watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
15:48:4326/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50 - Trang 29
Chỉ mục bài viết
Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Trang 37
Trang 38
Trang 39
Trang 40
Trang 41
Tất cả các trang
Trang 29 trong tổng số 41


Chương 45
Đã Đem Xương Máu Đền Non Nước,
Còn Mãi Tinh Thần Với Gió Trăng.

Tại phía Bắc chiến lũy Như-nguyệt,
Những ngày mùng một, mùng hai, mùng ba tháng giêng, mùa Xuân, niên hiệu Anh-vũ Chiêu-thắng thứ nhì đời vua Lý Nhân-tông bên Đại-Việt, bên Trung-nguyên nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ mười đời vua Thần-tông nhà Tống 0.
Trời phía Bắc sông Như-nguyệt thực đẹp. Nắng mới tỏa trên cây có mới nảy mầm trổ hoa, ngàn chim hót líu lo mừng Xuân. Trong cái cảnh Xuân đẹp ấy, quân Tống ngao ngán nghĩ lại cuộc chiến đêm Giao-thừa, đã cướp đi hơn sáu vạn đồng đội. Bây giờ trong khung cảnh hoa Xuân, khung cảnh Tết, họ đứng nhìn từng toán dân phu đông như kiến; hai người một, ba người một đang khiêng xác đồng đội của họ nằm cong queo, mắt trợn trừng, máu rơi thành những vệt dài trên cỏ.
Họ đành uống cho thực say, rồi ngâm bài Đường thi của Vương Hàn:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhận hồi.

Trần Trọng-San dịch như sau:
Rượu bồ đào, chén dạ quang,
Muốn say đàn đã rền vang dục rồi.
Sa trường say ngủ ai cười.
Từ xưa chinh chiến mấy người về đâu?

Quách Quỳ cho quân mặc giáp trụ, chờ quân Việt trở lại. Nhưng suốt ngày mùng một, mùng hai, mùng ba, quân Việt biệt tăm. Tế tác Tống leo lên cao, nhìn sang Nam ngạn sông Cầu, chỉ thấy ụ đất cao như núi, với hàng rào dày đặc, không một bóng người, không một cụm khói.
Tin tế tác ở Thăng-long gửi về liên tiếp, thuật vụ hai thánh tăng Dương Không-Lộ 0, Từ Đạo-Hạnh đúc Nam-thiên tứ đại thần khí. Hai ngài lại làm phép khiến con Kim-ngưu trong núi Thái-sơn chạy về hồ Tây.
Được tin này Quách Quỳ phân vân không ít, nhưng y vẫn phải cố trấn tĩnh, sợ lòng quân loạn. Thế nhưng, không biết ai cung cấp, mà tất cả tướng sĩ Tống đều truyền tụng nhau về Nam-thiên tứ đại thần khí, về con Kim-ngưu bỏ núi Thái-sơn về Thăng-long. Lòng tướng sĩ Tống bắt đầu loạn, người người tụ lại thuật cho nhau nghe những gì mình biết.
Ngày mùng bốn tháng giêng.
Bỗng nhiên vào đêm mùng ba sang ngày mùng bốn, khi trống lệnh vừa điểm ba tiếng, báo hiệu tắt đèn đi ngủ, thì có tiếng từ ngôi đền thờ bên kia sông Như-nguyệt vọng sang rõ ràng, bằng giọng Biện-kinh:
« Chư tướng sĩ Tống nghe đây.
Ta là Đại đương giang đô hộ quốc thần vương Trương Hống và Tiểu đương giang đô hộ quốc thần vương Trương Hát. Ngọc-Hoàng thượng đế sai chúng ta trấn ở sông Như-nguyệt này. Đêm qua, thiên sứ giáng trần, trao cho chúng ta bộ Thiên-thư nghị chế, truyền ta đọc cho chư tướng sĩ nghe ».
Tiếng thần vang đi rất xa, rõ ràng, lọt vào tai binh tướng Tống. Đến đoạn nói về Nam-thùy Tống, tiếng càng rõ, chậm hơn:
« Đây là nguyên văn Thiên-thư nghị chế »
« ...Ta đã sai con thứ làm vua Nam-phương tức Viêm đế. Cương vực Nam, Bắc phân ra mấy nghìn năm có dư. Hóa cho nên người phương Nam biết phận, cung tay quy phục Trung-nguyên, hàng năm tiến cống đầy đủ, không dám xâm phạm cương thổ Trung-nguyên. Chư thiên tử ngồi trấn Hoa-hạ cũng nhân đó mà ban bố ân đức xuống khắp trời Nam. Thế mới đúng là mệnh ta dội xuống, khiến cho cương vực Nam, Bắc phân ra không bị thay đổi. Kẻ nào không tuân mệnh ta, thì ta sẽ sai thiên binh, thiên tướng xuống giết chết không tha ».
Tướng sĩ Tống kinh hoàng vô cùng, thì lại có tiếng thần đọc thơ :
Nam quốc sơn hà, Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên-thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan, thủ bại hư.

0
Quách Quỳ cũng nghe rất rõ, y triệu Nguyễn Dư đến hỏi:
- Ngôi đền ở bên kia sông thờ thần nào vậy?
