Như vậy đã đủ biết bản sự của gã Chàm, An-Thạch hô: - Ngừng tay! Hai người bái tổ, rồi lùi lại. Gã áo đen chắp tay hướng Đô Kinh: - Đa tạ nhân huynh đã nới tay. An-Thạch truyền lệnh cho tên bộ khoái phủ thừa Khai-phong: - Ba cặp nam nữ này vô tội. Ta muốn lưu họ để làm một việc mật. Thôi người về đi. Viên bộ khoái đi rồi, An-Thạch bảo ba cặp nam nữ: - Trong cung từ các người mang tên Chàm khó nhớ quá. Vậy từ nay ta cho các người mang họ Vương của ta, và đặt cho các người tên là Phúc, Lộc, Thọ. Các người hãy bỏ nghề mãi võ, ta tuyển làm vệ sĩ riêng. Còn vợ, ta cũng tuyển làm nữ tỳ. An-Thạch gọi viên gia tướng lại bên cạnh dặn dò một lúc. Viên gia tướng dẫn ba cặp Phúc, Lộc, Thọ rời khỏi Đông-các. Nhà vua đã giá lâm, có Lý Hiến theo hầu. Vừa trông thấy An-Thạch, ông đã hỏi: - Sao, hôm qua nhà khanh bị ma quỷ phá suốt đêm phải không? An-Thạch kinh ngạc, mở to mắt nhìn nhà vua, trong lòng tự hỏi: Việc mới đây, mà sao nhà vua đã biết. Lý Hiến cười: - Vương đại nhân đừng kinh ngạc. Việc khủng khiếp như vậy xẩy ra làm sao mà dấu được? Sáng nay khắp kinh thành đều biết cả rồi. Lý Hiến là đại tôn sư võ học đương thời, hôm qua khi nghe tai mắt của y trong phu tể tướng thuật việc ma quỷ đại náo phủ Thạch. Y biết Thạch bị một võ lâm cao thủ nào đó tấu khúc tiêu ma quái, rồi dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai y, khiến mình y nghe thấy mà thôi. Sau lại chính cao thủ đó sai người gào khóc làm ma, làm quỷ, rồi lại dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai vợ, con, gia thuộc nhà Thạch để dọa. Mặc dù biết rất rõ, mà thay vì y giải thích cho Thạch, y lại hù dọa thêm cho bõ ghét. Nhà vua hỏi: - Nay trong nhà khanh bị ma quỷ quấy phá, liệu khanh có đi Lĩnh-ngoại được không? - Tâu bệ hạ, vì việc nước, thì dù nhà có tan, cửa có nát thần cũng nhất định ra đi. Sau buổi làm việc hôm đó, An-Thạch trở về nhà. Quản gia cho biết, từ sáng đến giờ không thấy ma khóc, quỷ gào nữa. Tình hình hoàn toàn yên tĩnh, vô sự. Thạch gọi chính thê, sáu thiếp, con trai với quản gia vào đại sảnh, rồi nghiêm mặt nói: - Vì cuộc Nam chinh đang hồi khẩn yếu, hoàng thượng ban chỉ ta mật nhập cung, để đêm ngày nghị sự với hoàng thượng. Vậy ta chỉ mang theo có mình Đô Kinh mà thôi. Để đánh lừa tai mắt tế tác giặc, các người phao rằng ta bị bệnh đậu mùa, phải kiêng gió, nghỉ ở trong phòng Hương-Lan, không dự triều chính được. Ta không tiếp ai. Nhớ đấy, ai lộ ra sẽ bị tội chặt đầu. Đêm đó, An-Thạch gọi Đô Kinh, ba vợ chồng Phúc, Lộc, Thọ vào thư phòng rồi dặn: - Chuyến Nam du này hoàn toàn bí mật. Từ đây xuống Ngũ-lĩnh ta cải trang làm phú thương, các người làm tùy tùng. Khi đi vào địa phận Quế-châu, thì sẽ gặp binh tướng đi Nam. Nếu ta vẫn cải làm phú thương, thì họ không cho đi. Vậy từ Quế-châu trở xuống ta sẽ cải trang làm một viên thị lang lĩnh chức kinh-lược khâm sứ; còn các ngươi thì giả làm thị vệ. Dọc đường, nếu cần lên tiếng chỉ Phúc, Lộc, Thọ được nói, còn ba người đàn bà không được lên tiếng, vì sợ lộ hình tích. Đô Kinh chuẩn bị y phục thị vệ cho ba cặp vợ chồng Phúc, Lộc, Thọ. Còn Hương-Lan thì chuẩn bị trang phục cho An-Thạch. Hôm sau, vào lúc trời bình minh, thì An-Thạch lên xe âm thầm ra đi. Xe đó do Đô Kinh đánh, phía sau có ba cặp nam nữ kị mã theo hộ tống. Khi xe An-Thạch đến Quế-châu, thì các đạo quân mang từ Bắc, Tây thùy xuống đã lên đường