watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
15:53:1826/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50 - Trang 36
Chỉ mục bài viết
Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Trang 37
Trang 38
Trang 39
Trang 40
Trang 41
Tất cả các trang
Trang 36 trong tổng số 41

Chương 48b

Chúa tướng bị giết, trận quân Tống bị vỡ liền. Không đầy một khắc, toàn bộ bốn đạo 12, 13, 16, 17 lớp bị giết, lớp nhảy xuống sông bị chìm, lớp đầu hàng.
Đến đây, tại mặt trận trung ương, thủy quân thuộc hạm đội Thần-phù cùng đội võ sĩ Tản-viên đã thanh toán xong đạo binh 19.
Mặt trận phía phải, các hiệu Quảng-thánh, Vạn-tiệp, thủy quân hạm đội Bạch-Đằng đang vây đánh ba đạo binh 14, 15, 18. Lý Cửu, Mai-Cửu chỉ huy hiệu Vạn-tiệp chặn ngay bờ sông, khiến quân Tống không còn đường rút về Bắc. Mặt trận này do tướng Diêu Tự chỉ huy. Về tài dùng binh, y chỉ có bản lĩnh trung bình, nhưng võ công y cực cao. Diêu Tự thân cầm thương đi đầu mở đường máu.
Thấy vợ chồng Lý Cửu còn trẻ, Tự khinh thường, dùng thương đâm vào Mai-Cửu. Mai-Cửu dùng kiếm gạt. Choang một tiếng, kiếm của bà vuột khỏi tay bay lên trời, trong khi người bà như tê liệt. Âu Hoàng vội bỏ đội ngũ, xả kiếm chém vào lưng Diêu Tự cứu sư muội. Tự quay tít thương xông về trước. Thương chạm phải kiếm của Âu Hoàng, choang một tiếng thương của Tự súyt bay khỏi tay. Y bỏ thương phát chưởng đánh vào người Âu Thanh, Âu Huyền để mở đường máu. Bùng, bùng, Âu Thanh, Âu Huyền bật lui về sau, trong khi Diêu Tự cũng cảm thấy rung động toàn thân. Nhờ tam Âu bị bật lui, vòng vây mở ra, y cùng quân tướng tung mình nhảy xuống sông.
Khi Diêu Tự đang lơ lửng trên không, thì một người từ chiến thuyền vọt lên cao như con đại bàng chụp y. Kinh hoàng y phát chưởng đánh vào người này. Bình một tiếng, bị bay tung ra giữa sông, Diêu Tự lộn một vòng rồi đáp xuống. Khi chạm chân, y mới biết mình rơi giữa một chiến hạm. Bấy giờ y mới nhìn lại, thì ra người đối chiêu với y là một võ tướng trong y phục đô đốc. Y nhận ra đó là đô đốc Trần An, chỉ huy hạm đội Bạch Đằng.
Không nói, không rằng, y phát một chiêu với tất cả bình sinh công lực đánh vào người Trần An để thoát thân. Đô đốc Trần An phát chiêu Đông-hải lưu phong của phái Đông-a trả đòn. Hai chưởng chạm nhau đến bùng một tiếng. Cả hai đều bật lui ba bước. Qua một chiêu, Diêu Tự biết võ công đối thủ có đôi chút trội hơn mình. Y cười nhạt một tiếng, rồi tung mình xuống sông. Nhưng khi y đang lơ lửng trên không, thì cảm thấy kình lực bị mất hết, rồi như hai, ba con dao đâm vào ngực. Y lại rơi xuống chiến thuyền, tay ôm bụng bật lên tiếng « ái ».
Biết mình bị trúng độc chưởng, Tự vừa run lẩy bẩy vừa hỏi Trần An:
- Đô đốc! Ta nghe đô đốc là con trai của tư mã Kinh-châu Trần Trung-Đạo, thời vua Nhân-tông bản triều được thăng tới Phiêu-kị đại tướng quân tổng lĩnh Ngự-lâm quân. Võ công của người thuộc danh môn chính phái, mà sao nay đô đốc lại dùng Chu-sa Huyền-âm chưởng hại ta? Ta không phục!
Trần An lắc đầu:
- Ta nào biết xử dụng võ công tà môn này? Vừa rồi người đối chiêu với ba sư muội của ta là Âu Hoàng, Thanh, Huyền; cả ba trước đây là kỳ chủ trong Hồng-thiết giáo Chiêm. Bởi công lực người quá cao, ba sư muội của ta phải dùng hết bình sinh công lực phát chiêu để bảo vệ mạng sống, vì thế họ không kiềm chế được độc tố, mới khiến người bị thương.
Trần An truyền quân trói Diêu Tự lại.
Thấp thoáng bóng nâu, một người râu tóc bạc phơ, nhưng mặt lại còn rất trẻ xuất hiện. Người đó phóng tay điểm mấy chỉ vào người Diêu Tự. Bao nhiêu cái đau biến mất. Tự nhìn lại, y bật lên tiếng kêu:
- Phải chăng người là Phiêu kị đại tướng quân Trần Trung-Đạo? Xin đại tướng quân nghĩ tình cố cựu mà cứu tiểu tướng một phen.
Trung-Đạo móc trong túi ra một cái hộp, lấy ba viên thuốc bỏ vào miệng Diêu Tự:
- Hỡi ơi! Diêu tướng quân là một hào kiệt, kỳ tài thiên hạ; chỉ vì tham vọng ngu xuẩn, mà Hy-Ninh, Vương An-Thạch đẩy tướng quân vào tuyệt lộ như thế này. Ta tặng tướng quân ba viên thuốc giúp người thoát khỏi đau đớn trong 49 ngày. Trong 49 ngày đó, tuyệt đối không được xử dụng võ công, cũng không nên dùng sức. Nhớ nhé! Sau đó người có thể tìm Kinh-Nam vương, xin vương cứu mạng cho. Thôi, người hãy sang sống đi.
Trung-Đạo túm áo Diêu Tự tung một cái, người y tà tà đáp xuống Bắc ngạn sông Cầu.
Ghi chú,
QTNC và TTCTGCK đều chép rằng: Sau khi bị bắt được tha về, Diêu Tự không muốn xuất trận nữa. Quách Quỳ cũng không muốn dùng y vì nghi ngờ.

Trời đã về chiều.
Sau trận chiến kinh tâm động phách, quân Tống bị mất 10 đạo chính binh thiện chiến nhất. Còn về phía Việt, tổn thất cũng rất nặng; hiệu Ngự-long chỉ còn một phần ba; hiệu Quảng-thánh còn một nửa; đội nữ thị vệ hy sinh trọn vẹn. Dọc chiến lũy Như-nguyệt, xác người, xác ngựa, vũ khí, dụng cụ trải dài ra trên một vùng hơn hai mươi dặm.
Vì công chúa Thiên-Ninh bị trọng thương, tiên nương Bảo-Hòa tạm cử đô đốc Trần An, Trần Hải thay thế tổng trấn chiến lũy Như-nguyệt. Hoàng nam, hoàng nữ các làng xung quanh đã chở tre, gỗ tới để tu bổ các lớp rào bị phá.
Tù binh Tống được tập trung để thu dọn xác chết tử sĩ. Dọc bờ Nam ngạn sông Cầu, hai hạm đội Thần-phù, Bạch-đằng dàn ra, cờ xí bay phất phới.