- Thưa nguyên soái, đền đó tên là Đại đương giang thần từ, thờ hai thần Trương Hát, Trương Hống. Hai thần là anh em, cùng làm tướng cho Lý Nam-đế 0, đánh thắng quân Lương nhiều trận. Sau một tướng trong huyết tộc với vua là Lý Phật-tử đánh bại đế lên làm vua, tức là hậu Lý Nam-đế -31. Hậu Lý Nam-đế gọi hai anh em họ Trương đến trao cho quan tước. Hai ngài không nhận, trả lời: « Tôi trung không làm quan với kẻ đã giết chúa mình », rồi ẩn lánh ở Phù-long. Hậu Lý Nam-đế sai sứ gọi nhiều lần, hai ngài đều không ra. Vua ban chỉ: Ai chém được đầu hai ông, thì thưởng cho ngàn vàng. Hai ngài bèn uống thuốc độc tự tử. Đến đời Ngô, Nam-Tấn vương đi đánh giặc Lý Huy ở Tây-long, đêm chiêm bao thấy hai thần xin theo giúp việc quân và nói rằng: Vì có lòng trung, anh được trời cho làm Thần-hà Long-quân phó thần Vũ-lạng nhị giang, em làm Chi-mạn nguyên tuần giang đô phó sứ. Yên giặc, Nam-Tấn vương phong cho anh làm Đại dương giang đô hộ quốc thần vương, em làm Tiểu dương giang đô hộ quốc thần vương, và sai lập đền thờ.
Ghi chú,
Hai thần Trương Hát, Trương Hống được thờ ở rất nhiều nơi. Cho đến nay, trải hơn nghìn năm lịch sử, nhiều đền bị phá hủy. Hiện (1995) những đền sau đây vẫn còn trơ gan với tuế nguyệt:
1. Đình Bích-động,
Ở làng Bích-động, nay là xã Dỉnh-sơn, huyện Việt-yên, tỉnh Hà-bắc, thờ hai ngài làm thần thành hoàng.
Tài liệu: Bắc-giang tỉnh thần tích.
2. Đình Châu-xuyên,
Ở thôn Châu-xuyên, xã Thọ-chân, tổng Thọ-xương, phủ Lạng-giang, tỉnh Bắc-giang, nay là tỉnh Hà-Bắc, thờ hai ngài làm thần thành hoàng.
Tài liệu: Bắc-giang tỉnh thần tích.
3. Đại Đương-giang thần từ,
Ở phố Như-nguyệt, xã Tam-giang, huyện Yên-phong, tỉnh Hà-Bắc, chính là nơi lập chiến lũy Như-nguyệt, thời Lý. Nay là thị xã Đáp-cầu, Bắc-ninh.
Thoát-hiên Đặng Minh-Khiêm có thơ vịnh như sau:

Sất mã quân vương nhập thủy tần,
Đệ huynh nhẫn tác sự thù nhân.
Nguyệt-giang thanh dạ cao ngâm hậu,
Nam-quốc càn khôn tận tảo trần.
Ngạn-Xuyên dịch như sau:
Ruổi ngựa nhà vua nhảy biển trầm,
Anh em quyết chẳng chịu vong ân.
Nguyệt-giang đêm vắng thơ vừa dứt,
Trời đất Nam-bang sạch bụi trần.
Tài liệu

- Đại-Việt sử ký toàn thư 0,
- Việt điện u linh,
- Thiên Nam vân lục liệt truyện,
- Hoàng Việt nhất thống địa dư chí,
- Trương tồn thần sự tích,
- Đại Việt địa chí.
Hình chụp tượng thờ hai vị Đại-vương Trương Hát, Trương Hống tại thị xã Đáp-cầu, Bắc-ninh.
Hình dưới là cổng đền thờ. Cổng này là cổng chung, phía trong còn thờ bà sinh mẫu của Thánh-Gióng. -2001


4. Tam-giang thần từ,
Tại xã Loa-lâu, huyện Tư-nông, tỉnh Thái-nguyên, nay là tỉnh Bắc-thái.
Tài liệu
- Bắc thành địa dư chí,
- Đại-Nam nhất thống chí.

Quỳ cho Nguyễn Dư về, trầm ngâm không nói gì, mặc cho tướng sĩ bàn tán xôn xao. Tiếng người đọc Thiên-hư tiếp tục cho đến hết canh hai mới dứt.
Trước khi khởi hành Nam chinh, Vương An-Thạch sai bộ Lễ cho in bộ Thiên-thư nghị chế ra hàng vạn bản, truyền phát cho tướng sĩ, để họ biết rằng vua Trung-quốc là con trời, nay Giao-chỉ đem quân phạm cảnh, triều đình mang quân đi chinh tiễu là đúng với Thiên-thư. Cho nên sách này binh tướng Tống đã đọc thuộc làu. Bây giờ nghe thần nhắc, họ mới kinh hoàng:
- Thôi rồi! Hy-Ninh đế nghe lời Vương An-Thạch bắt họ Nam chinh, vượt cương giới Thiên-thư định, thì trước sau gì rồi cũng bại.
Sang ngày thứ tư, các tướng Tống đem quân đi đẵn tre, đẵn nứa, đẵn gỗ, cắt dây đem về bờ sông đóng bè. Theo tế tác loan báo, thì quân Việt ở Nam ngạn được chia thành từng tốt (100 người), trấn xung quanh một ụ phòng thủ; cần đổ bộ mỗi đơn vị năm trăm người một lúc, mới đủ sức đàn áp một tốt. Vì vậy phải đóng loại bè có khả năng chở năm trăm người một lúc.
Đêm đó, chư thần lại đọc Thiên-thư, lại đọc thơ. Lòng binh tướng Tống càng căng thẳng, mà Quách Quỳ cũng không biết giải quyết ra sao.