hết. Hành doanh của Quách Quỳ cũng di xuống Ung-châu một ngày rồi. Hôm ấy đoàn người ngựa của An-Thạch qua đêm ở một khách điếm lớn. An-Thạch gọi ba vợ chồng Phúc, Lộc, Thọ dặn: - Đường từ đây xuống Nam, đầy quan binh. Nếu chúng ta tiếp tục giả làm phú thương, thì họ không cho đi. Ta tiên đoán thế, nên đã chuẩn bị sẵn thẻ bài, lệnh tiễn chứng nhận ta là kinh lược sứ của triều đình sai xuống hành doanh Nam chinh. Vậy ba người đàn bà phải giả trai. Tất cả sáu người hãy lấy y phục thị vệ mặc vào, sáng mai ta lên đường. Sáng hôm sau, ba vợ chồng Phúc, Lộc, Thọ trong lớp y phục thị vệ cỡi ngựa đi trước. Phía sau là xe của An-Thạch, trên có lá cờ với mấy chữ : « Kinh lược sứ Nam thùy ». Nhờ vậy mà xe vượt qua không biết bao nhiêu đoàn quân đang trên đường xuống Nam. Dọc đường, An-Thạch thấy dân chúng, bảo binh đánh xe, chèo thuyền chuyên chở lương thảo rầm rộ hướng Nam. Vì mệt mỏi, vì phải khuân vác, chúng vừa đi, vừa bới móc tổ tiên mười đời nhà Vương An-Thạch mà chửi. An-Thạch cắn răng, không dám hé môi nói một lời. Trưa hôm đó, Vương Phúc ghé ngựa lại bên rèm xe Thạch trình: - Thưa quốc-công chỉ còn hơn hai mươi dặm nữa tới Côn-lôn phố. Xin quốc công cho biết ta qua đêm tại đây, hay vượt Đại-giáp, Ngọc-tuyền, Hỏa-giáp xuống Ung-châu ngay? - Nếu xuống Ung-châu có kịp không? - Có lẽ không kịp. Nếu xe đi nhanh, thì tới thung lũng Ngọc-tuyền vào lúc nhá nhem tối. - Được, ta muốn nghỉ ở Ngọc-tuyền. Xe lại phóng như bay, giờ Mùi -2 thì tới Côn-lôn. Tại Côn-lôn quan quân đóng chật ních, đường đi rất khó khăn. Khi ra khỏi thành, một trận gió Nam thổi tới mang theo mùi hôi thối cực kỳ khó chịu tạt vào mặt đoàn người ngựa An-Thạch. Liếc mắt nhìn xa xa, Thạch thấy: Trên một giải đồng mênh mông dài vô tận, có không biết bao nhiêu người mà kể. Họ là ông già, bà cả. Họ là thiếu phụ trẻ. Họ là trai tráng. Họ là trẻ thơ. Tất cả đều chít khăn trắng. Cứ hai người một, họ khiêng cái bọc dài lủng lẳng, vừa đi vừa kêu gào thảm thiết. Lại có những người đang dùng móng, cuốc, xẻng đào bới. Tất cả đều khóc như di. Các đoàn binh đang trẩy về Nam cũng ngừng lại giúp dân đào đào, xới xới. An-Thạch mở màn, nhô đầu ra khỏi xe, hỏi một viên tướng trong y phục cấp đô thống: - Này đô thống. Cái gì đã xẩy ra vậy? Viên đô-thống liếc nhìn lá cờ của An-Thạch, y lễ phép trả lời: - Thưa đại quan, hồi tết Nguyên-đán vừa qua, tại đây đã diễn ra trận đánh lớn. Chỗ này là nơi đoàn chuyển vận lương của ta, bị quân Giao-chỉ đánh úp. Hơn ba nghìn quân bỏ mạng. Quân Giao-chỉ rất tử tế, họ chôn cất tử sĩ, rồi trên mỗi nấm mộ họ còn cắm miếng gỗ đề tên, tuổi, cấp bậc nữa. Nay đại quân Nam chinh, gia đình tử sĩ mới dám đến cải táng mang về quê. Vì thời gian mới có tám, chín tháng, thịt chưa rữa hết, tử thi bốc lên mùi xú uế như đại nhân thấy. An-Thạch ra lệnh cho Đô Kinh ruổi xe rời khỏi Côn-lôn. Hơn giờ sau tới chân núi Đại-giáp. Cái cảnh ở Côn-lôn lại xuất hiện. Nhưng ở đây, số gia đình tử sĩ đông gấp bội. Quân lính đã ngừng hẳn lại để giúp dân chúng đào đất moi tử thi lên. Cái cảnh thê thảm đó kéo từ chân núi phía Bắc Đại giáp, qua đỉnh xuống Nam. Khi lên tới đỉnh Đại-giáp, xe bắt đầu đổ dốc, thì trước mặt hiện ra thung lũng Ngọc-tuyền kéo dài đến chân trời phía Nam, rồi lại chạy ngược lên núi Hỏa-giáp. Ở giữa thung lũng, nối hai ngọn Đại, Hỏa-giáp, là con đường dài. Hai bên đường, đầy những