cũng đã xong. Vậy ta có nên phá thành Ung rồi mới rút. Hay rút luôn?
Chư tướng bàn luận phân vân. Phía không muốn phá thành Ung, vì đánh thành Ung xong cũng chẳng ích lợi làm bao, trong khi quân dân Tống trong thành chết nhiều quá; quân mình chết cũng không ít. Chủ trương này gồm có Tôn Đản, Cẩm-Thi, công chúa Thiên-Ninh, Vũ-kị thượng tướng quân Hà Mai-Việt, đại đô đốc Lý Kế-Nguyên, các đô đốc Trần Lâm, Trần Phúc, Trần An, Trần Hải. Một phía cho rằng thành Ung là đầu não chỉ huy các ải tiếp giáp với Đại-Việt, bằng mọi giá phải san bằng thành Ung, để sau này Tống muốn xây lại cũng phải tốn nhiều công sức, như vậy khả năng đánh Đại-Việt đã giảm đi. Chủ trương này gồm có Trung-Thành vương, Tín-Nghĩa vương, Long-biên ngũ-hùng, Tây-hồ thất kiệt, Thần-vũ thập anh.
Hai bên bàn luận gần nửa ngày, mà vẫn không đi đến kết quả nào. Cuối cùng nguyên soái Thường-Kiệt quyết định: Đồng ý cho đánh thành Ung, với hai điều kiện. Một là không được hy sinh quá năm trăm quân Việt. Hai là trong bẩy ngày mà không hạ được thành, thì coi như thất bại, cho rút quân.
Việc đánh thành trao cho Trung-Thành vương, Tín-Nghĩa vương. Hai vương họp với Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt, Thần-vũ thập anh, Vũ-kị thượng tướng quân để nghị kế đánh thành.
Đinh Hoàng-Nghi đứng lên nói:
- Nguyên soái đã giới hạn cho chúng ta bẩy ngày, vậy bây giờ đệ xin đưa ra năm bước phá thành Ung, chỉ trong ba ngày; mà quân mình chết rất ít, nhưng quân Tống thì chết nhiều lắm.
Tín-Nghĩa vương hỏi:
- Nghi đệ thử nói cho ta nghe xem nào?
- Bước thứ nhất là tuyệt đường cấp nước. Trong mấy ngày đánh thành, đệ chú ý thấy quanh thành Ung có con hào cực sâu bắt nguồn từ một sông nhỏ. Hào lại có lạch nhỏ thông vào trong thành. Địa thế thành rất cao. Nếu bây giờ ta ngăn nước con sông thông với hào, rồi khơi đất thực sâu, ắt bao nhiêu nước quanh hào sẽ rút ra hết. Như vậy chỉ nội trong hai ngày trong thành không còn nước uống nữa.
Mọi người vỗ tay hoan hô.
- Bước thứ nhì là lấp hào. Ta hiện có trong tay hai vạn tù binh. Sau khi khơi hết nước ở hào quanh thành, ta dùng tù binh khuân đá lấp hào. Dĩ nhiên trong khi họ lấp hào, thì quân trong thành có thể bắn tên, lăn đá xuống. Vậy khi họ khuân đá lấp hào, thì ta dùng đội Thần-tiễn Long-biên phục bên ngoài, hễ quân Tống nhô đầu lên là bắn ngã.
Trung-Thành vương gật đầu:
- Phương pháp này được. Rồi sao?
- Bước thứ ba là ta dùng lối công thành như vũ bão, như sét nổ liên tiếp ngày đêm; reo hò xung phong, dùng đại nỏ bắn Lôi-tiễn đốt sạch nhà cửa, kho lẫm. Như vậy chỉ hai ngày sau quân Tống kiệt lực, lương thảo cháy hết, nhà cửa trú ngụ chẳng còn. Bấy giờ ta tiến sang bước thứ tư.
Mọi người hỏi:
- Bước thứ tư là gì?