Tướng Yên Đạt nghiên cứu binh thư cùng kinh nghiệm các đời về phương thức vượt sông. Y đã tìm thấy phương pháp vượt sông Độ-khẩu của Hán-trung vương Đào Kỳ thời Hán là toàn vẹn. Nay y đem ra giảng giải cho chư tướng. Đầu tiên cho thủy quân cùng trăm bè chở năm vạn quân vượt sông, ào ạt leo lên chiến lũy đánh với quân thủ. Dĩ nhiên trận đánh sẽ rất khủng khiếp.0.
Sau khi đổ quân lên, lập tức dùng trăm bè nhanh chóng kết thành ba cái cầu nổi, các cánh quân khác nhất tề vượt cầu nổi tiếp viện cho đạo quân tiên phong; còn thủy quân dàn ra bảo vệ cầu nổi, cùng các đầu cầu.
Chư tướng đem phương pháp này giảng giải rất kỹ cho binh tướng. Trong khi bảo-binh bắt tay vào việc đóng bè. Ngay ngày đầu, quân Tống đã đóng được hơn hai mươi bè. Sang ngày thứ nhì đóng được bốn mươi bè. Ngày thứ ba đóng được bốn mươi bè nữa, như thế là đủ số một trăm như Quách Quỳ muốn.
Chỉ còn chờ thủy quân tới nữa là đổ bộ.
Ngày mùng bẩy tháng giêng.
Nguyên-soái Quách Quỳ được phúc trình rằng bè đã đóng xong, quân sĩ luyện tập cách chèo, chống, tập đổ bộ rất thuần thục. Quỳ mừng lắm, sai họp chư tướng bàn định kế hoạch chi tiết việc vượt sông phá chiến lũy Như-nguyệt.
Ôn Cảo trình bầy tình hình quân Việt:
- Tên Lý Thường-Kiệt quả thực tài không thua Kinh-Nam vương. Y phối trí quân rất cẩn thận. Đầu tiên là chiến lũy cao tới ba trượng, mười lớp rào. Trấn lớp rào là một hiệu Thiên-tử binh của bọn Tây-hồ thất quái, bọn này rất giỏi thủy chiến. Nếu như ta phá được mười lớp rào, đánh tan được hiệu binh trấn ở đây, tiến vào sâu một chút lạo gặp một hiệu Thiên-tử binh khác của bọn Giao-chỉ ngũ-kiêu chặn đường. Ngoài ra, y còn phối trí bốn hiệu binh, cũng do bọn Tây-hồ thất quái chỉ huy, lưu động dọc sông với hạm đội Thần-phù. Nếu như tiền quân ta vượt sông, bọn này sẽ đánh cắt ngang lưng ta.
Khúc Chẩn hỏi:
- Trong ba nút chặn, thì tên Thường-Kiệt phối trí các hiệu ra sao?
- Đối diện với Nham-biền có hai hiệu, thì hiệu Long-dực trấn ở chiến lũy trên bờ sông; hiệu Đằng-hải trấn phía sau. Đối diện với Phú-lương có hai hiệu, thì hiệu Vũ-thắng trấn ở chiến lũy trên bờ sông, hiệu Bổng-nhật trấn phía sau. Đối diện với Như-nguyệt có bốn hiệu. Hai hiệu Bổng-thánh, Bảo-thắng trấn ở chiến lũy trên bờ sông; Ngự-long, Quảng-thánh, Phù-đổng trấn ở dọc đường về Thăng-long. Còn lưu động có ba hiệu Hùnglược, Vạn-tiệp, Thần-điện.
Khi Ôn Cảo nhắc đến tên ba hiệu Thần-điện, Bổng-thánh, Hùng-lược là những hiệu đã đột kích vào doanh trung-ương; trên mặt chư tướng đều đều hiện ra nét cau có, vì hình ảnh những Thiên-tử binh lăn xả vào chém giết như bầy sư tử lại hiện ra trong trí nhớ.
Quách Quỳ trầm tư một lúc, rồi đập tay lên án thư:
- Ta nhất định phải qua sông. Phương thức đánh như sau: Đầu tiên cho quân dùng dao, câu liêm mà cắt mà chặt các lớp rào kiếm chỗ đặt chân, chỗ nào kiên cố quá ta dùng rơm tẩm dầu mà đốt. Các tướng phải đi tiên phong, dùng đội võ sĩ đánh cảm tử, sao cố đục thủng một lỗ thì quân, tướng ào ạt tràn vào trong, đánh tỏa ra hai bên thì quân ngoài rào không bị cản trở nữa; chiến lũy sẽ bị tràn ngập.
Quỳ nhấn mạnh:
- Về việc sang sông, bằng mọi giá, trong đợt đầu, ta đưa chín đạo binh triều tinh nhuệ đánh phá lũy lấy chỗ đặt chân. Trong khi đó ta kết bè thành phù kiều, bấy giờ các đạo khác ào ạt đổ sang sau. Chiến lũy tuy chắc, tuy cao, nhưng ta chấp nhận hy-sinh để lọt vào trong. Lọt vào rồi, thì chỉ cần hai giờ là ta tới Thăng-long.