người mặc tang phục trắng. Hóa cho nên từ núi Đại-giáp, qua thung lũng Ngọc-tuyền tới núi Hoả-giáp giống như một tấm vải trắng khổng lồ trải ngang qua. An-Thạch nghĩ thầm: - Đúng rồi, nơi đây, mấy tháng trước đạo binh đệ nhất, đệ nhị, đệ tam và đạo kị binh 47 đã bị quân Giao-chỉ đánh tan. Tổng cộng bốn vạn người, một vạn ngựa. Số bị bắt, đầu hàng chưa quá một vạn. Vậy ít ra có tới ba vạn nấm mồ. An-Thạch thúc xe đi thực nhanh, tiếng con khóc cha, tiếng vợ khóc chồng, tiếng mẹ già gào thét khóc con; tạo thành âm thanh thê lương, ào ào như sóng thủy triều gặp lúc động trời. Phân nửa những nấm mồ đã được khai quật lên. Nhưng một số vẫn còn đó. Người người hàng hàng lớp lớp nhấp nhô cúi xuống, ngẩng dậy, nhìn những thanh gỗ đề tên người xấu số để tìm thân nhân mình. Có những bà mẹ không tìm thấy mộ con, gào đến lạc giọng: - Con ơi là con! Con nằm đâu? Con cho mẹ biết đi, để mẹ đưa con về quê. Tiếng của người mẹ khốn nạn tìm xác con lẫn với hàng chục vạn tiếng khác, ào ào vang vang, thành điệu nhạc đoạn trường vô tận. An-Thạch ra lệnh cho Đô Kinh đánh xe vượt Hỏa-giáp sơn xuống Nam, cốt sao xa cái địa ngục kinh hoàng, hôi thối, thê thảm này. Cũng may, xe vừa đổ đồi phía Nam Hỏa-giáp, thì trời tối. Rời chân núi Hỏa-giáp hơn mười dặm, thì không còn cái cảnh đào bới tìm xác tử sĩ nữa. Đô Kinh đánh xe vào ngôi nhà ngói, dường như của một phú gia, để xin qua đêm. Nhưng nhà này đã được đặt làm hành doanh của viên chỉ huy đạo quân tả đệ tam tên Miêu Lý và viên chỉ huy phó tên Vương Tiến. Miêu, Vương thấy Đô Kinh với sáu thị vệ hộ tống một đại quan, xưng là kinh-lược sứ, y vội chạy ra tiếp vào. An-Thạch là người bác văn, cường trí, nên y biết rất rõ tiểu sử hai tướng, tình hình đạo quân tả đệ tam, trong khi hai viên tướng lại không biết y là ai. Y đảo ngược tên đi, xưng họ Thạch tên An, hiện lĩnh chức thị lang bộ lại. An-Thạch hỏi thăm tình hình quân sĩ, Miêu Lý than thở: - Kể từ tháng ba đến giờ, quân vượt mấy ngàn dặm, đến Kinh, Hồ người ngựa đã quá mệt mỏi rồi. Từ lúc vượt Ngũ-lĩnh xuống đây, khí hậu thấp nhiệt, thêm muỗi dữ như ong. Quân chưa đánh trận nào, mà đã chết bệnh hơn năm nghìn. -1097. Vương Tiến cũng đang bị sốt rét ngã nước hành hạ. Y nói trong khi hai hàm răng đánh nhịp lách cách: - Thưa đại nhân, tiểu tướng biết phen này ra đi, khó mà trở về. Trước sau không bị giặc giết, thì cũng chết về muỗi, nên cứ thực tình mà trình. Quân của tiểu tướng đánh dư trăm trận, chưa người nào đau yếu, chưa người nào sợ hãi cả. Nhưng khi vượt núi qua Côn-lôn, Đại-giáp, Ngọc-tuyền, Hỏa-giáp, thấy mấy vạn nấm mồ, với cảnh bố mẹ, vợ con, anh em khóc lóc đào bới tìm xác, thì không người nào còn can đảm chiến đấu nữa. Ai cũng mong sao thiên tử đổi ý, chặt đầu tên khuyển nho Vương An-Thạch, rồi rút quân về. An-Thạch tím mặt lại. Y nói gượng: - Ta nghĩ Vương tể tướng nghĩ ra Tân-pháp, làm cho nước giầu, dân mạnh, chứ người đâu có hại đến chư quân? Lão ông chủ nhà chắp tay: - Thực tình mà bàn, nếu Tân-pháp từ từ thi hành, thì quả là diệu sách, đổi cả trời đất lại. Nhưng đây họ Vương muốn làm nhanh quá, thành ra xáo trộn hết. Giá như triều đình cho thi hành Tân-pháp mươi năm nữa, đợi cho Tân-pháp ngấm vào dân, đợi cho nước thực giầu, đợi cho bảo binh thuần thục, thì chả cần đánh, các nước xung quanh cũng quy phục. Lão nghiến răng: - Khổ một điều, từ xưa đến giờ, Giao-chỉ vẫn thần phục, vẫn ngoan ngoãn tiến cống đấy chứ. Chỉ vì bọn mặt dơi tai chuột Thẩm Khởi, Lưu Di với tên khuyển nho Vương An-Thạch muốn chiếm nước người, thành ra chúng phải ra quân tự vệ. Rút cuộc, chỉ khổ dân, chỉ chết quân mà thôi. Vương An-Thạch bị chửi rủa vào mặt, mà không dám nói gì. Hôm sau An-Thạch tiếp tục đi xuống Nam. Tới thành Ung, y lại được chứng kiến cảnh đào bới tìm xác chết nữa. Ở đây còn khủng khiếp hơn, vì số người chết lên tới hơn mười vạn. Y lại được nghe dân, quân, tướng nguyền rủa y. Lòng y nguội như tro tàn. Suốt mười năm qua, y phải phấn đấu, chống đỡ với mấy trăm đồng liêu công kích y. Y đã mệt mỏi lắm rồi. Khi rời Biện-kinh ra đi, trong nhà y lại xẩy ra nhiều truyện, làm cho thần chí y hỗn loạn. Bây giờ, vượt đường trường vạn dặm Nam du thể xác mệt mỏi. Chính mắt y lại thấy cảnh chết chóc thê thảm; chính tai y nghe tướng sĩ, dân chúng nguyền rủa. Thần chí y xụp đổ hoàn toàn. Y bỏ không tiếp xúc với Quách Quỳ, Triệu Tiết nữa. Y ra lệnh cho Đô Kinh đánh xe trở về Biện-kinh. Vừa về tới dinh, bước vào trong, kìa vườn cảnh sao tiêu điều kỳ lạ! Ngoài tên thân binh gác cổng ra, không thấy ai đón y cả. Y lên tiếng gọi, thì chỉ có tên trưởng toán vệ sĩ Vi Trọng xuất hiện. Y chưa kịp hỏi, thì Vi Trọng đã khóc: - Khi quốc công rời khỏi dinh nửa ngày, thì ma, quỷ lại cất tiếng từ cõi âm truyền về khóc lóc kể rằng: Quốc công không hề vào hoàng cung nhiếp chính với hoàng thượng, mà lên đường kinh lý Nam thùy. Rồi ngày ngày, ma kêu, quỷ khóc trong dinh. Bọn nữ tỳ, mã phu, bộc phụ hoảng sợ bỏ trốn gần hết. Sau đến thân binh cũng từ từ trốn đi. Phu nhân mời Thanh-Hư đạo trưởng đến bắt ma. Đạo trưởng lập đàn trừ tà, thì tiếng ma, quỷ càng vọng về càng lớn hơn. Một ngày sau, ma quỷ truyền tiếng tiêu vào tai đạo trưởng, khiến đạo trưởng múa may suốt nửa ngày cuối cùng lăn ra chết. Mặt An-Thạch co dúm lại như chiếc bánh bao chiều, trông rất khó coi. Vi Trọng kể tiếp: - Nhân đại sư Pháp-Nhẫn chùa Thiếu-lâm cùng hai đại-sư Giao-chỉ vân du qua Biện-kinh. Có người mách phu nhân cầu người làm lễ cầu siêu cho oan hồn tử sĩ, để chúng khỏi quấy phá. Đại sư Pháp-Nhẫn cùng với hai nhà sư người Việt pháp danh Minh-Không, Đạo-Hạnh tới dinh. Đại sư từ chối không biết làm chay, vì chùa Thiếu-lâm là chùa Thiền-tông. Đại sư chỉ hai nhà sư Việt: « Hai vị này có tài trừ tà ». An-Thạch cau mày: - Rồi sự thể ra sao, mà nhà lại vắng thế này? - Quả thực thế, từ lúc hai đại sư Việt tới dinh, thì tiếng ma hờn, quỷ khóc biến mất. Phu nhân bắt mọi người gọi hai đại sư là thánh tăng. Ngay đêm ấy, vì có hai thánh tăng Việt ở trong dinh mình quỷ không hờn, ma không khóc nữa. Nhưng chúng lại quấy rối ngay trong hoàng cung. Tuyên-Nhân hoàng thái hậu tuyên triệu đại pháp sư Nguyên-Đăng vào cung, lập đàn, rước tượng đức thánh Quan bắt tà. Hoàng cung yên tĩnh được một đêm. Đến đêm thứ nhì thì chính pháp sư Nguyên-Đăng bị quỷ nhập. Người nhảy múa lung tung, đập vỡ cả tượng đức thánh Quan, Chu Sương, Quan Bình. An-Thạch lắc đầu: - Chắc không phải quỷ nhập đâu, mà bị tiếng tiêu quái gở kia thúc đẩy mà thôi. - Tuyên-Nhân hoàng thái hậu lại tuyên triệu hai nhà sư Việt vào cung trừ tà. Hai vị đó chối rằng không biết trừ tà, mà chỉ biết tụng kinh siêu độ cho hương linh người chết bình thường. Còn đối với người chết oan, thì phải giải cái u uất, thì oán mới hết. Khi oán