watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
15:43:3826/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50 - Trang 3
Chỉ mục bài viết
Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Trang 37
Trang 38
Trang 39
Trang 40
Trang 41
Tất cả các trang
Trang 3 trong tổng số 41



Chương 32a
Vãn Tuế Hồi Hương

Niên hiệu Thái-Ninh thứ nhì (1073), mùa Xuân, tháng Giêng, vua bà Bắc-biên Thiên-Thành, phò mã Thân Cảnh-Long từ Lạng-châu về Thăng-long xin thiết Tinh-triều để tường trình về tình hình Tống.
Thái-sư Lý Đạo-Thành cho triệu tập thân-vương, đại-tư-mã, lục bộ thượng thư, quản Khu-mật viện, đô-đốc thủy-quân, tổng-trấn Thăng-long, tổng quản ngự-lâm quân, tổng-quản thị-vệ, các tướng chỉ huy mười hai hiệu Thiên-tử binh, đạo kị-binh Phù-đổng. Vì cuộc thiết triều có liên hệ tới tình hình an-ninh nên Long-thành ẩn-sĩ cùng phu nhân được mời tham dự.
Linh-Nhân hoàng thái-hậu, Thái-Ninh hoàng đế từ trong điện Càn-nguyên đi ra. Nhạc tấu bản Long-thọ. Nhạc dứt, thái-sư Lý Đạo-Thành cung tay:
- Tâu Thái-hậu, tâu Bệ-hạ. Vì bên Tống thay đổi rất nhiều, nhất là những thay đổi đó có liên quan đến Đại-Việt, nên thần cho thiết Tinh-triều để nghe vua bà Bắc-biên tâu trình tình hình an-ninh biên giới Tống-Việt.
Thái-Ninh đế tuy mới tám tuổi, nhưng đã quen với lễ nghi. Nhà vua tuyên chỉ:
- Xin Thái-sư an tọa.
Nhà vua dùng ngôn ngữ bình dân với vua bà Bắc-biên:
- Chị Thiên-Thành. Hồi Phụ-hoàng tại thế đã trao quyền trấn ngự biên cương cho chị. Bấy lâu nay biên cương vô sự. Nay hẳn có điều gì khẩn cấp lắm, mới khiến đại giá chị hồi triều.
Công-chúa Thiên-Thành tâu:
- Cách đây bốn năm, khi Đại-Việt chuẩn bị bình Chiêm, triều đình có ban chỉ dụ cho Bắc-biên phải làm ba điều. Một là hết sức hòa hoãn, nhường nhịn với Tống, để được yên mặt Bắc. Hai là lực lượng Bắc-biên phải ứng trực, phòng Tống thừa cơ đánh úp. Ba là gửi tế-tác theo dõi mọi hoạt động của Tống. Vì quốc kế bị gian tế báo cho Chiêm, nên mới có vụ quân Chiêm đóng đồn Tà-lầm chặn đường Trung-Thành vương. Cũng gian tế báo cho Tống, nên trong suốt thời gian ấy Tống hết sức lấn át ta ở biên cương.
Công chúa đem ra một cái giá treo tấm bản đồ Hoa-Nam lớn hơn cái chiếu, trên đó ghi chằng chịt những chỗ đóng quân, đường di chuyển quân, kho chứ lương thảo của Tống.
Linh-Nhân hoàng thái hậu ngắt lời công chúa:
- Để triều đình hiểu rõ mọi việc ở Bắc-cương. Xin Công-chúa tường trình tỷ mỉ những gì Tống đã làm ở Nam-thùy trong mấy năm qua.
- Vào thời Thuận-Thiên, giữa Khai-Quốc vương với Yên-vương; rồi Kinh-Nam vương với vua Nhân-tông kết nghĩa huynh đệ. Hai cuộc kết thân này đưa đến Tống rút hết binh sĩ ở Nam-thùy (1027). Ngược lại các nước Nam-thùy cũng rút quân khỏi biên giới Tống. Tống phong cho phò-mã Trần Tự-Mai tước Ngô-quốc quận vương, cùng công chúa Huệ-Nhu tổng trấn Nam thùy. Minh ước trải qua hai mươi sáu năm tốt đẹp. Dân chúng tộc Hoa, tộc Việt sống trong thanh bình, sung sướng chưa từng có. Sau Kinh-Nam vương với công chúa Huệ-Nhu rời Nam-thùy Tống lên trấn phương Bắc, Yên-vương hoăng. Bọn hiếu-chiến trong triều xui vua Tống Nhân-tông chuẩn bị đánh Đại-Việt. Bọn biên thần Nam-thùy Tống nhân đó lấn chiếm mấy trang động của ta. Chúng lại gây ra vụ án giết cha con Nùng Tồn-Phúc, Nùng Trí-Thông để chia rẽ tộc Nùng với Đại-Việt. Trong triều chúng dùng Dương Đức-Thành làm gian tế. Trước tình trạng chẳng đặng thì đừng, Khai-Quốc vương cùng tám vùng tộc Việt giúp Nùng Trí-Cao chiếm Lưỡng-Quảng, lập ra nước Đại-Nam (1053).