Quỳ yên lặng một lúc, rồi tiếp:
- Ta vượt sông bằng cả ba mặt trận: Phú-lương, Như-nguyệt, Nham-biền. Nhưng Nham, Phú là hư, chỉ với mục đích cầm chân bốn hiệu Thiên-tử binh tại đây. Còn Như-nguyệt là thực, ta cần đánh tan hiệu Bảo-thắng, Bổng-thánh trấn lũy. Chiếm được lũy rồi khi đại quân ồ ạt sang, thì hai hiệu trấn dọc đường về Thăng-long là Ngự-long, Quảng-thánh nghiền ta nát ra như tương trong chốc lát. Chỉ có hiệu kị binh Phù-đổng là đáng ngại. Tướng tổng chỉ huy chiến lũy Như-nguyệt là ai?
Ôn Cảo đáp:
- Y tên là Nguyễn Căn, tuổi còn trẻ, võ công bình thường, nhưng y là người kinh nghiệm xung phong hãm trận. Y từng tham dự trận đánh Chiêm. Vợ y tên Vũ Thanh-Thảo, bạn thân của Linh-Nhân hoàng thái hậu, học trò Tôn Đản, Cẩm-Thi. Võ công thị rất cao thâm. Cả hai vợ chồng đều thuộc loại gan lỳ, sẵn sàng thí mạng chứ không chịu lui hay đầu hàng đâu.
- Tôi đã có cách trị tên này rồi.
Triệu Tiết kể: Nguyễn Căn có đứa em sinh đôi. Hai anh em giống nhau như đúc. Thằng em tên Nguyễn Dư, bất học, vô thuật, vô sở bất chí lêu lổng. Cách đây mấy năm, khi sang Đại-Việt, vô tình gặp Dư, tôi cho y ít tiền. Y chiêu dụ được hầu hết bọn bất lương, lưu manh ở Thăng-long, dẫn theo hầu tôi. Hiện tôi có mang chúng theo trong quân.
Đào Bật suýt xoa:
- Kế này hay đấy. Lấy em, xưng làm anh...
Triệu Tiết mỉm cười:
- Đúng như Đào huynh nghĩ. Hiện bên trong chiến lũy, chúng chia ra từng đoạn một. Mỗi đoạn một tướng trấn thủ. Chúng phối trí từ trái sang phải như sau: Vợ Nguyễn Căn, Phương-Đơn, Mai Cầm, Phương-Tiên, Quách Y. Nguyễn Căn lưu động đốc thúc. Ta cho Nguyễn Dư mặc y phục như anh y, lại sai đội tế tác du thủ du thực của y mặc y phục giả làm võ sĩ theo hầu. Ta phải cố chọc thủng phòng tuyến, lọt vào trong, rồi cho Nguyễn Dư dùng cờ đốc thúc, lệnh cho quân lùi lại, để quân ta từ ngoài chiến lũy tràn vào. Tất nhiên bọn Mai Cầm, Quách Y không tin, nhưng hàng ngũ quân Giao sẽ cực kỳ rối loạn.
Chư tướng vỗ tay hoan hô.
Ôn Cảo lắc đầu:
- Xin nguyên soái lưu tâm. Hai hiệu trấn ở lũy Như-nguyệt do vợ chồng hai tên Mai Cầm, Quách Y chỉ huy. Hai đứa này võ công thấp nhất, mưu trí nông cạn nhất so với mười đứa kia, nhưng chúng lại là hai tên liều mạng nhất. Chính vì vậy mà tên yêm hoạn Thường-Kiệt mới để chúng trấn ở chỗ nguy hiểm này. Ta chỉ có thể chiếm được chiến lũy khi hai hiệu Bảo-thắng, Bổng-thánh bắn hết tên. Nếu hai hiệu này bắn hết tên, ta cũng phải mất từ mười vạn tới hai mươi vạn người. Chẳng lẽ ta hy sinh nhiều như vậy sao?
Quách Quỳ hiểu Ôn Cản hơn ai hết. Y xua tay:
- Quân số hai hiệu này khoảng hai vạn người phải không? Huynh đừng lo, tôi sẽ đổ mười đạo binh triều, với năm trăm chỉ huy Tân-đằng-hải vào chiến lũy. Tức ta dùng hai mươi lăm người đánh một người. Cho rằng ta hy sinh hai mươi vạn người, đổi lấy hai vạn của chúng, mà chiếm được chiến lũy, hoàng thượng vẫn coi là chiến thắng mà.
Chư tướng rùng mình. Quỳ tiếp:
- Trong trận đánh Hy-hà, Kinh-Nam vương có bốn mươi vạn, mà vương dám hy sinh hai mươi vạn người để phá tan giặc. Nay ta có trăm vạn, sao ta không thể hy sinh hai mươi vạn?
Triệu Tiết thắc mắc:
- Xin nguyên soái cẩn thận, bởi Giao-chỉ còn ba hiệu lưu động do Lý Hoằng-Chân chỉ huy, bất cứ lúc nào cũng có thể nhập cuộc.
Quỳ tự tin:
- Huynh đừng lo, tôi đã dự tính rồi. Hạm đội Thần-phù với ba hiệu này của Hoằng-Chân hiện đang lưu động ở vùng sông Hồng. Tôi cho tế tác theo dõi đường đi nước bước của chúng rất kỹ. Tôi chờ khi chúng ở xa phòng tuyến, thì cho quân vượt sông. Khi ta vượt sông xong rồi, tất y phải kéo về bảo vệ Thăng-long, chứ đâu có thể nhập cuộc?
Khúc Chẩn hỏi:
- Liệu Việt có còn quân khác thủ Thăng-long không?