hết, thì tự nhiên chúng sẽ bỏ ra đi. - Có lý. Rồi sao? - Đúng vậy, sau khi hai nhà sư thay nhau tụng niệm ba ngày, thì ma, quỷ lại nói vọng từ cõi âm về rằng: « Vì quốc công muốn chiếm Đại-Việt, mới khiến họ bị chết oan. Nay muốn giải cái uất hờn của chúng, thì phải chém đầu quốc công tế họ ». Hoàng thượng không chuẩn. Sau hai vị tăng đó cúng vái, dỗ dành;, oan hồn chịu, không đòi chém đầu quốc công nữa, mà chỉ đòi cách chức thôi. Vì vậy... vì vậy... An-Thạch chua chát: - Vì vậy Hoàng-thượng ban chỉ cách chức ta phải không? - Không, Hoàng-thượng không chuẩn. Lập tức ngay đêm đó Hoàng-hậu bị tiếng tiêu ma quái làm cho múa may đến nhừ người ra. Cung nga, thái giám sợ quá, tối tối tụ nhau ngồi lại một chỗ mà khóc. Tuyên-Nhân hoàng thái hậu tuyên triệu Hoàng-thượng đến cung của người bắt phải giải quyết vụ ma kêu, quỷ khóc, bằng không người cũng rời cung ra ngoài ở. Bấy giờ hoàng thượng mới ban chỉ. - Người giáng ta xuống làm gì? - Trong chỉ tuyên rõ: Quốc công tri Giang-ninh phủ, lĩnh Trấn-Nam quân tiết độ sứ, Đồng-bình chương sự. Sau khi chiếu chỉ ban ra, lập tức mọi sự ma, chư sự quỷ không còn nữa. An-Thạch nổi cáu: - Ta nghĩ, hai tên trọc thối tha Minh-Không, Đạo-Hạnh chính là gian tế của Giao-chỉ. Thế chúng đâu rồi? - Tuyên-Nhân hoàng thái hậu tuyên mời hai đại sư đó vào cung làm tiệc chay cúng dàng, truyền gọi là « Lĩnh-Nam thánh tăng ». Nguyên hồi trước khi cùng tiên đế vân du Đại-Việt, thái hậu đã gặp một trong hai thánh tăng này. Người lại ban chỉ cho hoàng thượng phải cúng dàng vàng bạc tiễn hai thánh tăng về cố quốc. Hoàng thượng hỏi rằng: « Hai thánh tăng Việt muốn được cúng dàng gì? ». Thì hai ngài đưa ra cái túi rồi tâu rằng: « Chỉ muốn được vào kho lựa lấy một túi đồng đen mang về nước đúc tượng Phật mà thôi ». Hoàng thượng truyền dẫn hai ngài vào kho tả. Hai ngài lựa mãi mà không được thứ đồng tốt. Thái giám lại dẫn hai ngài vào kho hữu... Mặt An-Thạch cau lại: - Kho hữu? Thế đã được chỉ dụ của Hoàng-thượng chưa mà dám dẫn hai tên trọc đó vào cấm địa ấy? - Thưa lão gia, kho hữu là cấm địa gì kia? - Người không biết đâu. Kho hữu không phải là kho, mà là nơi chứa những cơ mật của bản triều. - Dạ, tiểu nhân không biết. - Người thuật tiếp đi. - Hôm sau quan giữ kho khám phá ra, trong kho không còn một mảnh đồng nào. Như vậy hai thánh tăng đã làm phép lấy hết đồng mang đi, mà toàn là đồng đen mới khổ chứ. Hoàng thượng truyền cho quan Tổng-lĩnh Thị-vệ Lý Hiến mang năm trăm thị vệ đuổi theo bắt lại. Khi Lý đuổi tới bờ biển, thì thấy hai thanh tăng đang tìm thuyền ra khơi. Lý tổng lĩnh hô thị vệ bao vây hai thánh tăng. Hai ngài ném cái nón tu lờ xuống bể. Lập tức hai cái nón hóa ra hai con rồng. Hai ngài cỡi rồng bơi về hướng Nam mất. Vương An-Thạch lắc đầu: - Huyền hoặc. Ta không tin. Láo hết. Nhưng gia quyến ta đâu? - Vì quá sợ hãi, phu nhân không dám ở trong dinh này nữa, người cho dọn ra ở nhờ trong chùa Vạn-pháp tại phía Nam phủ Khai-phong rồi. - Thế ai thay ta? - Thưa là Ngô Sung thay quốc công. Còn Vương Khuê thay Ngô Sung, Phùng Kính coi Khu-mật viện. An-Thạch ngửa mặt nhìn trời than: - Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Ta đã ngu quá! Ta đã ngu quá. Chỉ vì muốn mau thành công, mà bao nhiêu tâm huyết một đời ta, hóa ra tro bụi, làm mấy chục vạn người chết oan. Hôm sau An-Thạch sai thân binh từ từ chở gia quyến đi