Biết rằng ông em mới tám tuổi khó theo kịp những gì mình tâu, công chúa ngừng lại một lát rồi tiếp:
- Sau khi Nùng Trí-Cao thất bại, Tống ra sức củng cố Nam thùy. Họ đem trọng binh xuống đóng ở biên giới Đại-Việt, Đại-lý, Lão-qua, Xiêm-la, cùng cử những văn thần, võ tướng lỗi lạc trấn nhậm. Trong đó có bọn Lý Sư-Trung, Tiêu Cố, Tiêu Chú. Bọn này nay lấn động này, mai đe dọa chiếm động khác. Đức Thánh-tông nổi giận, truyền quan Thái-bảo Lý Thường-Kiệt đem mười hiệu Thiên-tử binh lên cùng cô mẫu đánh tràn sang chiếm lại hết các động bị lấn vào niên hiệu Chương-thánh Gia-khánh thứ nhất (1059). Tưởng như vậy bọn quan Nam-thùy Tống ghê sợ, không ngờ chúng lại tiếp tục đánh chiếm ba động nữa. Cô mẫu 0 đem đại lực lượng đánh chiếm châu Tây-bình, giết Đô-giám tuần-kiểm Tống Sĩ-Nghiêu và các tướng Lý Đức-Dụng, Tả Minh, Hà Nhuận, Trần Bật, bắt sống Chỉ-huy-sứ Dương Lữ-Tài. Tống xin nghị hòa, cô mẫu đòi ba điều kiện mới chịu rút quân -5.
Công chúa chỉ vào tấm bản đồ Hoa-Nam treo trên cái giá lớn:
- Từ đấy, biên giới Tống, Việt trải qua một thời gian mười năm yên ổn. Cho đến niên hiệu Thiên-huống Báu-tượng nguyên niên (1068), Vương An-Thạch dâng Tân-pháp, được Hy-Ninh đế trọng dụng, mà trở thành Tể-tướng. Dù bị chống đối bởi hậu cung, bởi ngoại-thích, bởi đồng liêu, nhưng sau ba năm, Tân-pháp đem lại cho dân Tống ấm no, quốc-sản, quốc-dụng dồi dào. Đến đây, Thạch muốn tuyệt nguồn chống đối. Mà muốn tuyệt nguồn chống đối, thì chỉ có cách gỡ được cái nhục cho triều Tống.
... Nguyên kể từ khi Tống triều lập lên đến giờ, tuy văn-học, tư-tưởng, nông-nghiệp thịnh; tuy có đôi chút chiến công thắng một số nước xung quanh. Nhưng phía Tây bị Tây-hạ, Thổ-phồn đem quân xâm lấn, làm nghiêng ngửa bao phen. Sau phải nhờ đến tài Phò-mã Trần Tự-Mai mới yên được. Phía Bắc bị Bắc-liêu đem quân chiếm mất một phần ba lãnh thổ; nhục nhã hơn nữa Liêu còn bắt tiến cống hàng năm một số vàng, lụa, lương thực rất lớn. Phía Nam bị vua Lê đánh tan đạo quân xâm lăng ở Chi-lăng, Bạch-đằng. Tiếp đến bị Đại-Việt giúp Nùng Trí-Cao, bị vua bà Bình-Dương vượt biên đánh lên. Vì ba cái nhục đó, mà võ-lâm diễu Tống triều bằng câu tục ngữ :
« Bắc vi tước, Tây vi lộc, Nam vi quy ».
Nghĩa là Bắc thì hèn như chim sẻ gặp đại bàng. Tây thì yếu như nai gặp cọp. Nam thì sợ quá như con rùa rút vào mai. Trong lịch sử, Trung-nguyên chưa bao giờ có một triều đại hèn như vậy.
Đến đây công chúa đưa mắt nhìn các thân-vương, đại-thần một lượt. Hy-Ninh đế vẫy tay ra hiệu cho cung nữ chầu hầu:
- Người mang chén sâm thang này dâng Công-chúa cho trẫm.
Vua bà Thiên-Thành cảm động về thịnh ý của ông em, tuy còn nhỏ tuổi, mà đã tỏ ra biết trọng công lao của biên thần.
- Đa tạ bệ hạ.
Công-chúa bưng bát sâm thang lên uống. Nhà vua nói với quần thần:
- Nếu trẫm là Hy-Ninh đế, khi lên ngôi, bằng mọi giá trẫm quyết gỡ cái nhục cho tổ tiên, cho đất nước. Chắc vì vậy, Hy-Ninh mới trọng dụng Vương An-Thạch, ra lệnh cách chức, đầy hết chư đại thần chống đối Tân-pháp.