Triệu Tiết đáp:
- Giao-chỉ có 12 hiệu Thiên-tử binh là đáng kể, còn các hiệu địa phương thì ô hợp, giữ sao nổi Thăng-long? Vả khi ta đem đại quân trăm vạn ào ạt tới Thăng-long, chỉ cần mỗi tên quân của ta vạch quần đái một bãi, thì cái thành kia phải xụp đổ.
Chư tướng bật cười về câu nói đùa của Tiết.
Quân Tống chuẩn bị vũ khí, hành trang, để bất cứ lúc nào có lệnh là xuống bè xung trận. Bảo-binh, dân phu thì cho nhổ lều trại, đợi khi quân triều đánh chiếm được chiến lũy, sẽ theo sau để cắm trại, đào bếp nấu nướng.
Quân chờ hết ngày mùng tám tháng giêng, mà thủy quân vẫn chưa tới. Người người truyền tai nhau rằng chắc ngày chín. Nhưng ngày chín vẫn chưa thấy tin tức gì. Quân tướng bắt đầu uể oải, ngồi tưởng tượng sau trận đánh sẽ được ban thưởng, thăng cấp, mỗi người được gả cho một cô gái Thăng-long đẹp như tiên.
Trong khi đó đêm đêm, thần linh Đại-Việt vẫn đọc Thiên-thư, đọc thơ rót vào tai tướng sĩ Tống.
Rồi ngày mười, mười một, mười hai rồi... mười sáu cũng chưa thấy chu sư tới, đêm chư thần vẫn đọc Thiên-thư, đọc thơ.
Trong khi đó, trong hành doanh, Quách Qùy, Triệu Tiết, Đào Bật còn nóng lòng hơn. Trước đây hơn tháng, chỉ dụ từ Khu-mật viện ở Biện-kinh ban ra, hẹn chắc rằng chu sư do đô đốc Dương Tùng-Tiên, phó đô đốc Hòa Mân sẽ vận tải lương thảo từ Khâm-châu tiếp tế; chậm nhất là ngày mười rằm sẽ tới sông Cầu. Mà bây giờ đã là ngày mười sáu, lương thì sắp cạn, quân thì chờ đợi lâu sinh chán nản, mệt mỏi, mà chẳng thấy thủy quân đâu.
Quách Quỳ triệu tập chư tướng, rồi đưa ra hai phương thức giải quyết: Một là chờ thủy quân rồi mới vượt sông. Hai là vượt sông ngay. Các tướng bàn luận phân vân. Kẻ thì bàn nên sang sông ngay, vì khi đã sang được sông, xuống khu đồng bằng phì nhiêu, thóc gạo dư thừa; trâu bò, gà vịt ăn không bao giờ hết. Ngoài ra còn giải quyết được vấn đề dân phu. Lại có người bàn không nên qua bây giờ, mà phải chờ chu sư tới, họ viện lẽ: Nếu như đổ bộ không thành, quân chết nhiều mà chẳng nên cơm cháo gì. Bấy giờ giặc thừa cơ đuổi theo, thì thực là nguy.
Cuối cùng Quỳ quyết định trung dung:
- Chờ hai ngày nữa, dù chu sư tới hay không cũng đổ bộ.
Ngày mười bẩy trôi qua, lòng Quách Quỳ nóng như lửa đốt, y cho tế tác lên đài cao, nhìn về hướng Đông chờ đợi. Chờ suốt ngày, vẫn chỉ thấy sông rộng, có Xuân xanh rì, hàng đoàn chim đo cánh ngang trời.
Ngày 18 tháng giêng.
Ngày mười tám dài lê thê qua đi... Không chờ được nữa, Quỳ cho họp chư tướng tại hành doanh. Chư tướng đều biết rằng giờ trọng đại nhất đời họ đã tới. Vì tất cả hy vọng của Hy-Ninh đế, tất cả lương tiền đổ ra bấy lâu, tất cả công lao trăm vạn người thành hay bại là lúc này đây.
Nếu qua sông thành công, thì chiếm được Đại-Việt, rồi thuận thế chiếm luôn Chiêm, Chân, Lào, Xiêm, Đại-lý; thế lực Tống sẽ trấn động, Tây-Hạ, Bắc-Liêu không còn dám gây sự nữa. Các tướng kẻ ít công nhất cũng được thăng quan, người có công sẽ được phong hầu, tên ghi thanh sử, ấm mồ mả tổ tiên, vinh dự ở triều đình. Còn như bại, thì cuộc viễn chinh này hóa ra một tuồng ảo mộng, triều đình sẽ chém đầu đem bêu cho dân chúng xem, gia đình họ hàng nhục nhã không biết đâu mà kể. Còn giang sơn Đại-Tống, phải chịu nhục nhã với man di đã đành, mà e còn khó giữ nổi.
Quách Quỳ ban lệnh:
- Sáng mai, giờ Thìn bắt đầu qua sông.
Các tướng ngồi im phăng phắc. Quỳ gọi bốn tướng Yên Đạt, Khúc Chẩn, Tu Kỷ, Đào Bật:
- Tôi nhắc lại, quân ở Phú-lương của Yên, Khúc tướng quân; quân ở Nham-biền của Tu, Đào tướng quân; chỉ đánh cầm chừng, mục đích giữ chân giặc không cứu ứng Như-nguyệt mà thôi. Sau khi cánh Như-nguyệt đổ bộ thành công, ắt bọn Hoàng Kiện, Lý Chiêu-Văn sẽ bỏ phòng tuyến rút về cứu Thăng-long. Bấy giờ bằng mọi giá các vị phải vượt sông đuổi theo chúng đánh tiêu diệt, không để chúng về an toàn.