Giang-ninh. Y xin vào triều từ biệt Hy-Ninh đế, nhưng dường như nhà vua ngượng ngập, không tiếp y. Y cùng Đô Kinh với ba cặp vợ chồng Phúc, Lộc, Thọ dùng ngựa lên đường đáo Giang-ninh. Vào một buổi trưa, đoàn người ngựa của An-Thạch sắp tới bờ sông Trường-giang. Xe còn cách bờ sông mười dặm, phải đi chậm lại, vì hai bên đường là những khách điếm, tửu lầu, hàng quán đủ loại để tiếp đón du khách chờ đò chở qua sông. Trên bến, hàng ngàn ngựa, xe, đi lại tấp nập. Dưới sông, thuyền bè đậu lố nhố, cái đi, cái đến. An-Thạch truyền Đô Kinh kiếm một tửu lầu lớn, để gia thuộc lên đó ăn uống. Đô Kinh vừa ra đi, thì đâu đó tiếng tiêu, tiếng trống vọng lại một điệu nhạc nhu hòa khiến cho người nghe cảm thấy nhẹ nhàng như bay lên cõi tiên. Lòng An-Thạch đang nặng chĩu nỗi chán chường, mà cũng cảm thấy khoan khoái kỳ lạ. Y xuống xe, lần theo tiếng nhạc, tới một khoảng đất trống, người ta đang đứng thành vòng tròn xem diễn trò. Vợ chồng Vương Phúc rẽ đám đông ra cho Thạch nhìn vào trong: Một thiếu phụ còn rất trẻ, nhan sắc cực kỳ diễm lệ, ngồi xếp chân trên cái chiếu nhỏ, tay lần cây đàn tranh, mắt mơ màng nhìn trời, bật ra những âm thanh huyền ảo. Gần đó, một người đàn ông, đang đánh cây đàn chỉ có một dây, âm thanh vọng đi rất xa. Lại còn một thiếu phụ tuổi tuy lớn, nhưng nhan sắc vẫn còn mặn mà, bà ta mặc quần áo xanh, đang thổi tiêu. Ba âm thanh hòa hợp với nhau thành điệu nhạc rất êm tai. Ngay chính giữa ba người, có đôi công đang xòe cánh, múa theo tiếng nhạc. Khúc nhạc đang dồn dập, tự nhiên dây đàn của người đàn ông đứt, phát ra tiếng phựt. Lập tức tiếng tiêu, tiếng đàn tranh cùng ngừng lại. Đôi công cũng thôi múa. Người đàn ông tần ngần vừa thay dây đàn, vừa nói: - Tiếng đàn đang xuống thấp, cớ sao dây lại đứt? Ắt hẳn có bậc danh sĩ bất đắc chí mới đến, uất khí tỏa ra, làm đứt dây đàn chăng? Y nhìn khán giả nói bâng quơ: - Hỡi ơi! Trăng tròn rồi lại khuyết, đêm dài rồi cũng sáng. Đời người khi được một, lại đòi hai. Được hai lại đòi ba. Biết đến bao giờ cho thoả chí! Nay nhân lúc bất như ý sự, uất khí dâng lên, mà cứ khư khư oán thân, trách trời e chỉ làm cho thần tổn mà thôi. Hỡi ơi! Đời dùng ta thì ta đem sức ra giúp đời. Đời không dùng ta thì đội cỏ bồng phơi phới mà đi. Việc gì mà phải lao tâm khổ tứ? Vương An-Thạch cau mày suy nghĩ: - Tại sao gã nhạc công này lại đoán biết tâm sự mình, mà thốt ra những lời như vậy? Gã nhạc công nói rồi y vẫy tay, hai thiếu phụ lại đánh đàn, thổi tiêu. Còn y, y lại bật dây trên cây độc huyền cầm, rồi cất tiếng hát bài từ « Quy khứ lai » của Đào Tiềm. Hát xong y lại nói trống không: - Đào Tiềm thế mà khôn! Hỡi ơi, con người ta đâu phải vì mấy đấu thóc mà phải ra luồn vào cúi cho khổ? Đến đó cuộc tấu nhạc chấm dứt, khán giả tản ra bốn phía. An-Thạch trở về tửu lầu với gia thuộc. Một người ăn mày ngơ ngơ ngác đi ngược chiều với y, dường như người ăn mày không nhìn thấy y. Hai người đụng vào nhau khá mạnh, cả hai ngã ngồi xuống đất. Người ăn mày nắm lấy An-Thạch chửi: - Ta đã vì phép Thanh-miêu, Trợ-dịch, mà phải đi ăn mày. Mi có mắt hay không mà thấy ta không tránh? Hay người cũng là Vương An-Thạch??? Vợ chồng Vương Phúc định can thiệp, An-Thạch ngoắc tay ra hiệu không cần. Y hỏi: - Phép Thanh-miêu, Trợ-dịch là thần pháp của ta, làm cho nước giầu, cớ sao mi bảo làm cho mi phải đi ăn mày? Người ăn mày cười nhạt: - Thì ra