Bây giờ tiên nương Bảo-Hòa mới hỏi Thân Mai:
- Công chúa Thiên-Ninh, Phạm Dật, Kim-Loan đâu?
- Thưa sư phụ tất cả đã được đặt trên chiếc xe, con định đưa họ về Thăng-long để điều trị.
Tiên nương tới bên chiếc xe tứ mã. Phạm Dật bị trúng bốn mũi tên, thuốc độc đã ngấm, nên nằm mê man. Kim-Loan tuy còn tỉnh táo, nhưng hơi thở rất yếu. Công chúa Thiên-Ninh đang thiêm thiếp, mơ mơ tỉnh tỉnh. Tiên nương vừa nắm lấy công chúa Thiên-Ninh chẩn mạch, thì có tiếng nói rất êm đềm ngay bên cạnh:
- Chị Bảo-Hòa, để em cứu Thiên-Ninh, may ra còn hy vọng gì chăng?
Tiếng nói vừa dứt, thì tiên nương Thiếu-Mai, Linh-Nhân hoàng thái hậu với nguyên soái Thường-Kiệt tới.
Lễ nghi tất.
Thiếu-Mai tiến lên, dùng chỉ điểm vào mấy yếu huyệt ba người, nhổ tên trên người Thiên-Ninh, Phạm Dật ra, rồi lấy thuốc trị thương băng bó lại. Bấy giờ tiên nương mới bắt mạch công chúa Thiên-Ninh, Phạm Dật, Kim-Loan.
Mọi người hồi hộp theo dõi nét mặt của tiên nương, khi thì chau mày, khi thờ mở to mắt ra, cũng có lúc lại lắc đầu. Bắt mạch xong, tiên nương móc trong bọc ra hộp thuốc, bỏ vào miệng mỗi người ba viên, rồi dặn y sĩ:
- Đại phu ngồi đây coi chừng, sau một giờ không thấy người nào tỉnh dậy, thì gọi tôi.
Mọi người rời xa xe. Linh-Nhân hoàng thái hậu hỏi:
- Thưa sư thúc, còn hy vọng gì không?
- Tình trạng thương thế ba người quá nặng, ngoài khả năng của thầy thuốc. Cho đến giờ phút này thì tôi chưa thể nói trước được rằng có cứu nổi họ hay không. Sống chết có mệnh.
Đô đốc Trần An, Trần Hải dẫn Tiên nương Bảo-Hòa, Linh-Nhân hoàng thái hậu, nguyên soái Lý Thường-Kiệt đi duyệt lại phòng tuyến Như-nguyệt một lượt rồi tường trình về trận đánh kinh thiên động địa vừa qua:
- Về quân số, hiệu Ngự-long bị tổn thất ba phần tư. Hiệu Quảng-thánh tổn thất một nửa. Xin dùng quân của các hiệu địa phương bổ xung.
Nguyên soái Thường Kiệt chấp thuận ngay.
- Đội nữ thị vệ tuẫn quốc hoàn toàn. Đội hổ, báo còn được một nửa. Đội sói, voi chết hết. Về tướng, thì Hùng Nhân, Nghĩa, Lễ bị thương nặng. Âu Hoàng, Thanh, Huyền bị thương nhẹ. Công chúa Thiên-Ninh, Thiện-tâm hầu Phạm Dật với quận chúa Kim-Loan bị thương trầm trọng. Bên Tống, các đạo binh 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16 hoàn toàn bị tiêu diệt. Các đạo 17, 18, 19 bị tổn thất một nửa. Về tướng lãnh, năm nhà sư chữ Pháp bị hai thánh tăng bắt sống. Kinh-Nam vương sai sứ giả lĩnh tất cả tù binh đem về giữ tại Thiên-trường. Tướng Bình Viễn bị Lý Thất, Mai-Thất giết tại trận. Tướng Diêu Tự bị Âu Hoàng, Thanh Huyền đánh trọng thương, được phụ thân thần ân xá cho về với Tống.
Đô đốc Trần An xuất trong bọc ra một tờ giấy, rồi trình tiếp:
- Về mặt trận bên Bắc ngạn, thần nhận được tin tức tế tác cho biết rằng Nhân-Huệ hoàng đế Nùng Trí-Cao, hoàng hậu Tạ Thuần-Khanh, Quảng-Đông ngũ cái huy động đội đệ tử Việt-kiều bên Chiêm tung 600 xe trâu chứa chất nổ đánh phá hậu quân Tống. Kết quả hơn phân nửa doanh trại bị cháy, tám kho chứa lương thảo bị đốt cháy mất ba. Đội trâu bị chết hết. Còn Nùng Trí-Cao, Quảng-Đông ngũ cái với đội đệ tử đã được hạm đội Thần-phù chở về chiến lũy Vạn-xuân.
Đến đó, mọi người nhìn sang Bắc ngạn: Quân Tống đang dùng một đoàn trâu cùng với đội thiết đột, cung thủ núp phía sau mấy ụ đất để phòng thủy quân Việt đổ bộ.
Bỗng Linh-Nhân hoàng thái hậu cau mày, rồi mặt ngài trở nên ngơ ngơ ngác ngác như xuất thần. Không ai hiểu tại sao cả. Thình lình ngài vận nội lực hướng mặt sang Bắc ngạn hú lên một hồi dài miên miên bất tuyệt. Vì nội công âm nhu của ngài đã luyện đến mức thượng thừa, nên tiếng hú vang đi rất xa:
- Nghé ơ! Nghé à! Nghé!
Trong khi ngài hú, thì đoàn trâu của Tống cùng nghểnh cổ hướng về Nam lắng nghe, mắt mở thực to. Chư tướng Việt đều nhận thấy trên sừng trâu có buộc dao nhọn. Bụng trâu buộc dáo dài chĩa về trước, trong tư thế bảo vệ phòng tuyến.
Khi Thái-hậu hú đến hồi thứ hai, lập tức đoàn trâu cùng rống lên rung động cả bờ sông rồi quay đầu húc vào đội thiết đột. Bị bất ngờ, đội thiết đột bỏ chạy tán loạn, miệng la lớn:
- Trâu điên! Trâu điên!
Thái-hậu lại hú lên một hồi thứ ba, lập tức đoàn trâu bỏ không đuổi theo quân Tống nữa, mà chạy ra bờ sông, rồi bơi về Nam ngạn.
Đô đốc Trần An vội ban lệnh cho chư quân:
- Chuẩn bị chống bầy trâu điên!
Linh-Nhân hoàng thái hậu xua tay:
- Hãy mở cửa chiến lũy cho cô phụ. Mau!
Quân sĩ vội mở cửa chiến lũy. Thái-hậu tung mình đến đứng trấn ở cửa, rồi lại hú lên một tiếng dài. Đoàn trâu theo cửa chiến lũy lên bờ. Lát sau, một trăm tám mươi mốt con trâu đều đã lên bờ xong. Cổng chiến lũy đóng lại. Bầy trâu cùng quỳ xuống hướng Thái-hậu hành lễ. Thái-hậu âu yếm vuốt sừng từng con một, cử chỉ cực kỳ thân ái như mẹ với con.