- Bước thứ tư là, quân ta, người nào cũng có một cái túi vải lớn đựng trang phục, dụng cụ. Ta lệnh cho quân tạm cất trang phục, dụng cở ở trại, lấy túi đó đựng đất. Ta cho họ chờ sẵn ở gần bốn khu của bốn tường thành. Bước thứ năm, ta cho bắn tới tấp, bắn thực nhiều Lôi-tiễn vào thành, không chừa một chỗ nào. Bấy giờ quân Tống không còn thấy trời đất là gì; ta cho quân xung phong đến trước tường thành xếp bao lại thành bức tường có bậc, rồi leo vào trong.
Trung-Thành vương khen ngợi:
- Được, ta đồng ý kế hoạch của Nghi đệ.
Vương ban lệnh:
- Trong năm bước Nghi đệ đưa ra, có hai phần chính yếu. Hai phần này phải phối hợp nhịp nhàng với nhau. Việc thứ nhất là khơi nước, lấp hào, đem túi vải làm ụ. Việc thứ nhì là công thành. Vậy việc thứ nhất Tín-Nghĩa vương đảm trách. Việc thứ hai do ta đảm trách.
Vương hỏi em:
- Nhị đệ! Nhị đệ định trao cho ai làm, bao giờ thì làm?
- Làm ngay lập tức.
Tín-Nghĩa vương trả lời: Việc tổng chỉ huy đào đất ngăn nước sông, khơi nước trong thành chảy ra ngoài giao cho Vũ-kị thượng tướng quân Hà Mai-Việt.
Hà Mai-Việt đứng dậy nhận lệnh.
- Việc dùng tù binh lấp hào trao cho Thần-vũ thập anh. Công tác phải thi hành ngay lập tức, không kể ngày đêm.
Thần-vũ thập anh đứng dậy nhận lệnh.
- Việc chất bao đất làm ụ, sẽ do Tây-hồ thất kiệt dùng bản bộ quân mã thực hiện.
Trung-Thành vương vui lòng:
- Lực lượng công thành không cần đông. Chỉ cần bốn hiệu đánh bốn mặt, một hiệu đánh vào trung ương. Việc này ta giao cho Long-biên ngũ-hùng.
Vương ban lệnh:
- Việc tổng chỉ huy nã đại nỏ vào thành, ta giao cho Phạm Dật. Lúc đầu để cho quân khỏi mệt, ta chia lực lượng làm hai, luân phiên nhau, mỗi ngày hai hiệu đánh hai hiệu nghỉ. Vậy Vũ Quang, Hoàng-Nghi một phiên; Lý Đoan, Trần Ninh một phiên. Cứ hai hiệu công, thì hai hiệu nghỉ. Sau hai ngày, quân Tống mệt mỏi rồi, thì ta dùng cả bốn hiệu cùng đánh. Vũ Quang cửa Tây, Hoàng-Nghi cửa Bắc, Lý Đoan cửa Nam, Trần Ninh cửa Đông.
Vương đưa mắt nhìn Phạm Dật:
- Ngay chiều nay, Vũ Quang, Hoàng-Nghi đánh trước.
Giờ Tuất -2ngày 20 tháng giêng,
Phạm Dật sai bắn lên trời mũi Lôi-tiễn chứa hoàng-thạch, mã-não. Mũi Lôi-tiễn lên cao, thì lửa bắt cháy vào hoàng thạch, mã não phát nổ như tiếng sấm rung động không gian thành Ung. Tại bốn phía, bọn Vũ Quang, Hoàng-Nghi, Võ Kim-Liên, Phương-Quỳnh, đã leo lên trúc đài chờ đợi từ lâu. Khi thấy mũi đại Lôi-tiễn nổ, thì biết là lệnh công thành bắt đầu. Cả bốn người đều cầm cờ đỏ phất lên, nỏ binh châm lửa phát pháo. Phút chốc hàng trăm tiếng nổ rung động thành Ung, lửa phụt lên cao, bắn tung ra khằp nơi. Sau hai khắc, thành ngập trong biển lửa. Quân Tống kinh hoàng ôm đầu chạy toán loạn, tiếng ngựa hí, tiếng chó tru, tiếng người gào thét lẫn với tiếng nổ của Lôi-tiễn vọng đi rất xa. Quân trên thành đành núp trong hố, không giám ngóc đầu dậy. Tín-Nghĩa vương đứng trên đài cao nhìn rất rõ biến chuyển trong thành. Vương ra lệnh cho Hà Mai-Việt, Thần-vũ thập anh hành sự.