ông là tể tướng Vương An-Thạch đó sao? Tôi nghe Hy-Ninh hoàng đế mới cách chức ông, đuổi khỏi Biện-kinh, có đúng không? - ??? - Hà hà! Khi ông cầm quyền, thì hét ra lửa, mửa ra khói, bây giờ thất thế, cũng không hơn gì gã ăn mày như ta, thui thủi như con chó cụt đuôi vậy. Lão ăn mày bắt con sâu ở bụi cây gần đó, bỏ lên mui xe An-Thạch, rồi cầm cục than viết bài thơ như sau: Thanh-miêu, Trợ-dịch lưỡng phương nông, Thiên hạ ngao ngao oán tướng công. Độc hữu hoàng trùng thiên cảm đức, Hữu tùy xa giá quá Giang-Đông. Dịch Thanh-miệu trợ dịch hại nhà nông, Thiên hạ xôn xao oán tướng công. Độc hữu sâu vàng còn cảm đức, Tháp tùng xa giá quá Giang-Đông.
Chữ của lão đẹp như rồng bay, phượng múa. An-Thạch biết đây là một dị nhân, giả làm ăn mày trêu mình. Y cung tay: - Chẳng hay tiên sinh cao danh, quý tính là gì, có thể cho ta biết được không? Lão mở to mắt nhìn An-Thạch, hai mắt An-Thạch gặp luồng nhãn quan của lão làm y rùng mình, hồn phách cảm thấy u u mê mê; y chỉ muồn nằm lăn ra ngủ một giấc. Tiếng lão ăn mày như rót vào tai An-Thạch: - Biết để làm gì? Này tướng công. Xưa kia Hạng vương anh hùng là thế, khi qua sông này mang tám nghìn đệ tử, vào Trung-nguyên đuổi hươu. Lúc sự không thành, về qua bến Ô-giang, lủi thủi một mình. Vương nghĩ lại xấu hổ, không còn mặt mũi nào gặp phụ huynh của con em tử đệ đã chết, mà tự ải, nên danh lưu muôn thủa. Nay tướng công bầy ra Tân-pháp, oai phong biết mấy, rồi bị đàn bà, trẻ con Giao-chỉ đánh bại. Ôi đau biết bao, nhục biết bao? Sao tướng công không tự tử để lưu danh như Hạng-vương xưa??? Nghe lời lão ăn mày nói, An-Thạch cảm thấy mắt buồn ngủ muốn dí lại, tâm hồn mơ mơ tỉnh tỉnh. Y nghĩ thầm: Ừ ta còn sống làm gì nhỉ? Chết đi cho khỏi mệt thân, khỏi lao tâm khổ tứ. Tiếng lão ăn mày vẫn như thiết như tha: - Thời không đến! Vận đi qua. Tự tử đi thôi! Tự tử đi thôi. Trong khi đó tếng tiêu từ đâu đưa đến, lọt vào tai y buồn đến đứt ruột ra được. Y rùng mình vẫy tay gọi Vương Phúc. Vương Phúc tiến tớ, tay rút kiếm, trở chuôi trao cho An-Thạch. Tiếng lão già vẫn thiết tha: - Kiếm đó! Kiếm đó, tự tử đi thôi! An-Thạch từ từ đưa kiếm lên cổ, lòng trù trừ chưa quyết. Tiếng lão già ăn mày càng thúc dục khẩn cấp hơn: - Đâm kiếm vào ngực đi! Đâm ngay đi! Còn chờ gì nữa. An-Thạch nghiến răng thọc kiếm vào ngực. Bỗng có tiếng quát thanh thoát: - Ngừng lại! Không nên! Rồi một trái cam bay đến, đánh bay kiếm của An-Thạch đi. Thanh kiếm rời khỏi tay y đến hai trượng, rồi rơi xuống đất đến choang một tiếng. An-Thạch ngơ ngơ, ngác ngác nhìn người ném cam không cho y tự tử: Đó là một đôi nam nữ cỡi ngựa thủng thỉnh tiến tới. Bất giác y rùng mình, vì chính là Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai với công chúa Huệ-Nhu. Y mơ mơ màng màng cung tay hành lễ: - Thần Vương An-Thạch xin tham kiến đại vương và điện hạ. Thời hết! Vận hết! Hôm nay thần nhất định tự kết liễu đời mình ở đây. Công chúa Huệ-Nhu chĩa ngón tay điểm vào trán y đến véo một tiếng. Y rùng mình tỉnh lại. Chợt hiểu mọi sự, y chỉ mặt lão ăn mày, ba nhạc công: - Thì ra các người định hại ta. Trọn đời ta, ta chỉ biết đem tài lương đống ra thờ vua, việc của ta không đụng chạm gì đến các người. Hà cớ các người muốn giết ta? Y khom mình trước công chúa Huệ-Nhu: - Đa tạ điện hạ cứu mạng. Công chúa Huệ-Nhu cười nhạt: - Kinh quốc-công cũng còn nhớ đến ta