Nghe nhà vua nói câu đó, triều-thần cùng giật mình nghĩ như nhau:
- Ông vua con này tiếp thụ cái tự hào về tộc Việt anh-hùng của Linh-Nhân hoàng thái hậu, lại thụ hưởng cái huy-hoàng đời vua Thái-tổ, Thái-tông, Thánh-tông... thì e trong tương lai nhất định người sẽ không lùi trước Tống, trước Chiêm; dù chỉ nửa bước.
Vua bà tiếp:
- Từ khi bản triều lập lên, Đại-Việt chưa từng bị nhục, mà bệ hạ còn nghĩ như vậy; huống hồ Hy-Ninh đã từng thấy ông, cha bị khinh khi, bị quốc dân đàm tiếu!
Nhà vua quay lại nói với công-chúa Thiên-Ninh bằng ngôn từ bình dân:
- Chị Thiên-Ninh ơi! Hôm trước chị có đọc cho em nghe bài thơ của Vương An-Thạch tả cái nhục bị Hạ, Liêu bắt tiến-cống. Em không chú ý nên chẳng thuộc. Vậy chị hãy đọc cho triều đình cùng nghe đi.
Trong ba bà chị Thiên-Thành, Động-Thiên, Thiên-Ninh, nhà vua sủng ái nhất Thiên-Ninh. Vì khi nhà vua sinh ra, thì hai bà chị Thiên-Thành, Động-Thiên đã hạ-giá 0. Còn công chúa Thiên-Ninh thì vẫn ở trong cung. Công chúa luôn bế bồng, dạy dỗ nhà vua. Vì vậy thâm tình chị em không bờ bến.
Nghe nhà vua hỏi, công-chúa Thiên-Ninh đứng dậy:
- Tâu bệ hạ, bài thơ đó tên là Hà-Bắc dân , tả nỗi thống khổ của dân phía Bắc sông Hoàng-hà phải nộp thuế cho nhà vua để cống Liêu, Hạ. Nguyên văn bài thơ như sau:
Ghi chú,
Trung-quốc có hai con sông lớn. Một là Trường-giang, hai là Hoàng-hà. Hoàng-hà ở phía Bắc, Trường-giang ở phiá Nam. Trường-giang phân chia lãnh thổ cổ của tộc Hán và tộc Việt. Hán ở phía Bắc, Việt ở phía Nam. Ngày nay con sông này phân chia Trung-quốc làm hai, gọi là Giang-bắc, Giang-nam hay còn gọi là Hoa-bắc, Hoa-nam. Sông Hoàng-hà ở phía Bắc. Các tỉnh ở phía Bắc sông Hoàng-hà gọi là Hà-bắc, Nam thì gọi là Hà-nam. Thời Tống, vùng Hà-bắc bị Liêu chiếm.

Hà-bắc dân
Sinh cận nhị biên trường khổ tân,
Gia gia dưỡng tử học canh chức,
Thâu dữ quan gia sự di địch.
Kim niên đại hạn thiên lý xích,
Châu huyện nhưng thôi cấp hà dịch.
Lão tiểu tương y lai tự Nam,
Nam nhân phong niên tự vô thực.
Bi sầu thiên địa bạch nhật hôn,
Lộ bàng quá giả vô nhan sắc.
Nhữ sinh bất cập Trinh-quán trung,
Đẩu túc sổ tiền vô binh nhung.

Dịch:
Dân Hà-Bắc
Sống gần hai biên luôn đắng cay,
Nhà nhà nuôi con học dệt cày.
Để đóng cho quan thờ Di-địch.
Năm nay hạn đỏ ngàn dặm đồng,
Châu huyện còn dục đi phòng sông.
Già trẻ dìu nhau xuống Nam lánh,
Người Nam được mùa vẫn rỗng lòng.
Ngày tối, trời buồn, đất xót xa,
Bên đường nhợt nhạt mặt người qua.
Người sinh chẳng gặp thời Trinh-quán,
Thóc gạo rẻ mạt, không binh qua.

0.
Linh-Nhân hoàng-thái hậu lắc đầu:
- Cứ xét ý bài thơ này, thì đủ biết tại sao Hy-Ninh với Vương An-Thạch, chúa tôi hợp ý nhau.
- Thái-hậu minh kiến.