Cuộc nã Lôi-tiễn diễn ra suốt đêm, cho tới giờ Thìn ngày hôm sau, 22 tháng giêng, thì đổi phiên. Phiên này do Lý Đoan, Trần Ninh, Ngọc-Liên, Ngọc-Hương đảm trách. Cũng cùng lúc ấy Hà Mai-Việt đã cho khơi cạn hết nước bốn con hào quanh thành.
Đến chiều hôm ấy, thì Thần-vũ thập anh đã lấp xong bốn con hào.
Giờ Dậu, ngày 22 tháng Giêng
Trung-Thành vương, Tín-Nghĩa vương đi một vòng quanh thành quan sát trận thế. Đến tối nhị vương truyền mời chư tướng lại họp. Tín-Nghĩa vương hỏi Long-biên ngũ hùng:
- Từ trưa đến giờ các em có nhận thấy gì khác lạ không?
Kim-Loan, Kim-Liên trả lời:
- Em thấy dường như trong thành tê liệt hoàn toàn, không còn sức chống trả nữa.
- Đúng thế. Vậy Tây-hồ thất kiệt chuẩn bị, đúng gờ Dần ngày mai, thì cho quân xếp bao đất làm ụ leo vào.
Đêm đó, đến phiên Lý Đoan, Trần Ninh, Ngọc-Liên, Ngọc-Hương chỉ huy hai hiệu Bổng-nhật, Đằng-hải nã đại nỏ cầm chừng, mục đích làm cho quân Tống ăn ngủ không yên.
Ngày 23 tháng giêng
Đúng ra sang giờ Sửu -2 thì tới phiên Vũ Quang, Hoàng-Nghi, Kim-Liên, Phương-Quỳnh công thành cho đám Lý Đoan, Trần Ninh nghỉ. Nhưng hôm nay là ngày đại tấn công. Bốn cặp Dật, Quang, Đoan, Ninh dàn quân ra bốn mặt Tây, Bắc, Đông, Nam, còn Hoàng-Nghi với bản bộ quân mã thêm đội Thần-tiễn Long-biên chờ đợi ở cửa Nam. Bốn mặt, bốn hiệu quân cùng bắn đại nỏ vào thành. Đây là lần đầu tiên thành Ung phải hứng chịu một cuộc hỏa công kinh hồn động phách như vậy.
Sau một giờ bắn đá, Lôi-tiễn, vừa sang giờ Dần, Tín-Nghĩa vương cho tung lên trời năm chiếc pháo thăng thiên, toả ra năm mầu vàng, trắng, đen, xanh, đỏ. Đó là lệnh cho quân mang bao đất làm ụ. Lập tức Tây-hồ thất kiệt phất cờ hiệu, quân xung vào sát tường, mỗi người lính đều mang một bao đất, mau chóng xếp lại với nhau, phút chốc thành một cái ụ có nhiều bậc cao bằng mặt thành.
Thần-vũ thập anh tung mình leo lên đầu tiên với đội Thần-tiễn Long-biên. Không gặp một chống cự nào. Mười người cho mở cổng thành ra, đội Thần-hổ, Thần-báo gần lên một tiếng rung động trời đất, tỏa ra như rẻ quạt, xung vào trước. Bốn hiệu Thiên-tử binh reo hò tràn như nước vỡ bờ tiến vào chiếm bốn khu. Còn hiệu Quảng-vũ do Hoàng-Nghi Phương-Quỳnh chỉ huy, xông thẳng vào trung-ương. Tất cả không gặp một kháng cự nào.