Bốn tướng nhận lệnh.
Tại Như-nguyệt, ta đổ bộ bằng ba cánh. Giữa, tả, hữu.
Quỳ gọi Miêu Lý, Vương Tiến:
- Hai vị đổ bộ cánh giữa, làm nỗ lực chính. Miêu tướng quân đem ba đạo binh đệ tứ, ngũ, lục dùng bè qua sông; Vương tướng quân dùng một chỉ huy Tân-đằng-hải (nhắc lại môt chỉ huy có 500 quân) chèo bè, kết bè thành phù kiều. Sau đó cho đổ bộ chín chỉ huy Tân-đằng-hải khác vượt phù kiều tiếp viện cho Miêu tướng quân. Bằng mọi giá, hai tướng quân phải phá bằng được bức tường phòng thủ. Khi lọt được vào trong, thì tiến thẳng về Thăng-long.
Hai tướng nhận lệnh.
Quỳ gọi Diêu Tự, Bình Viễn:
- Hai vị đổ bộ cánh tả. Diêu tướng quân đem ba đạo binh đệ thất, bát, cửu đổ bộ cánh tả, làm nỗ lực phụ, dùng bè qua sông; Bình tướng quân dùng một chỉ huy tân-đằng-hải, chèo bè, kết bè làm phù kiều. Sau đó đổ bộ mười bốn chỉ huy tân-đằng-hải tiếp viện cho Diêu tướng quân. Bất cứ giá nào hai tướng quân cũng phải chọc thủng chiến lũy Như-nguyệt, rồi tiến sau đạo trung ương của Miêu, Vương tướng quân.
Hai tướng nhận lệnh.
Quỳ gọi Đặng Trung, Lưu Mân:
- Hai vị đổ bộ cánh hữu. Đặng tướng quân đem theo ba đạo binh đệ thập, thập nhất, thập nhị, làm nỗ lực phụ thứ nhì dùng bè qua sông; Lưu tướng quân dùng một chỉ huy Tân-đằng-hải chèo bè, kết bè làm phù kiều. Sau đó đổ bộ mười chín tân-đằng-hải tiếp viện cho Diêu tướng quân. Dù khó khăn, dù phải hy sinh tính mệnh binh sĩ, hai tướng quân cũng phải phá bằng được chiến lũy , rồi tiến sau cánh của Diêu, Bình tướng quân.
Quỳ nói với Triệu Tiết, Ôn Cảo:
- Khi quân bắt đầu xuống bè, các vị cho nhổ trại, để sang sông thực mau. Nội chiều mai, chúng ta phải tới Thăng-long.
Cuối cùng Quỳ gọi hai tướng kị binh là Trương Thế-Cự, Vương Mẫn:
- Bên kia sông là đồng bằng, kị binh sẽ có chỗ đắc dụng. Ngay khi các đạo quân bắt đầu qua sông, hai tướng cho kị binh tiến tới gần phù kiều. Đợi khi chiến lũy phá rồi, Trương tướng quân đem một đạo kị binh phá vòng đai phòng thủ thứ nhì phục trên đường Như-nguyệt đi Thăng-long. Còn Vương tướng quân đem hai đạo ẩn ở chân núi Nham-biền phòng bọn Trung-Thành vương đánh hậu cứ ta.
Quỳ nói với chư tướng:
- Từ xưa đến giờ, võ học Giao-chỉ lúc nào cũng thịnh hơn chúng ta. Ngược lại dân ta đông hơn. Cho nên trong bất cứ trận đánh lớn nhỏ, ta cũng dùng cái ưu điểm nhiều người, đem quân số đông đảo tràn ngập đối phương. Ngược lại bọn Giao-chỉ lại dùng những cao thủ bậc nhất tung ra chiến trường để giết tướng của ta. Thế nhưng trong cuộc hành quân xâm phạm Thiên-quốc, cũng như cuộc chiến một mất, một còn này, tên hoạn quan Thường-Kiệt lại bỏ quên cái ưu điểm của mình. Y chỉ biết tận dụng mấy đội quân tinh nhuệ mà thôi. Giả như trận đánh Ngọc-sơn, nếu y dùng mấy cao thủ hạng nhất trấn thủ, thì dễ gì ta thành công?
Chư tướng đều gật đầu công nhận lý luận của Quách Quỳ. Quỳ tiếp:
- Xét trong quân của y hiện thời, mười hai tướng chỉ huy Thiên-tử binh đều là những tên nhóc con, võ công bình thường, xuất thân lưu manh, chỉ biết liều chết. Về kị binh, Vũ-kị thượng tướng quân Hà Mai-Việt võ công càng tầm thường hơn nữa. Nực cười nhất là thủy quân, y dùng tên Nho sinh mặt trắng trói gà không chặt Lý Kế-Nguyên làm Đại Đô-đốc, còn bốn đô đốc, tuy võ công cũng cao, nhưng chưa phải là hạng nhất. Cao thủ hạng nhất chỉ có Thân Cảnh-Long, Thiên-Thành, Trần Thanh-Nguyên, nhưng hiện cả ba đang phiêu bạt trong rừng, coi như vô dụng. Đối diện với chúng ta, chỉ có mình y là đáng kể, thì y phải trấn Thăng-long. Quanh đi, quẩn lại y chỉ còn Thần-vũ thập anh, Kim-cương thập bát hùng. Nhưng hai mươi tám tên này chưa phải là loại thượng thừa. So sánh về võ công, bất cứ tướng nào của ta cũng có thể đàn áp tướng của chúng. Vậy khi đối trận, hoặc chư tướng đích thân, hoặc dùng cao thủ giết tướng của chúng. Khi tướng bị giết, thì quân loạn, ta thắng dễ dàng.