Bấy giờ tướng sĩ mới nhìn lại: Nhờ dấu đóng ở lưng, mà họ nhận ra tất cả bầy trâu đều là trâu Đại-Việt, trước đây đem cống sang Tống. Trong đó có con trâu mộng ở Thổ-lội mà hồi còn thơ, Thái-hậu đã cứu nó thoát chết. Thái-hậu đang vuốt ve đầu nó, cả trâu lẫn Thái-hậu đều không cầm được nước mắt, sau 11 năm xa cách.
Đô đốc Trần Hải, chỉ huy hạm đội Thần-phù hỏi:
- Tâu Thái-hậu, phải chăng Thái-hậu sai trâu tấn công binh Tống, rồi gọi chúng sang sông?
- Đúng vậy! Nguyên thời thơ ấu tôi đi chăn trâu, nhờ thế mà học được thuật sai khiến trâu của mục đồng. Ban nãy, khi nhìn sang sông, tôi nhận ra bầy trâu này là trâu của ta cống Tống; tôi mới vận công sai chúng đánh bọn thiết đột để khỏi bị thiết đột ngăn cản, rồi mới gọi chúng về đây.
Một đoàn người ngựa từ phía Nam phi tới như bay, mọi người nhận ra bốn kị mã dẫn đầu là thế tử Trần Vị-Hoàng, Thiên-Trường, Linh-Cơ và quận chúa Minh-Thúy. Phía sau là năm thần tăng Thiếu-lâm chữ Pháp: Tuệ, Minh, Đức, Thiên, Hạ; bọn Miêu Lý, Lưu Mân, Trương Thế-Cự, với hơn trăm tướng nhỏ ở cấp thiên tướng, đô thống; hơn ba trăm võ sĩ Thiếu-lâm.
Đô đốc Trần An tiến ra chặn trước:
- Các sư đệ với sư muội đi đâu đây?
Anh em Trần Vị-Hoàng nghiêng mình hành lễ:
- Xin tham kiến sư huynh. Phụ vương đệ có biểu dâng lên Thái-hậu.
Tuy là sư huynh, sư đệ đồng môn, bốn anh em Vị-Hoàng là con của sư thúc Tự-Mai thực, nhưng họ cũng là con của công chúa Huệ-Nhu bên Tống; nên Trần An ra hiệu cho họ dừng vó ngựa, rồi đem biểu trình cho Linh-Nhân hoàng thái hậu.
Cao nhất là tiên nương Bảo-Hòa, Thiếu-Mai, Linh-Nhân hoàng thái hậu, nguyên soái Thường-Kiệt cho tới chư tướng đều khâm phục cách hành xử của đô đốc Trần An, với anh em Vị-Hoàng.
Linh-Nhân hoàng thái hậu nói với chư tướng:
- Chư tướng phải học lấy cung cách nhã nhặn của ba vị thế tử với quận chúa Minh-Thúy cùng phép duy trì quân luật của đô đốc Trần An.
Không biết trong thư Kinh-Nam vương nói gì, mà sau khi đọc xong, Linh-Nhân hoàng thái hậu cất vào bọc, rồi ban chỉ cho đô đốc Trần An:
- Đô đốc cấp thuyền cho ba vị thế tử với quận chúa dẫn chư tướng Tống với các cao thủ bị cầm tù sang sông. Xin đem cả năm vị thần tăng mới bị bắt là Pháp Tiên, Trị, Quốc, Cách, Vật sang sông một thể.
Tiên nương Thiếu-Mai nói nhỏ vào tai Thái-hậu mấy câu. Thái hậu lại tuyên chỉ:
- Xin Đô đốc sai chở tất cả tù binh, thương binh trong trận đánh hôm nay cho ba vị thế tử mang về trao trả nguyên soái Quách Quỳ.
Đến đấy viên y sĩ trông coi công chúa Thiên-Ninh, thượng tướng quân Phạm Dật, quận chúa Kim-Loan đến báo với tiên nương Thiếu-Mai:
- Khải tiên nương, cả ba vị đều không tỉnh lại.
Tiên nương Thiếu-Mai nói với Linh-Nhân hoàng thái hậu:
- Tâu Thái-hậu, thần bất tài, không cứu nổi ba người. Vậy bây giờ chỉ có cách dùng nội công thượng thừa làm cho họ tỉnh rồi ra đi, hơn là để mê man như vậy.
Mọi người cùng lại chỗ xe đặt ba vị nằm. Tiên nương sẽ đỡ ba vị đặt ngồi dựa lưng vào thành xe. Sắc mặt ba vị cực kỳ bạc nhược, chỉ còn thoi thóp thở. Bắt mạch ba vị xong, tiên nương đưa mắt cho tiên nương Bảo-Hòa, hai thánh tăng Minh-Không, Đạo-Hạnh. Ba vị cùng vận công rồi chĩa ngón tay chỏ về trước. Tiên nương Bảo-Hòa điểm vào huyệt Đản-trung công chúa Thiên-Ninh; Thánh-tăng Đạo-Hạnh điểm vào huyệt Aán- đường quận chúa Kim-Loan; Thánh-tăng Minh-Không điểm vào huyệt Trung-uyển thượng tướng quân Phạm Dật. Cả ba cùng rung động, sắc mặt trở nên tươi hồng như khi khỏe mạnh, nhưng mắt vẫn còn nhắm.
Tiên nương Thiếu-Mai khẽ vỗ vào vai công chúa Thiên-Ninh một cái. Công chúa rùng mình, mở mắt ra; trong khi Phạm Dật, Kim-Loan vẫn còn thiêm thiếp. Công chúa thở dài một tiếng, rồi hỏi:
- Tình hình ra sao? Đã chiếm lại được chiến lũy Như-nguyệt chưa?
Thấy xung quanh mình nào sư phụ Bảo-Hòa, nào hai Thánh-tăng, nào Tiên-nương Thiếu-Mai, nào Linh-Nhân hoàng thái hậu; nét mặt người nào cũng nghiêm trọng. Công chúa biết rằng mình sắp chết, nên nói với Tiên-nương Bảo-Hòa, Linh-Nhân hoàng thái hậu bằng giọng tha thiết:
- Sư phụ! Sư phụ vừa là thầy, vừa là cô của con! Thái-hậu, Thái-hậu vừa là mẹ trẻ, lại vừa là bạn tâm giao của con. Nhưng con gọi Thái-hậu là cô. Trong thế gian này, chắc chỉ có Phụ-hoàng là thương yêu con bằng hai cô mà thôi. Khi bắt đầu trận đánh hôm nay, con đã biết rằng mình sẽ chiếm lại được chiến lũy Như-nguyệt, nhưng phải chịu hy sinh thực lớn. Con đã mật hẹn với chư tướng, chư quân hai hiệu Ngự-long, Quảng-thánh rằng dù hai hiệu binh có chết hết, mà đoạt lại được Như-nguyệt thì cũng chấp nhận. Bởi, sau trận này, vĩnh viễn Quách Quỳ không đủ quân vượt sông đánh chiếm chiến lũy một lần nữa. Không biết con nghĩ có đúng không?
Nước mắt đầm đìa, Linh-Nhân hoàng thái hậu nói:
- Ninh luận đúng. Cho đến nay, hầu như tất cả các đạo chính binh của Quách Quỳ không bị diệt thì cũng bị hao hụt quá nửa, phải tái lập. Y chỉ còn bảo binh, dân phu thì giỏi lắm sang tháng ba, khí hậu oi bức, quân bệnh hoạn, thì y phải rút. Mà dù y không rút, thì ta chỉ cần đánh một trận là chúng phải bỏ chạy.