ư? Kinh-Nam vương hướng lão già ăn mày: - Tam sư huynh! Vương quốc công nay đã cùng đường, xin tam sư huynh tha mạng cho y một lần. Vương An-Thạch kinh hãi hỏi lão già ăn mày: - Người là người Việt ư? Lão ăn mày vuốt mặt một cái, tay lột bộ râu giả ra rồi cười: - Vương tiên sinh có nhận ra ta chăng? An-Thạch rùng mình: - Thì ra người là Kinh-châu tư mã Trần Trung-Đạo đấy ư? - Chính thị. Ta với người không thù không oán. Tân-pháp của người thực là cổ kim chưa thánh nhân nào bằng. Giả như người thi hành Tân-pháp mưu cho dân giầu, nước mạnh, thì ta cũng khom lưng kính phục người. Nhưng người lại mưu đồ gây chiến, Nam xâm, thì ta phải giết người; để dân Hoa, dân Việt không tàn sát nhau, không thù hận nhau. Kinh-Nam vương vẫy tay gọi vợ chồng Phúc, Lộc, Thọ lại, rồi mỉm cười: - Thôi, việc của các con như vậy là xong rồi. Các con mau trở về cầm quân đi thôi. Quách Quỳ đang vượt biên vào Đại-Việt đấy. An-Thạch ngơ ngơ ngác ngác như người trong mộng. Vương nói với y: - Xin giới thiệu với quốc-công, đây là sáu sư điệt của ta. Ba đứa con trai đều họ Hùng có tên Nhân, Nghĩa, Lễ. Ba đứa con gái đều họ Âu có tên Hoàng, Thanh, Huyền. Trước đây chúng là trưởng lão Hồng-thiết giáo Chiêm đấy. Hiện chúng đều là tướng cầm quân bên Đại-Việt, võ công rất cao cường. An-Thạch kinh hãi hỏi: - Thì ra sáu người là gian tế của Giao-chỉ đấy ư? Đáng chết thực. Đáng lẽ ta phải biết từ trước mới phải. Ta trúng kế các người suốt mấy tháng qua mà chưa chết, cũng là điều lạ. Hùng Nhân chỉ Kinh-Nam vương: - Chính sư thúc của bọn tiểu nhân tuyên chỉ rằng không những không được giết tướng công, mà còn phải bảo vệ tướng công nữa. Sáu người tới trước Vương An-Thạch cung tay: - Cùng nhau qua chuyến đò cũng nên nghĩa. Huống hồ ba tháng qua, sáu chúng tôi được quốc công đãi ngộ, tin dùng. Nay chúng tôi trở về cố quốc, xin quốc công nhận lấy một vái, gọi là lễ tạ ơn. Sáu người vái An-Thạch rồi cùng Trung-Đạo, ba nhạc công cùng nhập bọn ra đi. Thình lình Hùng Nhân quay lại vỗ tay vào cái trục xe ngựa của An-Thạch, lập tức rắc một tiếng, cái trục bị gẫy, bánh xe văng ra xa. Trong khi đó gã nhạc sĩ gảy độc huyền cầm, để tiêu liên miệng thổi một hơi. Tiếng tiêu làm cho An-Thạch, cùng tất cả gia thuộc đều không tử chủ được, chân tay múa may quay cuồng. Gã nhạc sĩ ngừng thổi tiêu, quay lại cười: - Ta là ma sống, quỉ sống đây. Rồi cả bọn phơi phới xuống con thuyền ở bên sông. Thuyền phu kéo buồm lên, con thuyền từ từ xa bến. Đâu đó, tiếng tiêu, tiếng phách, tiếng đàn vọng lại lẫn trong gió dìu dặt, thê lương như khóc như than. Bằng ấy sự kiện, làm Vương An-Thạch như người trong cơn mê chợt tỉnh: Thì ra khi quân Việt đánh trận Côn-lôn, Đại-giáp, Ngọc-tuyền, Hỏa-giáp cố tình thu lượm thây tử sĩ đem chôn, lại đề tên trên mộ, chỉ với mục đích dùng binh Tống chết, cướp hồn binh Tống sống. Việc xe gẫy trục, việc chó chết quẳng xuống giếng, việc hồn ma, bóng quỷ kêu khóc, việc tiếng tiêu ma quái làm chết người, việc hai thánh tăng... đều do Đại-Việt tạo ra để đánh triều Tống ngay tại Biện-kinh. Bất giác y rùng mình: - Giả như ba cặp Phúc, Lộc, Thọ mà ra tay, thì giờ này ta còn đâu? Kinh-Nam vương là đấng anh hùng, bằng như vương trả thù ta, thì liệu gia thuộc ta, bản thân ta đâu có còn đến ngày nay? Nghĩ vậy, lòng y nguội như tro tàn, bao nhiêu chí khí tiêu ma hết, y cùng với gia thuộc xuống đò sang sông.