Công-chúa Thiên-Thành tiếp: Như trên thần đã tâu, chúa tôi Hy-Ninh muốn gỡ cái nhục hèn nhát thì chỉ có hai đường. Một là quay lên Bắc khai chiến với Liêu. Thắng Liêu rồi, thì phương Tây hai nước Hạ, Thổ phải cúi đầu. Phương Nam, tộc Việt cũng không dám chống. Hai là, chịu nhịn phương Bắc, hòa phương Nam, quay về Tây chiếm Hạ, Thổ; hoặc hòa phương Tây, hướng xuống Nam chiếm các nước tộc Việt. Sau khi hoặc thắng phương Tây, hoặc thắng phương Nam thành công; bấy giờ họ mới có tài nguyên, lương thực, quân số quay lên phương Bắc. Cho nên hơn tháng trước đây, Hy-Ninh họp các đại thần ở tòa Thượng-thư lệnh, Trung-thư lệnh, Khu-mật viện, các đại thần trấn Tây, Nam, Bắc để lấy quyết định. Tất cả chư tướng Tây, Nam, Bắc thùy đều muốn hòa phương Nam, phương Tây, quyết chiến ở phương Bắc. Trong khi các quan tại triều thì lại muốn nhịn phương Bắc, đánh Nam hoặc Tây trước. Hy-Ninh phân vân, hẹn bốn tháng nữa sẽ họp lại và ban chỉ dụ nên đánh phương nào trước.
Công-chúa ngừng lại một lát rồi tâu tiếp:
- Chính vì lẽ đó, thần xin thiết Tinh-triều để đưa ra kế sách ứng phó với tình hình.
Cả triều đình cùng bàn tán phân vân: Đại-Việt phải làm gì, để cho Tống quay lên Bắc, hay hướng về Tây, mà không chỉ xuống Nam!
Sau khi luận bàn, hơn nửa buổi, Linh-Nhân hoàng thái hậu ban chỉ:
- Đại-Việt ta phải làm cho Tống quay lên Bắc là hơn. Khi Tống-Liêu đại chiến nghiêng ngửa, thì Đại-Việt, Tây-hạ đem quân vượt biên đánh sang. Trường hợp đó, Tống sẽ chia quân chống Tây-hạ, Đại-Việt, không thể thắng Liêu. Thế là bao nhiêu tội trạng thất bại của Hy-Ninh, phe thủ cựu trong triều Tống đổ lên đầu Vương An-Thạch. Bấy giờ dù muốn, dù không; Hy-Ninh đế phải cách chức Vương An-Thạch để yên lòng người. Thạch bị mất chức, thì Tân-pháp cũng tan theo. Tân-pháp tan, thì Tống lại trở về với chính sách thủ cựu, ca tụng Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, không gây chiến nữa.
Một đại thần mình hạc, xương mai, tóc bạc như cước, nhưng mặt đẹp vô cùng bước ra tâu:
- Thần Thái-tử thiếu-phó, lĩnh Hình-bộ tham tri, Khu-mật viện phó sứ, La-sơn hầu Trần Thanh-Hợp kính tâu: xét tình thế Tống, Liêu, Hạ hiện nay, ta nên áp dụng theo chuyện « Thầy kiện ăn hai mâm ».
Linh-Nhân hoàng thái hậu hỏi sẽ công chúa Thiên-Ninh:
- Ninh ơi! Đại thần này xuất thân từ đâu vậy?
- Tâu, ông ấy nguyên gốc người La-sơn, đất Nghệ-tĩnh. Xuất thân là một văn gia. Khi ra Thăng-long học, kết hôn với người vợ làng Thanh-trì, là làng nổi tiếng về bánh cuốn. Hơn bốn mươi năm trước, ông cùng với Mai Cảo, Nguyễn Sĩ-Tính, Thanh Tâm-Toàn, Trần Lam-Lan, Mai Thượng-Tĩnh v.v. lập thành một văn-đoàn lấy tên là Minh-đạo, rất được dân chúng, nhân-sĩ quý mến. Mới đây, ông lại cùng mười một người nữa lập ra nhóm Thanh-luận.
- Giỏi đấy. Cô nhớ ra rồi. Hồi ở ngoài đời, ông ta làm gì?
- Ba mươi năm trước, ông ấy là một thầy kiện có tiếng nói năng hùng hồn. Năm trước đây, đức Thánh-tông nghe tiếng, mời ông ấy làm Hình-bộ thị lang, sau cuộc nổi loạn của Dương gia, vì có công được tân thăng lên làm Hình-bộ tham-tri.
Linh-Nhân nghe Thiên-Ninh tâu, hậu mừng lắm, hỏi:
- Trần tiên sinh, xin tiên sinh giảng cho triều đình biết chuyện « Thầy kiện ăn hai mâm » ra sao?
- Tâu thái-hậu, chuyện này như sau.
« Quách ông ở đầu sông Mã, đi chơi thuyền, bị trượt chân rơi xuống sông chết đuối. Có dân chài họ Lương ở cuối sông vớt được. Họ Quách xin chuộc xác cha, họ Lương đòi năm lượng vàng. Thấy giá quá đắt, họ Quách tìm thầy kiện thưa lên quan. Thầy kiện cười rằng : « Việc gì mà phải kiện, không lẽ nó đem xác chết về làm mắm à? Vài ngày sau ắt nó sẽ lạy mà xin trả ». Thấy họ Quách không xin chuộc xác cha, họ Lương tìm đến thầy kiện, nhờ thầy điều đình để cho đối phương chuộc xác chết dùm. Thầy kiện cười : « Việc gì mà cuống lên! Cứ đòi thực đắt, xác cha nó, không lẽ nó không chuộc? ». Họ Lương lại im lặng, không chịu trả xác Quách ông. Hai ngày sau họ Quách không thấy họ Lương trả xác cha, lại đến thầy kiện hỏi kế. Thầy kiện lại nói như trước... Và cứ thế, thầy ăn mỗi bên đến bốn lần tiền, rồi bấy giờ mới dàn hòa cho hai bên cùng thỏa thuận.