Đến đây Phậm Dật, Kim-Loan đã tỉnh dậy. Công chúa Thiên-Ninh nói với hai người:
- Trong Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt, ta gần hai em nhiều nhất. Hàng ngày, ta là chúa tướng của các em, nhưng giữa chúng ta đối với nhau như tình chị em. Bây giờ chúng ta cùng về với vua Hùng, vua Trưng, với liệt tổ Lý triều. Không biết các em có gì ân hận không?
Kim-Loan nói trong hơi thở hổn hển:
- Công chúa điện hạ, trước đây tại trận Đồ-bàn, bọn thần đã tình nguyệt nhập thành phá giặc, tình nguyện hy sinh cho Quốc-tổ. Nhưng trận ấy chúng thần lại thành công. Rồi chúng thần được dự cuộc Bắc phạt, đánh ba trận. Một là Thái-bình, Hoành-sơn, Ôn-nhuận, Quy-hóa. Hai là Đại-giáp, Hỏa-giáp, Ngọc-tuyền. Ba là Ung-châu. Ôi sinh ra là con cháu vua Hùng, vua Trưng, mà được như vậy thì đã quá đủ rồi. Huống hồ nay còn đánh trận rừng tre, trận Cổ-pháp, trận Như-nguyệt này.
Linh-Nhân hoàng thái hậu, vẫn nắm tay Phạm Dật, Kim-Loan. Phạm Dật nói với ngài:
- Thái-hậu! Thái hậu là Ỷ-Lan thần phi, là Thái-hậu chăng nữa, thì bọn em vẫn chỉ thấy ở Thái-hậu một bà chị Minh-Đệ, Yến-Loan. Nhớ lại, khi xưa, Thái-hậu với bọn em đã sống với nhau một thời ở chùa Báo-ân. Thái-hậu dạy bọn em học, thổi cơm cho bọn em ăn, giặt quần áo cho bọn em; đôi khi Thái-hậu còn tắm cho bọn em nữa. Cho đến nay, bề ngoài em gọi Thái-hậu là chị, mà trong lòng thì cứ nghĩ Thái-hậu là mẹ bọn em.
Hầu rùng mình một cái, rồi tiếp:
- Chị Yến-Loan nhỉ, nghĩ cho cùng chị là cô gái bị đời hành hạ, bọn em là những trẻ mồ côi, thế mà... thế mà chỉ với tấc lòng son, chị em ta đã làm lên những việc nghiêng trời, lệch đất; thì chết một lần, chứ chết mười lần, trăm lần, em cũng mãn nguyện.
Hầu nói với Kim-Loan:
- Vợ chồng chúng ta gặp nhau trong trận đánh Vọng-hương. Từ đấy, chúng ta tâm đồng, ý hiệp, vào sinh ra tử biết bao phen. Em chẳng từng nói rằng: Nếu sau này chúng ta chết, thì xin được cùng chết. Bây giờ, bây giờ... em... em...
Đến đó hầu nghẹo đầu sang một bên, rồi tắt thở. Phu nhân gọi lớn:
- Anh, anh chờ em với. Em... Em...
Nói đến đây phu nhân tắt tiếng.
Công chúa Thiên-Ninh nói với thánh tăng Minh-Không:
- Sư phụ! Sư phụ từng dạy con rằng, sau khi chết, phải đầu thai ngay, đừng để hồn ma phiêu bạt. Nhưng, nay con không tuân pháp chỉ của sư phụ. Sau khi con chết, nhất định con sẽ qui tụ hơn ba nghìn hồn nữ thị vệ, thành đội âm binh để giữ nước. Con cũng sẽ thu của báu, lương tiền trong thiên hạ, ban phát cho những kẻ có tấc lòng son với xã tắc, để xứng với danh xưng Bà-chúa-kho mà sư phụ ban cho.
Thánh-tăng Minh-Không rùng mình:
- Như vậy thì...
Đến đây ngài ngừng lại, vì công chúa đã quy tiên.
Ghi chú,
Công chúa Thiên-Ninh tuẫn quốc năm ba mươi mốt tuổi, trong khi vẫn còn là một trinh nữ, bởi công chúa xin đức vua Thánh-tông cho xuất gia. Sinh thời vua Thánh-tông đã thuận, nhưng vì công chúa bận rộn với quốc sự, cho đến khi hoăng, mà vẫn chưa thụ giới. Sau khi công chúa tuẫn quốc, được phối thờ tại thái miếu với liệt tổ Lý triều.
Đương thời, công chúa lấy vàng, bạc, lương thực trong kho cho nhiều người vay, đến khi công chúa hoăng họ không trả được. Vì công chúa tuẫn quốc, sổ sách bị mất, nên đa số các con nợ không chịu trả. Hồn công chúa nhập vào xác các thiếu nữ đồng trinh, rồi gọi các quan đến, truyền cho biết người này nợ bao nhiêu, người kia nợ bao nhiêu. Linh-Nhân hoàng thái hậu thấy vậy sai lập đền thờ ngay tại nơi công chúa thường đóng bản doanh, rồi sức cho dân biết: Ai nợ bao nhiêu phải đến trước đền công chúa khai rõ, rồi trả lại công khố.
Đền thờ công chúa trải 918 năm, hiện (1995) vẫn còn tại Thị-cầu, tỉnh lỵ Bắc-ninh.
Cũng vì lời nguyền khi sắp hoăng rằng sẽ thu nhặt của báu, lương tiền trong thiên hạ, giúp người cólòng son với xã tắc, mà đến nay, trải 918 năm, cứ đầu Xuân, dân Việt vẫn đến đền công chúa vay tiền, hay xin đồng rụng đồng rơi.
Thủ tục như sau: Cứ đầu Xuân, từ ngày mùng một tới ngày hai mươi hai là ngày công chúa tuẫn quốc phải làm sớ xin hay vay. Trước tiên đến đền thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu ghi ở mục 3, bài tựa NQSH, quyển 1, làm lễ, dâng sớ vay hay xin đồng rụng đồng rơi. Nếu vay, phải nói rõ vay bao nhiêu lượng vàng. Sau đó xin âm dương. Nếu ba lần mà được cả ba, là đã được thái hậu thuận. Bấy giờ mới tới đền công chúa ở Cổ-mễ, thuộc thị xã Bắc-ninh dâng sớ xin hay vay. Sau khi dâng sớ, phải lễ tạ. Nếu lòng thành cầu xin, thì trong năm đó, nhất định phát tài. Khi phát tài, thì phải tới dâng sớ tạ; nếu xin đồng rụng, đồng rơi, thì chỉ lễ tạ thôi, còn cúng tiền thì tùy hỉ; nếu như vay thì phải đến trả nợ bằng cách cúng tiền tu bổ đền. Nhược bằng vay, phát tài, mà không trả nợ, thì ngay năm sau sẽ tán tài đúng bằng số tiền phát tài.