Trung-Thành vương, Tín-Nghĩa vương đã nhập thành. Một cảnh tượng kinh hoàng phơi bầy ra trước mắt hai vương: Khắp nơi chỉ còn trăm căn nhà bằng ngói là nguyên vẹn. Còn nhà gỗ, nhà tranh, cái thì cháy chỉ còn nền, cái thì trơ lại mấy cái cột. Rải rác trên mặt đất, xác chết chồng chất lên nhau, lẫn lộn trong đống tro, trong bùn lầy. Lại có những cái nằm vắt vẻo trên cây, chân tay co quắp, mặt trợn trừng trừng; mùi hôi thối xông lên nồng nặc.
Đinh Hoàng-Nghi có nhiệm vụ tiến chiếm dinh tổng trấn. Cho nên khi vừa vào trong, chàng cùng Phương-Quỳnh xua quân tiến thẳng vào trung ương. Một đội võ sĩ Tống hơn ba trăm người dàn ra ra chặn lại. Đội võ sĩ này, quần áo rách bươm, đầu tóc tả tơi; được chỉ huy bởi Tô Giàm. Họ chiến đấu rất mạnh liệt. Nhưng họ đương đầu sao nổi với đội Thần-tiễn Long-biên, và hiệu Quảng-vũ? Nên trong khoảnh khắc, chỉ còn lại hơn ba chục người.
Phương-Quỳnh thấy vậy, động lòng bất trắc, ra lệnh cho đội Thấn-tiễn:
- Ngừng tay!
Nàng tiến lên cung tay hành lễ với Tô Giàm:
- Tô tướng quân! Người cứ thong thả lùi vào dinh. Tiểu nữ hứa không làm khó dễ người cùng bảo quyến đâu.
Trung-Thành vương, Tín-Nghĩa vương đã tới. Tín-Nghĩa vương hướng Tô Giàm chắp tay:
- Tô tiên sinh, đầu hàng đi thôi!
Tô Giàm trong dáng mệt mỏi cùng cực, nhưng tinh thần vẫn tỉnh táo, ông chắp tay hướng hai vương:
- Nhị vị vương gia! Tô Giàm này đã trấn ở Nam-thùy trong hơn ba mươi năm nay, nên hiểu rất rõ Đại-Việt. Chính lão phu từng chống đối chính sách của Thẩm Khởi, Lưu Di gây hấn với Đại-Việt. Nhưng... nhưng chỉ vì cương trực, lại chủ thân với Đại-Việt, mà hoạn lộ đầy chông gai, mà phải ở dưới quyền bọn Thẩm, Lưu. Nay cái tai vạ này, do chính chúng gây ra, rồi lão phu phải chịu. Hôm nay lão phu nhất định sẽ chết ở thành Ung này để báo đáp quân phụ.
Trung-Thành chắp tay hành lễ:
- Tô tiên sinh chẳng nên bi phẫn, anh em tiểu-sinh hứa cấp ngựa, xe, lương thảo để tiên sinh với gia quyến rời khỏi đây.
Tô Giàm vái nhị vương:
- Đa tạ nhị vị vương gia, lão phu sống thì trấn thủ thành Ung, nay thành Ung mất, thì nguyện làm ma thành Ung. Vậy lão phu xin nhị vương ban cho một ân huệ.
Tín-Nghĩa vương cảm động:
- Xin tiên sinh cứ nói, anh em tiểu-sinh nguyện chu toàn.
Tô chỉ vào dinh mình:
- Nguyện vọng của lão phu là: Xin nhị vương không cho bất cứ người hay thú nào vào trong dinh của lão phu trong vòng một giờ. Không biết vương có hứa cho không?