Triều đình nghe lão Trần kể chuyện, đều bật cười.
Tín-Nghĩa vương rời chỗ ngồi cung tay:
- Tâu thái-hậu, tâu bệ-hạ. Kế của Trần tiên sinh rất hay. Đại-Việt ta đóng vai thầy kiện, còn một bên là Liêu, Hạ, một bên là Tống đóng vai họ Quách, họ Lương.
Thái-sư Lý Đạo-Thành hỏi:
- Khải vương gia, từ xưa đến giờ giữa ta với Liêu, Hạ không có qua lại với nhau, nay thình lình ta gửi sứ tới, e họ nghi ngờ chăng?
- Thưa thái-sư. Chúng ta có Động-đình thất kiệt, vốn đã qua lại, rất thân với võ-lâm Tây-hạ. Tuyết-sơn thập anh là người phương Bắc, có rất nhiều đệ tử, bạn hữu trong triều Liêu. Vậy ta nên nhờ các vị này dùng tình bạn, thuyết cho Liêu, Hạ biết rằng: hiện nhờ Tân-pháp, mà Tống trở thành giầu mạnh, như hổ ngồi Trung-nguyên; con hổ dữ này đang rình lân bang; chờ dịp ăn thịt. Ta lại khích họ biết rằng, binh-pháp nói:
« Tiên phát chế nhân, hậu phát chế ư nhân ».
Nghĩa là : trong binh pháp, nếu mình ra tay trước thì mình kiềm chế được đối phương, còn mình ra tay sau thì mình bị đối phương kiềm chế. Bây giờ giữa lúc Tống chưa khởi sự, thì Tây-Hạ, Bắc-Liêu phải đánh Tống trước.
- Liêu, Hạ là những nước trọng Nho học. E rằng xui họ như vậy thì có lý đấy, nhưng các Nho thần sẽ đặt vấn đề rằng ra quân không chính nghĩa. Thần e khó mà thành công.
Nghe Lý Đạo-Thành nói, Tín-Nghĩa vương biết ông già này cũng là một thứ hủ Nho như bọn văn thần nhà Tống. Vương cười:
- Thái-sư nói: Muốn ra binh, thì phải kiếm cớ để có chính nghĩa. Đúng không? Cớ này đối với Liêu, Hạ cũng dễ thôi: Hai nước Liêu, Hạ nên sai sứ yêu sách đòi cắt thêm đất, nộp thêm vàng lụa thực nhiều. Dĩ nhiên Tống đang mạnh, Hy-Ninh, An-Thạch đang muốn gỡ cái nhục của ông cha, thì đời nào hai người này chịu?
Phò-mã Hoàng Kiện hỏi:
- Lỡ ra Hy-Ninh, An-Thạch chịu nhịn cái nhục nhường đất, chịu cống thêm vàng ngọc cho Liêu, Hạ, để rảnh tay đánh xuống Nam thì sao?
Tín-Nghĩa vương suy nghĩ một lúc, rồi tiếp:
- Thưa phò-mã, ta là thầy kiện ăn hai mâm mà. Xúi Hạ, Liêu ta mới ăn một mâm. Bây giờ ta lại xúi Tống không chịu nộp đất, nộp vàng, ngọc; để ta ăn mâm thứ nhì. Hiện ta có nhiều tế-tác bên tống. Ta lại có Côi-sơn tam-anh, từng làm đại thần Tống, quen biết hầu hết với nhân sĩ, võ lâm. Ta nhờ Tam-anh hối lộ cho bọn tham quan Tống, luận bàn nhất định không chịu yêu sách của Liêu, Hạ. Nhận tức là nhục thể diện Thiên triều... Như vậy là hai bên sẽ có chiến tranh. Khi hai bên có chiến tranh, thì sự việc sẽ diễn ra như Thái-hậu ban chỉ lúc nãy.
Linh-Nhân hoàng thái hậu tuyên chỉ:
- Kế của hoàng-thúc với Trần tiên sinh thực thần diệu. Đây là cuộc đấu trí, biện thuyết, chứ không thể dùng võ công. Trong ba đoàn đi, mỗi đoàn cần có người biện thuyết, mưu cơ. Vậy thì thế này: Tuyết-sơn thập anh tuy võ công cao cường thực, nhưng các vị ấy lại không nắm vững tình hình Việt, không giỏi biện thuyết. Trần tiên sinh nên đi cùng để làm quân sư cho họ. Côi-sơn tam anh, trí dũng tuyệt vời, kiến thức bao la thì không cần cố vấn. Còn Động-đình thất kiệt đã có Từ Bá-Tường từng là tiến-sĩ xuất thân, mưu trí tuyệt vời, thì không cần cố vấn.