Năm 1954 về trước, cứ đến đầu Xuân, dân Việt khắp nơi đổ về Bắc-ninh xin hoặc vay tiền. Thời gian 1954 cho đến khi « cởi mở » 1990 thì tôi không rõ. Nhưng từ mùa Xuân năm Tân-Mùi (1991) cho đến nay, vào đầu Xuân, dân chúng khắp nơi trên đất Việt, cả Việt kiều; đều lũ lượt đến đền thờ Bà-chúa-kho đội sớ xin vay tiền. Người đến vay đông đến nỗi phải đứng chen chúc nhau ngoài sân, đầu đội sớ, rồi ông từ cho làm lễ xin vay cho từng loạt người. Người xin, vay đông suốt tháng giêng, làm lễ cả ngày lẫn đêm, từng loạt, từng loạt mà không hết.
Tôi có làm một cuộc thăm dò trong sáu mươi sáu người đã xin vay, xin đồng rụng đồng rơi (1993), thì năm mươi bẩy người xin vay đều được công chúa « thuận » và phát tài, phải lễ tạ.
Long-nhương thượng tướng quân, Nhu-Tâm hầu Phạm Dật tuẫn quốc năm 28 tuổi, phu nhân là Thiên-ân, Nhu-mẫn quận chúa Kim-Loan tuẫn quốc năm 27 tuổi. Sau khi hết giặc, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong cho ngài chức tước như sau: Long-biên, Vũ-liệt, Chiêu-thắng đại vương. Phu nhân được phong Thiên-ân, Nhu-mẫn, Hồng-đức công chúa. Triều đình ban chỉ lập đền thờ. Trải 918 năm dài, với biết bao thăng trầm lịch sử, cho đến nay (1995) đền thờ ngài vẫn còn tại xã An-cư tục gọi là làng Gờ, tổng Đông-bối, huyện Linh-giang, nay là huyện Linh-thanh tỉnh Hải-hưng. Độc giả muốn tìm hiểu thêm về huân nghiệp của ngài, xin đọc các tái liệu ghi ở mục 7.1.1. phần tựa, NQSH, quyển 1.
Năm 1994, tháng 8, tôi về Việt-Nam công tác cho Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (CEP tức Coopérative Européenne Pharmaceutique). Tôi dẫn các bạn trong phái đoàn đi Thị-cầu viếng đền thờ Bà Chúa-kho Thiên-Ninh. Tôi cũng mời một đệ nhất danh ca dân tộc tại Hà-nội, cùng ba nhạc công theo. Khi lễ, tôi làm một bài hát nói, rồi nhờ họ hát, và tấu nhạc. Tôi khấn như sau :
« Khải Công-chúa điện hạ, thần tên Trần Đại-Sỹ, hiện sống ở Pháp-quốc, xa Đại-Việt đến mấy chục vạn dặm. Hôm nay thần về cố quốc, tưởng nhớ huân công của Điện-hạ, lòng thành dâng một lễ bạc, xin có bài ca, dâng lên :
Nực cười châu chấu đá xe,
Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng
Thời Chiêu-Thắng, mùa Xuân năm Đinh Tỵ,(1)
Tống Thần-tông đem tướng sĩ Nam xâm.
Phong Quách Quỳ với Triệu Tiết, làm nguyên soái, cầm quân.
Đến Như-nguyệt vượt sông, như thác đổ.
Nam-quốc sơn hà, Nam đế ở,(2)
Bắc-cương địa giới, Bắc vương cư.
Lũ giặc kia, bay dám đến đây ư?
Trận Cổ-pháp phơi thây dư chục vạn.
Bọn Miêu Lý, Lưu Mân, Trương Thế-Cự,(3)
Bị quần thoa, yếm thắm, đánh tan hoang.
Thương thay cái mộng họ Vương!(4)
Chú giải

(1) Chiêu-Thắng: Tức Anh-vũ Chiêu-Thắng -8, là niên hiệu của vua Lý Nhân-tông, từ tháng 4 mùa hạ năm Bính-Thìn (DL.1076), vua đặt niên hiệu này, sau trận đánh sang Ung-Liêm châu nhà Tống. Năm sau (Đinh Tỵ, DL 1077) vua Thần-tông nhà Tống sai Quách Quỳ, Triệu Tiết mang đại quân sang báo thù.
(2) Hai câu này lấy ý trong bài thơ đánh Tống của Lý Thường-Kiệt:
Nam-quốc sơn hà Nam-đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên-thư.
Nghĩa là: Nước Nam, thì vua Nam trị vì, điều này đã định tại Thiên-thư. Tác giả đổi đi đôi chút: Nước Nam do vua Nam cai trị, biên giới phía Bắc, vua Bắc ở. Bắc đây để chỉ vua Trung-quốc.
(3) Cổ-pháp: Tên một châu thời Lý nay thuộc Hà-Bắc, nơi phát tích ra triều Lý. Lăng tẩm các vua Lý đều ở đây. Trong trận đánh mùa Xuân năm 1077, Quách Quỳ phá vỡ phòng tuyến Như-nguyệt rồi sai Vũ-kị thượng tướng quân Trương Thế-Cự, dẫn các tướng Miêu Lý, Lưu Mân ào ào tiến về Thăng-long, chỉ còn cách 25 cây số, là tới kinh đô Đại-Việt. Nhưng ba tướng bị công chúa Thiên-Ninh chỉ huy phòng tuyến này đánh bại, phải lui về Như-nguyệt. Sử gọi trận này là trận Cổ-pháp, Tống mất mười vạn binh. Lưu Mân tử trận.
(4) Mộng họ Vương: Vương để chỉ Vương An-Thạch, tể tướng có tài kinh bang tế thế. Những cải cách của Thạch, chỉ trong chín năm, mà làm cho Tống giầu có súc tích. Nhưng vì bị phe bảo thủ công kích, Thạch chủ trương đánh Đại-Việt để bịt miệng phe đối lập. Nhưng mộng của y bị Linh-Nhân hoàng thái hậu phá vỡ! Xin đọc Nam-quốc sơn hà, 5 quyển, 2232 trang, của Yên-tử cư sĩ, do Đại-Nam, Hoa-kỳ xuất bản.

Sau khi truyền đem thi thể ba vị chúa tướng tuẫn quốc về Thăng-long, Linh-Nhân hoàng thái hậu hỏi đô đốc Trần An:
- Đô đốc! Tình hình hai đạo quân của Trung-Thành, Tín-Nghĩa ra sao? Các tướng Trần Ninh, Dương Minh, Ngô Ức, Tạ Duy cùng các phu nhân đâu, mà chỉ thấy đô thống Lý Ngũ, Lục, Thất, Bát, Cửu với các phu nhân?
Trần An đáp bằng giọng thê lương:
- Trong trận đánh vào tổng hành doanh Tống đêm qua, sư đệ Dương Minh, sư muội Phương-Cúc tuẫn quốc. Sau đó Tống tấn công vào quân ta ở Nham-biền, nhị vương với vương phi, các sư đệ Trần Ninh, Ngô Ức, Tạ Duy với vợ... đều tuẫn quốc.
Thái hậu kinh hãi hỏi:
- Trận chiến ra sao, xin đô đốc kể lại chi tiết cho cô phụ này nghe.
Trần An khoan thai kể...
Tại ngã ba sông Lục-Nam, Đại-Việt
Ngày 20 tháng giêng giờ Ngọ, niên hiệu Anh-vũ chiêu thắng thứ nhì đời vua Nhân-tông bên Đại-Việt, nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ 10 đời vua Thần-tông nhà Tống 0.