Tín-Nghĩa vương gật đầu:
- Tiểu sinh xin hứa.
Vương phất tay cho binh sĩ, cùng các đội thú lùi ra xa.
Tô Giàm cùng đôi võ sĩ tiến vào trong dinh. Khoảng hơn khắc sau, trong dinh bốc cháy, phút chốc ngọn lửa bốc cao. Trong khói lửa chập chờn, người người đều thấy Tô Giàm mặc quần áo đại trào, tay cầm hốt, ngồi nghiêm chỉnh, miệng mỉm cười, cho tới khi dinh thự xụp đổ.
Nhị vương cùng chư tướng hướng vào trong đám lửa cháy, vái ba vái. Khoảng nửa giờ sau, dinh tổng trấn chỉ còn lại một đống than đỏ lừ. Nhưng vì đã hứa trong một giờ không cho quân nhập dinh tổng trấn, nên Tín-Nghĩa vương chỉ biết đứng nhìn. Đợi đúng một giờ sau, nhị vương cho bới than, tìm ra được ba mươi sáu xác chết là vợ, con, cháu của Tô Giàm, với xác của hai mươi mốt dũng sĩ.
Quân Đại-Việt được lệnh rút ra ngoài thành, chỉ để lại hiệu Bổng-nhật của Lý Đoan, Ngọc-Liên thu dọn chiến trường.
Trung-Thành vương cho quân thu nhặt xác chết xếp lại thành từng đống, rồi sai chất củi, đổ dầu thiêu hết. Vương sai khâm liệm thi thể Tô Giàm với gia quyến đem chôn, lại cho lập bia đá trên từng mộ, đề tên từng người. Còn dân, quân còn sống sót thì bắt rời thành, vì sợ độc khí tử thi gây bệnh.
Nguyện-soái Thường-Kiệt, quân sư Tôn Đản đã tới. Nước mắt đầm đìa, công chúa Thiên-Ninh đọc kinh vãng sinh cho oan hồn binh tướng, dân chúng Tống. Thường-Kiệt nói với Trung, Tín nhị vương:
- Ta hẹn cho nhị đệ bẩy ngày để hạ thành Ung, nhưng nhị đệ thành công trong vòng ba ngày. Ta lại hẹn không thể để quân chết quá năm trăm, mà nhị đệ chỉ hy sinh có hơn trăm tù binh. Giỏi. Thôi, ta hủy thành, rồi lui binh.
Ghi chú ,
Về ngày thành Ung thất thủ và ngày lui quân của Đại-Việt, các sách chép không giống nhau.
- Tư-mã Quang, tể-tướng Tống kế nhiệm Vương An-Thạch chép: Thành Ung thất thủ ngày Mậu-Dần, tháng giêng niên hiệu Hy-Ninh thứ 9 -1057. Ngày 23 -78 Đại-Việt rút quân.
- TTTTGTB chép thành Ung thất thủ ngày Canh-Thìn, tháng giêng, niên hiệu Hy-Ninh thứ chín -1056, Đại-Việt rút quân khỏi đất Tống vào tháng 3.
- QTNC, TTCTGCK chép rất chi tiết việc quân Việt vây đánh cầm chừng thành Ung từ 10 tháng chạp năm Ất-Mão -1077. Đến ngày 20 tháng giêng năm Bính-Thìn khởi sự tấn công vào giờ Tuất -2. Thành Ung thất thủ giờ Dần -2 ngày 23 tháng giêng -3.1076. Quân Đại-Việt rút ngày 24 tháng giêng, cho đến ngày 15 tháng ba toàn quân mới ra khỏi đất Tống.
Tôi giải đoán như thế này: Tư-mã-Quang lấy ngày quân Việt thực sự tấn công coi như ngày thất thủ. Ngày quân Việt khởi sự rút tức ngày thành Ung bị tràn ngập, nên mới có sự khác biệt.