Hậu tuyên chỉ cho thái-sư Lý Đạo-Thành:
- Thái-sư xuất công-khố; trao vàng, ngọc cho ba phái đoàn. Ta không nên tiếc của trong trường hợp này. Thà rằng ta mất của, mà tránh được chiến tranh, còn hơn sau này có chiến tranh. Khi có chiến tranh, thì không những của mất gấp bội, mà đất nước điêu linh, người chết như rạ.
Cuộc chuẩn bị cho ba đoàn mật sứ lên đường phải mất hai tuần mới xong. Khu-mật viện Bắc-biên, Khu-mật viện Đại-Việt thuyết trình cho các sứ giả biết rõ những chức quan trong ba triều đình Tống, Liêu, Hạ: Về xuất-thân, về tính-tình, về gia-cảnh rất chi tiết. Cả ba phái đoàn đều được cấp điệp là lái buôn tơ lụa. Mỗi phái đoàn còn đem theo một ưng binh với hai cặp Thần-ưng để thông tin. Cuối cùng Linh-Nhân hoàng thái hậu đãi tiệc ba phái đoàn tại điện Long-hoa. Trong tiệc, ngoài nhà vua ra, còn có Tín-Nghĩa vương tổng trấn Nam thùy, Trung-Thành vương quản Khu-mật viện, Đại-tư-mã Thường-Kiệt, Thái-úy phò-mã Hoàng Kiện, công-chúa Thiên-Ninh, Long-thành ẩn-sĩ Tôn-Đản và phu nhân, các đô-thống chỉ huy mười hai hiệu Thiên-tử binh.
Tiệc vừa tàn, Linh-Nhân hoàng thái hậu ghé miệng vào tai Thái-Ninh hoàng đế thì thầm nhỏ mấy câu. Hoàng-đế đứng dậy nói:
- Trẫm trẻ người non dạ, mà phải gánh vác trọng trách, lắm lúc nghĩ lại thấy kinh sợ. Nhưng dù sao cũng có các khanh phò tá. Mong rằng liệt tổ Đại-Việt phù hộ cho các khanh. Trẫm cũng...
Bỗng ầm một tiếng, cửa sổ phiá Nam bật tung ra, khiến gió lạnh lùa tới như cơn lốc, rồi một vật trắng bay vào trong sảnh đường. Vật đó rơi trước Trung-Thành vương và Đại-tư-mã Lý-thường-Kiệt. Hai người cùng phát một chưởng gạt vật đó. Nhưng cả hai đều gạt hụt, vì vật đó đổi chiều rồi rơi nhẹ nhàng trên bàn tiệc của Thái-sư Lý Đạo-Thành với quan Hình-bộ thượng thư Hoàng Khắc-Dụng. Mọi người nhìn lại, thì ra một cái túi vải lớn.
Quan Tổng-lĩnh, phó tổng-lĩnh thị-vệ Hùng Trí, Hùng Tín cùng tung mình ra cửa sổ quan sát, thì thấy ba thị vệ canh phòng phía Nam cung Long-hoa đứng như trời trồng. Rõ ràng họ bị điểm huyệt. Hùng Tín giải huyệt cho chúng, rồi hỏi:
- Cái gì vậy?
Một thị-vệ run run đáp:
- Tiểu nhân đang đứng, bỗng bị người ta vuốt vào cổ một cái rồi không cử động được. Nhưng tiểu hân cũng nhận ra đó là một nhà sư, mặt lạnh như người chết. Xin đại nhân thứ tội.
Hùng Trí, Hùng Tín vội trở vào sảnh đường, rồi mở cái túi ra. Bất giác mọi người đều bật lên tiếng ồ kinh ngạc. Nguyên trong cái chứa hai người bị trói tròn như khúc giò. Lối trói rất đặc biệt: Lưng hai người quay vào nhau. Tay phải, chân phải người nọ, buộc vào tay trái, chân trái người kia. Trong hai người, một người là Đô-thống Trần Thanh-Nhiên, một người là Phạm Anh, Kinh-lược An-vũ sứ Kinh-Bắc. Miệng mỗi người đều ngậm một cái đùi chó thui lóc hết thịt chỉ còn xương. Triều thần đều bật lên tiếng kêu:
- Mộc-tồn Vọng-thê hòa thượng.