Trong ngày 19 tháng giêng, khi mặt trận Như-nguyệt, Phú-lương diễn ra, thì Tín-Nghĩa vương đại phá quân Tu Kỷ, Đào Bật ở Vạn-xuân, rồi đổ bộ lên Bắc-ngạn sông Cầu, đánh phá hậu quân Tống ở đây.
Cũng đúng lúc đó, Trung-Thành vương đánh phá quân Tống đóng ở ngã ba sông Thương, sông Lục-Nam.
Trung-Thành vương gửi cho Tín-Nghĩa vương loan báo quân tình:
« ... Trong khi truy kích địch, Tuyên-vũ đại tướng quân, Tín-tâm hầu Triệu Thu với phu nhân Phàn Phương-Liễu tuẫn quốc. Giết chết phản tướng Lưu Báo, cầm tù tướng Giới Định, bắt năm vạn tù binh. Tất cả đều đưa về Thiên-trường. Đã đem hiệu Thần-điện về trấn Vạn-xuân, để hiệu Long-đực xuất chiến. Vậy ngày mai hiền đệ cho hai hạm đội tiến về gần Như-nguyệt hơn, rồi cho đổ bộ hai hiệu Hùng-lược, Vạn-tiệp lênBắc-ngạn sông Cầu, cách xa tổng hành doanh Quách Qùy 50 dặm. Ta đã tiến quân tới gần. Phải cố hư trương thanh thế, khiến Quỳ rút quân từ Cổ-pháp, Nam Như-nguyệt về ».
Sau khi gửi thư đi, vương họp chư tướng, rồi ban lệnh:
- Chúng ta lập tức tiến binh đến chân núi Nham-biền chiếm ngự núi này. Từ chân núi đến kho lương Quách Quỳ không xa. Như vậy thế bắt buộc y phải tung quân đánh ta. Ta lợi dụng địa thế cố thủ, trong khi y bắt đầu đánh ta, thì Tín-Nghĩa vương sẽ đổ bộ đánh vào sau lưng y.
Vương trầm tư một lúc rồi tiếp:
- Từ chân núi Nham-biền có con sông nhỏ chảy về hướng Nam. Vậy Trần Ninh, Ngọc-Hương đem hiệu Đằng-hải vượt sang phía Tây sông. Sau khi sang sông thì hai người cho đạo tả đóng đựa vào chân núi Nham-biền. Lý Ngũ, Mai-Ngũ đem đạo Đằng-hải hữu đóng trên sườn núi làm thế ỷ dốc. Dương Minh, Phương-Cúc đem hiệu Long-dực đóng bên bờ Đông con sông, rồi cho đạo tả đóng dưới chân núi. Còn đạo hữu thì cho Lý Lục, Mai-Lục chỉ huy đóng ở trên sườn núi.
Vương đứng dậy:
- Ta sẽ đi giữa hai hiệu binh. Thôi, ta lên đường.
Hai hiệu binh theo thứ tự lên đường. Đến giờ Dậu thì Trần Ninh sai chim ưng báo cho vương biết hai hiệu binh đã vượt sông, đang đóng trại. Vương thúc hiệu Long-dực tiến mau, để đóng trại trước khi trời tối.
Giữa lúc đó, có chim ưng đem lệnh của nguyên soái Thường-Kiệt:
« ... Phải tối cẩn thận, tại bản doanh của Quách Qùy hiện có Hoa-sơn tứ lão với đội võ sĩ hơn trăm người. Tứ lão kiếm thuật, võ công cao siêu không biết đâu mà lường. Đã cầu Mộc-tồn, Viên-Chiếu hòa thượng để đối phó với tứ lão. Lại được tin Liêu-Đông tam ma cùng mấy trăm ma đầu cũng có mặt. Đã cầu U-bon vương Lê Văn ».
Vương vội loan báo cho các tướng biết, rồi cùng vương phi dùng ngựa duyệt một vòng khu vực đóng quân của hai hiệu Đằng-hải, Long-dực. Thấy doanh trại đã hoàn tất, vương hỏi hai Đô-thống chỉ huy Ngao-binh, Ưng-binh:
- Các em phòng thủ như thế nào?
- Cách doanh trại bốn dặm, bọn thần đều cho bố trí ba phía ba đội Ngao-binh, trên trời một đội Ưng-binh. Cách hai dặm, lại cũng bố trí như vậy.
Vương yên tâm, nói mấy câu khen ngợi đám Ngao-binh, Ưng-binh, bởi chúng đều còn rất trẻ.
Giờ Hợi ngày 20 tháng giêng.
Trung-Thành vương với vương phi trở về trướng. Hai vị chưa kịp cởi giáp trụ, thì lại có chim ưng mang lệnh của Khu-mật viện tới báo tình hình Phú-lương, tình hình ở rừng tre, tình hình chiến lũy Cổ-pháp. Vương chú ý nhất đoạn:
« ... Đêm 21 sang ngày 22 tháng giêng, tiên nương Bảo-Hòa, công chúa Thiên-Ninh sẽ xử dụng hai hiệu Ngự-long, Quảng-thánh đột kích, tái chiếm Như-nguyệt. Vậy bằng mọi giá phải đem quân đến gần tổng hành doanh vào ngày 21 tháng giêng, uy hiếp, khiến Quỳ phải rút bớt quân ở Nam Như-nguyệt về. Trong đêm 21 rạng 22 đánh thẳng vào hành doanh Tống, để cầm chân Quách Quỳ, khiến y không thể tiếp viện cho Nam Như-nguyệt. Nếu không thể thực hiện được những điều này, để Quách Quỳ đem quân cứu Nam Như-nguyệt thì đạo quân của tiên nương Bảo-Hòa với công chúa Thiên-Ninh sẽ bị diệt. Tống chỉ việc thẳng đường tới Thăng-long... »
Vương nói với vương phi:
- Từ đây tới bờ sông Cầu không xa, ta phải thân đến bàn với chú Chiêu-Văn rồi mới quyết định được. Vậy em ở nhà đốc thúc Ngao, Ưng binh canh phòng cẩn thận.
Vương gọi Trần Ninh, Ngọc-Hương, Dương Minh, Phương-Cúc, Lý Ngũ, Mai-Ngũ, Lý Lục, Mai-Lục, đem theo đội Ưng-binh, Ngao-binh đi theo để liên lạc, rồi lấy ngựa lên đường. Khoảng hơn khắc sau, thì sông Cầu đã hiện ra trước mặt. Hai hạm đội dàn ra thành một hàng dài, đèn sáng như sao sa. Tín-Nghĩa vương đã được Ưng-binh báo trước. Vương thân lên bờ đón anh xuống soái hạm của hạm đội Thần-phù. Trong soái hạm đã có Côi-sơn tam anh, hai đô đốc Trần An, Trần Hải cùng Ngô Ức, Phương-Dược; Tạ Duy, Phương-Quế cùng vợ chồng Lý Thất, Lý Cửu.