Ôn Cảo hỏi:
- Thưa nguyên soái, xét về cao thủ thượng thừa, ở đây chúng tôi thấy ngoài nguyên soái ra còn có Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt, Khúc Chẩn, Miêu Lý, Diêu Tự, Trương Thế Cự; còn lại thì hạng nhất khoảng mươi người. Tất cả các cao thủ thượng thừa, hạng nhất đều là tướng cầm quân, lúc xung trận phải điều quân, thì sao có thể rảnh tay đàn áp tướng giặc?
Quách Qùy cười đắc chí:
- Chính vì lẽ đó, khi quân lên đường, hoàng thượng còn lưu tôi lại họp ở Thiên-chương các với các chưởng môn phái Thiếu-lâm, Hoa-sơn, Trường-bạch, Liêu-Đông, bàn về việc đem cao thủ theo trong quân. Thế nhưng, từ hôm vượt biên sang đến giờ, tôi không cho họ xuất hiện; hơn nữa để cho Thần-vũ thập anh tung hoành, hầu đánh lừa tên Thường-Kiệt.
Thấy Khúc Chẩn nhăn mặt tỏ ý không phục, Quách Quỳ xua tay:
- Huynh không bằng lòng phải không? Nếu như chúng ta tung cao thủ ra lúc đầu, giết tướng Giao-chỉ như giết chó, giết mèo, thì thỏa được tự ái. Nhưng giữa tự ái với đại cuộc, thì ta phải chọn đại cuộc. Huynh biết không, trong buổi hội ở Thiên-chương các, Tể-tướng Vương An-Tạch đưa ra lý luận này: Các cao thủ siêu hạng của Giao-chỉ hiện phải kể Côi-sơn tam anh Phụ-Quốc, Bảo-Dân, Trung-Đạo; Bình Dương, Thiệu Thái, Lê Văn, Mộc-tồn, Viên-Chiếu, Minh-Không, Đạo Hạnh, Bảo-Hòa, và vợ Lý Long-Bồ là Thamh-Mai. Nhưng bọn này hiện hạc nội mây ngàn, mà tên hoạn quan Thường Kiệt quên tận dụng. Vậy khi đem quân sang, ta mang thực nhiều cao thủ thượng thừa, nhưng ém đi làm như không có; rồi thình lình tung vào trận chiến nào quyết định mất còn, khiến chúng trở tay không kịp.
Tu Kỷ hỏi:
- Thưa nguyên soái, hiện trong quân ta có bao nhiêu cao thủ thượng thừa?
- Thứ nhất là phái Thiếu-lâm. Trước đây Lê Văn đã sát hại thái sư phụ của ta là chưởng môn Minh-Đức đại sư. Cái hận đó toàn thể đệ tử không bao giờ quên. Trong trận này, đích thân thủ tọa Đạt-ma đường Pháp-Tuệ dẫn mười cao thủ chữ Pháp đi theo, trong đó có một vị đã để trọn đời ra nghiên cứu cách phá võ công Sài-sơn để giết tên Lê Văn.
Yên Đạt hỏi:
- Có một điều tôi lấy làm lạ là đại sư Pháp-Nhẫn, thủ tọa La-hán đường, trước đây đã cùng với vua Anh-tông sang Đại-Việt quan sát tình hình. Không hiểu sao nay người lại chống đối cuộc viễn chinh này, rồi lại theo Giao-chỉ?
Quách Quỳ xua tay:
- Đô tổng quản lầm rồi. Đại sư Pháp-Nhẫn đã ngộ đạo, người không muốn cho bất cứ chúng sinh nào đau khổ, chứ đừng nói người Hoa, người Việt giết nhau. Trong cuộc Nam du với vua Anh-tông, duyên may người gặp Kinh-Nam vương, rồi kết huynh đệ. Trong cuộc xâm lăng của Giao-chỉ, chính người đã xuất hiện, chịu một chưởng của Mộc-tồn hòa thượng suýt mất mạng, để cứu tướng của ta. Trong trận Ung-châu, người xin tên Lý Thường-Kiệt tha cho dân trong thành, rồi nhập thành khuyên Tô Giàm để dân rời xa trận địa. Người cũng như Kinh-Nam vương, không muốn có chiến tranh Hoa-Việt mà thôi. Chứ người không phản đâu. Tướng quân đừng nói bậy, e Ưng-sơn song hiệp nghe thấy thì e mất chỗ đội nón.
Nghe nói đến Ưng-sơn song hiệp, chư tướng đều cảm thấy ớn lạnh. Bất giác họ quay lại sau, nhìn phải, nhìn trái, tưởng tưởng như người của song hiệp đang rình mò đâu đây.
Quỳ tiếp:
- Thứ nhì là phái Hoa-sơn. Trước đây trong Hoa-sơn ngũ lão, Thất-kiệt thì bốn lão với toàn thể thất kiệt bị chết về tay võ lâm Giao-chỉ. Duy Đông-Sơn lão nhân ẩn thân, nghiên cứu cách phá Long-biên kiếm pháp, nên sống sót. Hơn hai chục năm nay, toàn phái để tang, ngày đêm luyện tập để chờ ngày trả thù. Phái này cử bốn trưởng lão kiếm pháp cao thâm không biết đâu mà lường theo trong quân. Bốn vị này đã họ được phép phá Long-biên kiếm pháp, như vậy ta không sợ võ công Mê-linh nữa.