Thần-vũ ngũ-hùng cùng đến trước nhà vua tạ tội vì đề phòng không cẩn mật, để Mộc-tồn hòa thượng hí-lộng quỷ thần. Linh-Nhân hoàng thái hậu bật cười:
- Ngũ vị sư-huynh an tâm. Mộc-tồn bồ-tát chẳng là tôn-sư của ngũ vị đấy ư? Ngài cũng là sư bá của cô-phụ này... Hừ! Khi ngài đã ra tay thì có trời mà đề phòng. Này ngũ vị sư huynh, tỷ như ngài công khai mang cái túi này vào đây, liệu ngũ-vị sư huynh có dám cản trở không? Ngay cô-phụ này tuy là thái-hậu, nhưng cũng chẳng cản nổi đấy.
Trung-Thành vương biết rằng: Phạm Anh là con rể của Dương Đạo-Gia. trong dịp binh biến vừa rồi, y không ra mặt tham dự, nên sau đó triều thần luận tội, y được tha. Bây giờ chắc y phạm tội gì nặng lắm, nên Mộc-Tồn hòa thượng mới ném vào đây. Vương nghĩ: Ta nhân dịp này, xin triều đình xử thực nhẹ y, để ngài giết quách y đi cho rồi.
Thấy Đinh Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh đứng chầu hầu phía sau Linh-Nhân hoàng thái hậu, vương đưa mắt cho chúng:
- Các em đem hai người ra ngoài thẩm vấn, rồi vào tâu với hoàng-thượng.
Nhưng khi Phương-Quỳnh vừa lật Thanh-Nhiên lên, thì thấy trước ngực y có một cái ống tre khá lớn. Nàng mở ống ra, thì bên trong có đến hai ba cái trục giấy. Nàng khom mình trao cho Trung-Thành vương. Vương mở trục thứ nhất ra, đó là một bản văn kiềm ấn của Thượng-Dương hoàng-thái hậu. Nội dung bản văn, kể rất chi tiết kế hoạch đối phó với Tống, mà triều đình mới nghị hôm trước. Bản văn thứ nhì là một tờ cung khai của bà Minh-Giang, mẹ Linh-Nhân hoàng thái hậu. Bản thứ ba là tờ giấy từ Minh-Can của ông Lê Văn-Thiết. Ngoài ra còn mấy tờ giấy nữa, đa số là thư tín của Thượng-Dương thái hậu gửi cho Trần Thanh-Nhiên, và biểu của Nhiên tâu lên bà.
Nguyên trước đây, sau cuộc Nam chinh Trần Thanh-Nhiên bị cách chức đô-thống, đáng lẽ bị xử tử. Nhưng nhờ dịp ân-xá, nên cái chức đô-thống được phục hồi, y được đưa về Khu-mật viện phụ trách việc theo dõi những mầm mống phản loạn trong giới bút mặc văn-chương. Không hiểu y đã làm gì, để Mộc-Tồn hòa thượng bắt được, đem vào đây. Mọi người đều chú mục chờ Trung-Thành vương đọc những trục giấy. Mỗi nét mặt của vương, đều khiến họ thắc mắc, lo âu không ít. Khi thì vương chau mày, khi thì vương mở to mắt, khi thì vương lắc đầu. Đọc xong, vương bảo Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh:
- Các em trình lên Thái-hậu.
Phương-Quỳnh tiếp tập giấy cúi đầu trình lên thái-hậu. Hậu phán:
- Hai em đọc lên để triều đình cùng nghe.
Đại cương các bản cung từ có thể tóm lược như sau:
« ... Sau khi dẹp được cuộc phản loạn của họ Dương việc cướp ngôi vua, triều thần nghị: Dương Đạo-Gia phạm bẩy mươi hai tội, trong đó có sáu tội thuộc thập ác. Thượng-Dương thái hậu phạm năm tội trong thập ác và bốn mươi lăm tội khác. Quần thần lấy sự việc trong Bắc sử ra để làm căn cứ cho việc xử tội. Đầu tiên là vụ Lã hậu chuyên quyền, giết tôn thất, mưu cướp ngôi của triều Tây-Hán. Thứ đến vụ Vũ hậu chuyên quyền cướp ngôi nhà Đường. Bản án họ Dương được đưa ra là, tru di tam tộc. Như vậy Dương thái hậu cũng bị tử hình. Nhưng nhờ di chiếu của Quốc-phụ, nên Dương hậu thoát chết. Nhà vua ân giảm án cho Dương gia không bị tru di tam tộc, mà chỉ bị giết cả nhà. Mà cả nhà Dương Đạo-Gia đã bị Mộc-tồn hòa thượng giết chết một số, một số khác khi công-chúa Kim-Thành xua quân chiếm cung Thượng-Dương giết nữa. Chỉ có một người con duy nhất của Dương Đạo-Gia trốn sang Trung-nguyên thoát chết. Thành ra không có ai bị hành hình.
... Dương thái hậu cho rằng triều đình không dám động đến bà, bà quyết « trả thù » bằng đủ mọi cách để diệt triều Lý, nhất là giết Linh-Nhân hoàng-thái hậu. Hậu dùng thân mẫu của Linh-Nhân là Minh-Giang, em của Linh-Nhân là Minh-Can, nô bộc là mụ Sửu để liên lạc với một số quan lại bất mãn, để thu thập tin tức, rồi báo cho triều Tống biết. Trần Thanh-Nhiên là một trong bọn quan đó.