Trung-Thành vương đọc lệnh của Khu-mật viện cho Tín-Nghĩa vương với cử tọa nghe. Trần Trung-Đạo cau mày:
- Trong lệnh này tôi thấy có một điều khó hiểu. Như triều đình đã nghị kế rằng quân ta chỉ bằng một phần mười quân Tống, nên ta phải đối phó bằng ba phương thức. Một là đóng trong chiến lũy kiên cố, lấy khỏe chống mệt, một người thủ, địch phải dùng mười để tấn công, chấp nhận tổn thất gấp mười ta. Hai là ta nhân họ không phòng bị, mà đột kích, tập kích, phục kích. Ba là tuyệt đối ta không nên tấn công địch. Hôm rồi, trong buổi nghị kế cuối cùng, triều đình giao cho chúng ta nhiệm vụ kéo đến đây hư trương thanh thế, để Quách Quỳ phải mang quân về giữ tổng hành doanh. Sau đó ta đổ bộ lên chiếm lại Nam ngạn Như-nguyệt. Thế mà bây giờ Khu-mật viện lại lệnh cho ta đánh vào tổng hành doanh Tống là điều nguy hiểm.
Ông nhấn mạnh:
- Tại hậu cứ Bắc ngạn chiến lũy Như-nguyệt, Tống còn tới mười lăm vạn binh, nhất là hơn vạn kị binh cực kỳ tinh nhuệ. Nếu ta tấn công Tống, thì không khác gì tự tử. Tôi nghĩ, tướng ngoài mặt trận không nhất thiết phải nghe lệnh vua. Ta chỉ cho dàn quân hư trương thanh thế mà thôi. Chiều mai, dù Quách Quỳ có rút quân từ Nam ngạn về hay không, ta cũng dùng hai hạm đội này phá phù kiều, rồi đổ bốn hiệu Đằng-hải, Long-dực, Hùng-lược, Vạn tiệp lên đánh chiếm lại chiến lũy Như-nguyệt.
Tín-Nghĩa vương rùng mình:
- Thưa sư bá, tại Nam Như-nguyệt, Tống có sáu đạo binh 10, 11, 12, 13, 14, 15. Lại thêm cánh quân của Miêu Lý ở Cổ-pháp có sáu đạo 4, 5, 6, 7, 8, 9 với đạo kị binh; dù rằng sau hai đợt tấn công Cổ-pháp, Miêu Lý bị thiệt hại nặng. Cả hai cánh quân hợp lại đông gấp ba ta, làm sao ta địch lại chúng?
Trung-Thành vương đứng dậy, vương đưa mắt nhìn cử tọa một lượt rồi cất tiếng trầm trầm:
- Thế nước đang chông chênh như trứng trồng trên đá, lập lờ như ngọn đèn hết dầu. Vậy chư tướng có kế gì không?
Vân-ma thượng tướng quân Trần Ninh đứng dậy nói lớn:
- Thưa vương gia, điều quan trọng là ta phải làm sao cho Tống rút từ Cổ-pháp, từ Nam ngạn Như-nguyệt về Bắc ngạn, rồi ta tái chiếm chiến lũy. Bấy giờ chỉ cần hai hiệu binh trấn ở đấy, cũng khiến Tống không thể đánh nổi. Vì đánh thì phải hy sinh mười vạn quân, muôn ngàn lần Quách Quỳ không dám. Ví dù y tàn nhẫn, cứ hy sinh thì sau khi chiếm được Như-nguyệt lần nữa, y không còn quân đánh Thăng-long.
Trung-Thành vương gật đầu công nhận lý luận của Trần Ninh. Trần Ninh tiếp:
- Theo đệ thì chúng ta chỉ cần một đạo quân đánh cảm tử, đột kích vào hậu cứ Tống. Đường lối này, chỉ cần một mạng Việt đổi năm mạng Tống, cũng khiến Tống mất năm vạn quân. Như vậy ắt y phải rút quân về để củng cố tổng hành doanh.
Trần Trung-Đạo nhíu mày lại:
- Phải tìm ra kế khác, hơn là đem cả vạn người chết một lúc ta thấy ghê quá. Không nên.
Trung-vũ đại tướng quân, Kính-Tâm hầu Dương Minh đứng dậy nói:
- Thưa sư bá! Thiếu-bảo Bùi Hoàng-Quan với phu nhân dám đem một đổi mười ở Ngọc-sơn. Quang-lộc đại phu Nguyễn Căn, với phu nhân Vũ Thanh-Thảo; Mai Cầm, Phương-Đơn; Quách Y, Phương-Liễu; đã hy sinh ở Như-nguyệt để đổi một lấy mười một. Phò mã Hoàng Kiện, công chúa Động-Thiên; Trần Di, Phương-Lý đã hy sinh ở Phú-lương để đổi một lấy tám. Vũ Quang, Võ Kim-Liên đã hy sinh ở Cổ-pháp để đổi một lấy mười ba. Triệu Thu, Phương-Lý đã hy sinh ở Nham-biền để đổi một lấy bẩy. Hơn thế nữa Đinh Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh dám đột kích ở Khâm-châu, đốt lương thảo, làm rúng động triều đình Tống. Không chừng giờ này Lý Đoan, Trần Ngọc-Liên sắp hy sinh ở Yên-dũng để đổi một lấy mười bốn. Công chúa Thiên-Ninh, Phạm Dật, Lê Kim-Loan cũng sắp hy sinh ở Như-nguyệt để đổi một lấy mười lăm. Người trước hy sinh được, không lẽ bọn cháu lại lùi bước trong trận này?
Nói xong hầu ngồi xuống.
Ninh-viễn đại tướng quân, Dũng-Tâm hầu Tạ Duy đứng dậy tiếp lời bạn:
- Khải vương gia! Thưa sư bá. Sự thể cần phải hy sinh, thì ta phải hy sinh. Nếu như ta không đánh cảm tử, thì đạo quân của tiên nương Bảo-Hòa sẽ bị diệt. Đạo quân này bị diệt thì nước mất. Nước mất thì chúng ta chẳng còn mặt mũi nào nhìn trăm họ, rồi cũng đến tự tử mà chết. Vậy chi bằng ta chết trước, mà nước còn, hơn là chết sau, mà nước mất.
Chư tướng cùng vỗ tay hoan hô lý luận của Tạ Duy.
Trung-Thành vương đưa mắt nhìn em. Chỉ nhìn nét mặt em, vương biết rằng em mình đồng ý những gì đám tướng trẻ đề nghị. Vương gõ tay xuống án thư để cho cử tọa chú ý rồi nói:
- Thế bắt buộc chúng ta phải chấp nhận đường lối hành động của Tạ Duy. Muốn một mạng đổi mười mạng, thì ta không thể tấn công vào trại Tống, mà ta phải dụ cho Tống tấn công ta. Vậy thì thế này: Ngay đêm nay tôi cho hai hiệu Long-dực, Đằng-hải củng cố lại vị trí cho thực chắc. Sáng mai hai hiệu Hùng-lược, Vạn-tiệp cũng đổ bộ lên, tiến về Nham-biền hư trương thanh thế. Như vậy thế bắt buộc Tống phải xuất trại giao chiến với ta.
Trần Trung-Đạo hỏi:
- Nhược bằng Quách Quỳ không cố thủ trong trại, không chịu xuất quân thì sao?
- Bấy giờ ta mới dùng một hiệu đánh cảm tử vào trại Tống như Tạ Duy đề nghị.
Tín-Nghĩa vương hỏi:
- Trong bốn hiệu Long-đực, Đằng-hải, Vạn-tiệp, Hùng-lược, hiệu nào sẽ lĩnh nhiệm vụ đánh cảm tử?