TS quyển 446, TTTTGTB chép rằng khi quân Việt vào thành Ung, quá tức giận giết hết quân và dân, xếp đầu thành 580 đống, mỗi đống 100 đầu. Sau này các sử gia Việt-Hoa cứ theo đó chép lại. Có lẽ TS, TTTTGTB căn cứ vào tấm bia, của một Nho sĩ Tống soạn vào niên hiệu Nguyên-phong thứ nhì (1079) đời Tống Thần-tông. Tấm bia này hiện còn lưu trữ ở viện bảo tàng Quảng-Tây. Nội dung đọan này như sau « Quân Giao-chỉ đánh lâu mới vào được thành, khi vào được thì trong thành chỉ còn hơn sáu nghìn quân. Hai bên hỗn chiến nửa ngày, thì quân Tống chết hết. Quân Giao chặt đầu xếp thành 580 đống, mỗi đống 100 đầu. Họ (quân Giao) lại thu nhặt xác chết của gần mười vạn quân Tống chết trước đó, vùi tạm trong thành; đem đốt đi ».
QTNC chép rằng khi quân Việt vào thành Ung, quân trong thành chỉ còn hơn sáu nghìn người. Họ đều chiến đấu đến khi chết hết. Vậy 580 đống, 58.000 người bị giết, chất đống là số người sống sót, sau hơn tháng chiến đấu. Chứ thực sự quân thủ thành khoảng mười vạn.

Niên hiệu Thái-Ninh thứ năm đời vua Nhân-tông nước Đại-Việt
Ngày hai mươi tháng ba, Thái-Ninh hoàng đế, thiết đại triều ở điện Càn-nguyên, để nghe nguyên-soái Lý Thường-Kiệt tâu trình về công cuộc Bắc-phạt.
Các quan tề tựu đông đủ, nhà vua cùng Linh-Nhân hoàng thái hậu từ trong cung đi ra. Lễ quan xướng:
- Hoàng thượng giá lâm.
Nhạc tấu bản Nguyên-thọ. Nhà vua đưa tay ra hiệu miễn lễ. Lễ quan hô:
- Bình thân.
Thái-sư Lý Đạo-Thành bước ra:
- Tâu Thái-hậu, tâu Bệ-hạ. Nguyên-soái Lý Thường-Kiệt cùng chư tướng đem quân Bắc phạt đã về tới Thăng-long. Hôm nay thần xin thiết đại triều, để nguyên soái Thường-Kiệt tâu trình lên bệ hạ.
Linh-Nhân hoàng thái hậu tuyên chỉ:
- Kể từ khi ta khởi binh, hàng ngày triều đình đều nhận được tấu chương của Nguyên-soái cùng Tôn quân-sư gửi về. Nhưng tại sao cái ngày vui hôm nay, bách quan hiện diện đầy đủ, mà Tôn quân sư lại không tới?
Phò-mã Hoàng Kiên tâu:
- Sau khi hạ thành Ung, sư phụ, sư mẫu của thần vào thành, tận mắt nhìn xác chết của hơn mười vạn người. Có người chưa chết hẳn, còn đang quằn quại. Có xác chết còn đang chảy máu. Có xác chết sình thối, chương lên. Cũng có xác chết thịt rữa gần hết. Sư phụ, sư mẫu thần chợt cảm thấy thương tâm; trên đường về Thăng-long, người luôn thở dài. Khi qua Bắc-ngạn, người gặp lại đại sư Mộc-tồn, Viên-Chiếu, Pháp-Nhẫn; ba vị đại sư đem cái lẽ vô-thường của thế gian ra giảng giải. Sư phụ, sư mẫu thần ngộ đạo, đã vào chốn Không-môn. Người có để lại một tờ biểu xin dâng lên Bệ-hạ.