... Sau cuộc triều nghị mấy tuần trước bàn về quốc-kế đối phó với Tống, Liêu, Hạ thì thái-sư Lý Đạo-Thành đến cung Thượng-Dương tâu với Dương thái hậu. Dương thái hậu sai bà Minh-Giang với Minh-Can cùng mụ Sửu chuyển cho bọn dư đảng của trường Trung-nghĩa đem qua biên giới. Nhưng tất cả sự việc đó, đều bị Mộc-tồn hoà thượng biết được.
... Trong khi bà Thiết 0 với Minh-Can luận bàn với Dương hậu, vô tình họ để lộ ra một tin tầy trời về thời thơ ấu của Linh-Nhân hoàng thái hậu như sau: Hồi mới lớn, ông Lê Văn-Thiết được bố mẹ cưới cho một người vợ tên là Vũ-thị Tỉnh. Bà Tỉnh rất ôn nhu văn nhã, nhưng là người ở quê. Sau hơn hai năm bà không có con. Song thân ông hỏi một cô gái khác cho ông, cô này tên Minh-Giang. Minh-Giang vốn là gái kẻ chợ, rất khôn ngoan, nên được lòng cha mẹ chồng. Cả nhà hy vọng Minh-Giang sẽ sinh con trai cho có người nối dõi tông đường. Trớ trêu thay, khi cưới Minh-Giang được hơn ba tháng sau, bà Tỉnh mang thai. Minh-Giang kinh hoảng, cũng vội tuyên bố rằng mình mang thai. Giữa lúc đó song thân ông Thiết qua đời. Đến khi bà Tỉnh sắp đến ngày sinh; Minh-Giang đem tiền bạc đút lót với Trung-nghĩa đại tướng quân Trịnh Quang-Thạch, để xin tìm kế giúp đỡ. Thạch thiết kế: Y sẽ gọi ông Thiết tới dinh, sai ông lên Bắc-cương biếu quà cho Ngũ-long công chúa. Như vậy cuộc hành trình sẽ phải hơn tháng. Ở nhà bà Tỉnh sinh con rồi, y sẽ sai người bóp cổ bà cho chết, rồi đem chôn ở khu đồng hoang. Còn đứa con, thì trao cho Minh-Giang nuôi, dối rằng con đó do thị sinh ra. Đối với bà mụ đỡ đẻ, y đe dọa, mua chuộc. Y cho bà ít tiền, bắt bà phải khai rằng bà đỡ đẻ cho Minh-Giang, sinh ra đứa con. Cũng chính bà đỡ đẻ cho bà vợ cả của ông Thiết, bà này sinh ra đứa con hoang không giống ông một tý nào cả, vì vậy bà ta ôm con trốn đi mất.
... Kế ấy thi hành thực hoàn hảo. Khi ông Thiết trở về nghe chính Trịnh Quang-Thạch kể rằng vợ ông trốn đi, thì hỏi sao ông không tin? Đứa trẻ bất hạnh sinh ra đó là Minh-Đệ. Hóa cho nên suốt cuộc đời bà Minh-Giang thù ghét nàng tận xương. Sau khi Minh-Giang đẻ giả, hai năm sau bà đẻ thực, đứa con gái đầu lòng đó là Minh-Can.
... Khi biết được tin động trời này, Mộc-tồn hòa thượng sai đệ tử về làng Siêu-loại báo cho ông Thiết biết. Ông vội theo dấu chỉ dẫn ra chỗ đồng hoang chôn bà Vũ-thị Tỉnh đào lên, thì quả có bộ xương đàn bà. Nhờ quần áo mặc trên người chưa nát hết, ông nhận ra đó là hài cốt của bà vợ khốn nạn. Vụ án bí ẩn ba mươi năm qua, bây giờ mới ra ánh sáng. Ông Thiết dùng gỗ trầm, cải tảng thi hài cho người xấu số, làm chay giải oan, rồi xây mộ thực lớn ».
Tiếng Phương-Quỳnh trong, ngọt như cam thảo, nhưng mỗi giòng, mỗi đoạn nàng đọc, cùng khiến cho triều đình kinh hồn lạc phách. Nghe Phương-Quỳnh đọc hết bản cung từ do Mộc-tồn hoà thượng thẩm vấn Dương hậu, bà Minh-Giang, Minh-Can, mà chân tay Linh-Nhân hoàng thái-hậu phát run. Nghĩ đến mẹ mình chết oan uổng, ấm ức bao nhiêu năm qua; nghĩ đến Minh-Giang, Minh-Can tàn ác với mình rồi đi đến phản quốc; bất giác hậu nghiến răng kèn kẹt, nước mắt tràn ra trên hai gò má.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 171
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com