Cả bốn tướng Trần Ninh, Dương Minh, Tạ Duy, Ngô Ức đều dơ tay xin lĩnh nhiệm một đi không trở lại này. Vương-phi Tín-Nghĩa Lê Ngọc-Nam là người cùng quê với Long-biên ngũ hùng. Thời thơ ấu, ngũ hùng cùng phi sống với nhau ở Thổ-lội, bề ngoài thì là chị em, nhưng tình cảm như mẹ với con. Vương-phi đưa mắt nhìn Vân-ma thượng tướng quân Nhu-tâm hầu Trần Ninh... trong lòng phi muốn cho em mình được lĩnh cái nhiệm vụ vinh dự này. Đúng lúc đó hầu cũng đưa mắt nhìn phi. Chị em cùng hiểu ý nhau. Vương-phi nói với Trung-Thành vương:
- Thưa vương huynh, theo muội nghĩ thì hiệu Đằng-hải hiện đóng gần trại Tống nhất, ta nên để hiệu Đằng-hải lĩnh nhiệm vụ đánh cảm tử vào trại Tống là hợp lý.
Ba tướng Dương Minh, Ngô Ức, Tạ Duy cùng lắc đầu, xua tay tỏ ý phản đối. Định-viễn đại tướng quân, Huệ-Tâm hầu Ngô Ức nói:
- Thưa vương phi, chúng em đều cầm quân như nhau, đều là con cháu vua Hùng như nhau, tại sao anh Trần Ninh lại được lĩnh nhiệm vụ này, mà không phải là Dương Minh, Tạ Duy hay em. Để công bằng, chúng em xin cho được rút thăm.
Tín-Nghĩa vương đưa mắt nhìn vương phi, như ngụ ý rằng: Anh cũng muốn chiều em. Nhưng, vụ này thì không thể.
Trần Phụ-Quốc được chỉ định làm thăm. Ông sang khoang bên cạnh, lấy ra bốn mảnh giấy. Ông dùng bút viết vào một mảnh chữ :
« Xã tắc lao tưởng,
Anh linh vạn đại
»,
Còn bốn mảnh để trắng, rồi gấp lại, đem ra trước cử tọa.
Trần Bảo-Dân hú lên gọi một chim ưng vào. Ông chắp tay hướng lên trời khấn:
- Xin liệt tổ Đại-Việt chọn cho chúng con một trong bốn tướng vì nước quên mình, giết giặc bảo vệ đất tổ.
Con chim ưng dùng mỏ gắp một thăm đưa đến trước mặt Trần Ninh. Hầu run run bóc ra. Thăm của hầu là thăm trắng. Hầu xịu mặt xuống nhìn vương phi Ngọc-Nam rồi lắc đầu. Chim ưng lại mổ một thăm đem đến trước mặt Tạ Duy. Hầu mở thăm ra, lại cũng thăm trắng. Cử tọa nhìn Ngô Ức, Dương Minh trong lòng cực kỳ hồi hộp.
Phụ-Quốc lại ra lệnh cho chim ưng, nó mổ một thăm đưa đến cho Trung-vũ đại tướng quân, Kính-Tâm hầu Dương Minh. Phu nhân là Phương-Cúc tiếp lấy thăm. Trong khoang thuyền có tới hơn trăm người, mà không một tiếng động, mọi người đều mở to mắt nhìn Phương-Cúc. Vì quá cảm động, tay phu nhân run run. Thăm vừa mở, hầu reo lên:
- Ha! Ha! Ha!
Phương-Cúc cầm lấy thăm có chữ « Xã-tắc lao tưởng. Anh linh vạn đại » trao cho Trung-Thành vương. Cử tọa đều lên tiếng chúc mừng Dương Minh, Phương-Cúc.
Dương Minh, Phương-Cúc hỏi Trung-Thành vương:
- Thưa vương gia, hiện sư huynh Lý Lục, sư tỷ Mai-Lục làm phó thống lĩnh hiệu Long-đực. Vậy trong trận này, sư huynh, sư tỷ có được đi theo không?
Trung-Thành vương cười:
- Liệt tổ chọn là chọn hiệu Long-dực chứ đâu có chọn em với Phương-Cúc? Sư huynh Lý Lục, sư tỷ Mai-Lục là phó thống lĩnh hiệu Long-dực thì đương nhiên cũng được đi chứ.
Trong Thập-bát kim cương, thì vợ chồng Lý Lục thâm trầm, nhiều mưu trí nhất, võ công cao thâm nhất. Không ai hiểu tại sao, hai người còn trẻ như vậy mà Trung-Thành vương lại gọi là sư huynh, sư tỷ?
Cử tọa lại chúc mừng vợ chồng Lý Lục.
Tín-Nghĩa vương ban lệnh cho Dương Minh, Phương-Cúc:
- Trong Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt thì vợ chồng em là người thâm thầm, mưu trí nhất. Nay liệt tổ đã chọn các em để vào hang hùm giết giặc. Ta không thể không chấp thuận. Phàm đột kích thì phải nhẹ nhàng. Vậy khi lên đường, Dương đệ truyền cho hiệu Long-dực bỏ hết vũ khí , dụng cụ kềnh càng, chỉ mang theo đoản đao, lá chắn thôi. Trong thuật đột kích cần nhiều thú binh. Vậy ngay bây giờ trở về, Trần Ninh giao tất cả đội Hổ, Báo, Sói, Voi, Thạch-xa, Nỏ-thần trực thuộc tăng viện cho Dương Minh. Ngược lại Dương Minh trao đội Lôi-tiễn nặng nề cho Trần Ninh.
Vương ngừng lại cho chư tướng theo kịp:
- Nội ngày mai, ta cho hai hiệu Hùng-lược, Vạn-tiệp đổ bộ lên bờ, rồi đóng trại liên tiếp với hiệu Đằng-hải. Tế-tác Tống ắt báo cho Quách Quỳ biết. Nếu y đem quân xuất trại đánh ta, thì là điều ta mong mỏi. Còn như y không chịu xuất quân, thì đêm mai Dương Minh sẽ đột kích vào trại chúng. Khu trại Tống gần ta nhất là doanh ba. Nhớ khi vào trại Tống rồi, thì đánh như vũ bão, đánh nhanh như chớp, xuyên từ Đông sang Tây. Khi đánh tới trung ương, lại đánh tỏa ra hai hướng hướng Nam, Bắc rồi rút lui.
Vương ra lệnh cho Trần Ninh, Ngô Ức, Tạ Duy:
- Trong khi Dương Minh đột kích vào trại giặc, thì các em đem Lôi-tiễn đến gần trại Tống. Lúc thấy trong trại Tống có tiếng quân reo, thì nã Lôi-tiễn vào doanh một, doanh hai, để gây rối loạn, khiến chúng không thể xuất quân truy kích. Nhược bằng chúng truy kích, thì ta mở cổng trại cho hiệu Long-dực vào, rồi cố thủ ở trong.
Buổi họp chấm dứt.

Cổng ngoài đền thờ công chúa Thiên-Ninh (Bà chúa Kho) ở Bắc-ninh. (Hình chụp tháng 8 năm 2001)
Cổng trong
Chính điện

(Xin cáo lỗi, bạn CDDLT không "scan" được hình.)

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 168
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com