Lễ quan tiếp biểu dâng lên. Linh-Nhân hoàng thái hậu mở ra, thì trong trục giấy, không có biểu, mà chỉ có mấy câu trong kinh Lăng-già, xưa bồ-tát Đại-Huệ tán thán phật Thích-ca mâu-ni:
Thế gian ly sinh diệt,
Do ư hư không hoa.
Trí bất đắc hẫu vô,
Nhi sinh đại bi tâm.

Thếgianlìasinh,diệt,Cả triều thần cùng bàng hoàng.
Thái hậu hỏi:
- Tôn sư thúc là người để hết tâm chí vào cuộc bảo vệ Xã-tắc, không thể một chốc, một lát, mà sư bá, với sư phụ có thể thuyết pháp khiến người bỏ đi được. Cô-phụ này muốn biết chi tiết hơn. Điều này xin Tín-Nghĩa vương thuật lại cho cả triều đình biết.
Tín-Nghĩa vương tuân chỉ đứng dậy. Vương thuật chi tiết từ khi Long-biên ngũ hùng chế ra Lôi-tiễn bắn vào thành Ung, Tôn Đản đang đêm choàng dậy, lên trúc đài quan sát thấy đàn bà, trẻ con trong thành bị bắn cháy như cây đuốc, xác chết xếp thành đống; cái thì đứt đôi, cái thì gẫy cân, cái thờ cháy vàng... ông đã tái mặt, tỏ vẻ không vui. Lại đến khi trận đánh núi Hỏa-giáp diễn ra, ông lên thăm chiến trường, lội dọc núi, chính mắt nhìn bốn vạn xác chết ngổn ngang; lại một lần nữa, mặt ông xạm lại. Sau hai trận đó, ông bà cùng một số tướng không tán thành diệt Ung-châu. Nhưng Ung-châu vẫn bị phá, khi quân Việt vào thành, trong thành hơn mười vạn người, mà chỉ còn mấy trăm người sống sót; một lần nữa ông bà trở thành trầm ngâm khác thường. Rồi trên đường về Thăng-long, ông bà bỏ đi.
Cả triều đình đều im lặng, nhìn nhau để tìm lấy cái gì giải thích rõ ràng hơn về việc ra đi của Tôn Đản, Cẩm-Thi.
Công-chúa Thiên-Ninh tâu:
- Khi đại quân về qua sông Hồng, thì sư thúc, sư thẩm gặp đại sư Mộc-tồn, Viên-Chiếu, Pháp-Nhẫn đang neo thuyền giữa sông. Hai vị sang thuyền của ba đại sư. Năm vị thảo luận suốt một ngày. Hôm sau sư thúc trao trục giấy cho đệ tử. Người nói rằng đó là biểu nhờ Hoàng phò mã dâng lên Thái-hậu.
Triều đình nghị sự, thăng thưởng tướng sĩ có công; lại phủ tuất cho gia đình các tử sĩ.
Trước hết là:
Trung-Thành vương, Lý Hoằng-Chân
Kiểm-hiệu thái-sư, Thượng-thư lệnh kiêm trung-thư lệnh, Thăng-long tiết độ-sứ, Tả kim ngô đại tướng quân, quản Khu-mật viện. Phu-nhân Nguyễn-thị Trinh-Dung được phong Minh-đức Thạc hòa, Chí nhu công chúa.
Tín-Nghĩa vương, Lý Chiêu-Văn
Kiểm-hiệu thiếu-sư, Khai-phủ nghị đồng tam-tư, Võ-minh quân tiết độ sứ, Thượng-thư tả bộc xạ, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, Phụ-quốc đại tướng quân, Khu-mật viện sứ. Vương-phi Lê Ngọc-Nam được phong Ninh-đức, Trang-duệ, Hiếu-khang công chúa.
Phò-mã Thân Cảnh-Long
Kiểm-hiệu tư-đồ, Thượng-thư tả thừa, Khu-mật viện sứ, Phiêu-kị thượng tướng quân, tổng-trấn Bắc-cương, tước Lạng-quận vương.