Chư tướng vỗ tay hoan hô.
- Phái Trường-bạch sở trường về Ngũ-độc, lại nhân trước đây trao đổi võ công với bọn Đinh Kiếm-Thương, Lê Phúc-Huynh, Vũ Chương-Hào mà học được Nhật-hồ độc chưởng. Phái Liêu-Đông sở trường về Huyền-âm độc tố. Từ lâu rồi, đệ tử hai phái này này bị triều đình truy lùng, các đệ tử phải lẩn trốn khổ sở. Nay triều đình ban mật chỉ ân xá cho họ, vì vậy Trường-bạch song hùng, Liêu-Đông tam kiệt võ công cao siêu không biết đâu mà lường; tất cả đều theo trong quân.
Quỳ nhìn Triệu Tiết ra vẻ đắc ý:
- Ngoài ra, trước đây bất cứ võ lâm dù hắc đạo, bạch đạo, khi phạm tội, mà trốn ra Tây-thùy xin tòng quân diệt giặc, đều được Kinh-Nam vương ân xá. Họ được đặt dưới quyền của Vũ-kị đại tướng quân Trương Thế-Cự. Đám này ước hơn nghìn người, nay cũng được đem theo.
Y nắm tay đấm lên bàn:
- Trận Như-nguyệt, Phú-lương, Vạn-Xuân này cũng chưa phải là trận quyết định, vì vậy tôi vẫn ém họ trong quân. Bằng như nay tôi đưa họ ra trận, tên Thường-Kiệt biết ngay, y sẽ tung chim ưng đi mời các cao thủ thượng thừa Giao-chỉ tới thì thực là nguy vô cùng.
Quỳ nói với Triệu Tiết:
- Tại Như-nguyệt, huynh thống lĩnh các đội võ sĩ hắc đạo được ân xá, tung vào trận. Dĩ nhiên chúng sẽ bị giết rất nhiều. Nhưng đó là điều hoàng thượng mong: Mượn tay giặc giết dùm bọn du thủ du thực, còn hơn ta giết chúng. Huynh nhớ, lúc phù kiều bắc xong, huynh dẫn chúng tràn qua, dùng võ công gạt tên, cố sao lọt vào trong chiến lũy, rồi đánh tỏa ra hai bên, mở đường cho thiết đột theo. Đợi thiết đột vào rồi, huynh mới dùng tên Ngyễn Dư để làm rối loạn hàng ngũ giặc.
Cuộc họp vừa bế mạc, thì đội trưởng tế tác vào báo:
- Thưa nguyên soái, thân quyến tử sĩ đang ùn ùn vượt Chi-lăng đến chỗ nghĩa địa đòi đào mồ lên tìm xác con em họ. Binh canh không cho, họ đánh luôn binh canh. Hiện họ đang đào xới.
Quỳ hoảng hốt:
- Họ đi có đông không?
- Thưa đông lắm lắm, ít nhất là hai ba chục vạn.
Quách Quỳ hỏi Triệu Tiết:
- Làm sao bây giờ?
- Khó lắm.
Triệu Tiết trả lời: Luật của bản triều đặt ra từ thời vua Thái-tông là khi chiến sĩ tử trận, thì bằng mọi giá phải đem xác về nguyên quán trao cho người thân. Các quan địa phương chiếu luật lệ mà phủ tuất. Nay nguyên soái tạm chôn ở đây, đã là điều vi chỉ rồi. Không biết bằng cach nào đó, mà gia đình tử sĩ biết, nay họ sang đây tìm xác người thân, thì ta phải giúp đỡ họ.
- Nhưng, tử sĩ chết cho đến nay đã mười tám ngày, tử thi chương, thịt bắt đầu rữa, mà đào lên thì hôi thối không thể chịu được. Bệnh dịch từ đó sinh ra, e quân sĩ chết hết.
Ôn Cảo thở dài:
- Cũng đành vậy chứ biết làm sao bây giờ?
Triệu Tiết thêm vào:
- Bọn Giao-chỉ rút đi, đã tận thu hết lương thực. Lương thực cho quân ta còn đang thiếu thốn, mà nay với mấy chục vạn người đổ xuống vùng này thì lấy đâu ra lương cho họ ăn?
Lát sau, quân lại báo:
- Tại vùng Phú-lương, gia đình tử sĩ cũng biết đi theo đường thượng đạo tới đào mả để tìm xác con em. Tướng Khúc Chẩn cũng đành nhắm mắt để họ muốn làm gì thì làm.
Miêu Lý cau mày:
- Tôi nghĩ vụ này nhất định có bàn tay của tế tác Giao-chỉ, chứ sao thân nhân tử sĩ ở những nơi cách nhau hàng vạn dặm, mà cũng ồ ạt tới một lúc!!!
Tại chiến lũy Như-nguyệt, Đại-Việt.
Ngày 19 tháng giêng, mùa Xuân, niên hiệu Anh-vũ Chiêu-thắng thứ nhì đời vua Lý Nhân-tông bên Đại-Việt, bên Trung-nguyên nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ mười đời vua Thần-tông nhà Tống 0.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 177
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com