Phò-mã Hoàng Kiện
Phụ-quốc thái-phó, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, Binh-bộ thượng thư, Kinh-Bắc tiết độ-sứ, Uy-viễn đại học-sĩ, Khu-mật viện sứ, Thuần-nghĩa quốc công.
Lý Thường-Kiệt
Phụ-quốc thái-úy, Dao-thụ Nam-bình tiết độ-sứ, thượng-trụ quốc, Hoài-hóa đại tướng quân, Khai-quốc công, Thiên-tử nghĩa đệ.
Lý Kế-Nguyên
Thái-tử thái phó, Tham-tri chính sự, Thượng-thư tả thừa, Khu-mật viện sứ, lĩnh Đại-đô đốc thủy-sư Đại-Việt, Gia-thụy công.
Các vị thủ lĩnh Bắc-cương
Lư Kỷ, Hoàng Kim-Mãn, Vi Thủ-An trước đây lĩnh ấn đại tướng quân, tước hầu. Nay đều thăng lên Tiết độ sứ, tước Quốc công.
Thần-vũ ngũ-hùng được phong chức Đô-thống, tước Bá. Thần-vũ ngũ Âu được phong nhất phẩm phu nhân.
Vũ-kị thượng tướng quân Hà Mai-Việt được phong tước hầu. Tất cả vẫn giữ nguyên chức cũ, như hồi chưa xuất chinh.
Long-biên ngũ hùng đều được thăng chức thượng tướng quân, tước hầu. Bốn phu nhân sau trận bình Chiêm được phong nhất phẩm phu nhân, nay lại lập đại công, nên phong làm quận chúa. Duy Phương-Quỳnh đã lập công trong lần dẹp loạn họ Dương, nay lại lập công lớn nữa, nên cũng được phong quận chúa.
Phạm Dật được phong chức Long-nhương thượng tướng quân, tước Thiện-tâm hầu. Phu nhân Lê Kim-Loan được phong Thiên-ân Nhu-mẫn quận chúa.
Vũ Quang được phong Hổ-uy thượng tướng quân, tước Thành-tâm hầu. Phu-nhân Võ Kim-Liên được phong Trang-hòa Thiên-đức quận chúa.
Đinh Hoàng-Nghi được phong Quán-quân thượng tướng quân, tước Chính-tâm hầu. Phu nhân Phương-Quỳnh được phong Tuyên-đức Thạc-hòa quận chúa.
Lý Đoan được phong Hoài-hóa thượng tướng quân, tước Trực-tâm hầu. Phu-nhân Trần Ngọc-Liên được phong Thiên-y Đại-từ quận chúa.
Trần Ninh được phong Vân-ma thượng tướng quân, tước Nhu-tâm hầu. Phu nhân Trần Ngọc-Hương được phong Thiên-hương Thuần-mẫn quận chúa.
Xét về công lao, Tây-hồ thất kiệt ngang với Long-biện ngũ hùng, tất cả được thăng tướng, tước hầu. Nhưng các phu nhân mới dự trận Bắc phạt, nên chỉ được phong nhất phẩm phu nhân.
Trần Di được phong Qui-đức đại tướng quân, tước Hư-tâm hầu.
Dương Minh được phong Trung-vũ đại tướng quân, tước Kính-tâm hầu.
Triệu Thu được phong Tuyên-vũ đại tướng quân, tước Tín-tâm hầu.
Mai Cầm được phong Tuyên-uy đại tướng quân, tước Từ-tâm hầu.
Quách Y được phong Minh-uy đại tướng quân, Minh-tâm hầu.
Ngô Ức được phong Định-viễn đại tướng quân, tước Huệ-tâm hầu.
Tạ Duy được phong Ninh-viễn đại tướng quân, tước Dũng-tâm hầu.
Ngoài ra các quan văn võ chiếu công lao đều được thăng thưởng cao thấp khác nhau.


HOMECHAT
1 | 1 | 167
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com