watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
15:45:1726/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50 - Trang 18
Chỉ mục bài viết
Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Trang 37
Trang 38
Trang 39
Trang 40
Trang 41
Tất cả các trang
Trang 18 trong tổng số 41



Chương 39b

Công-chúa Kim-Thành lắc đầu:
- Phối trí như vậy, cánh tả, cánh trung ương rất vững, vì có tới hai phòng tuyến. Duy cánh hữu, thì đồn Ngọc-sơn trấn ở Vĩnh-an, trực diện với Tống, vừa là phòng tuyến một, vừa là phòng tuyến hai, thì rất nguy hiểm.
- Khải cô-mẫu, thần-nhi cũng biết vậy, nhưng nếu như Tống đánh Ngọc-sơn xong, thì cũng không thể tiến về Thăng-long ngay, mà phải vòng sang phía Tây, vì họ sẽ bị thủy quân rất hùng hậu của ta chạn đánh ở các cửa sông .
Tiên-nương Bảo-Hòa hỏi:
- Xưa nay việc cố thủ trong các đồn, các ải quan trọng nhất là lương thảo. Nay mục đìch ta kéo dài cuộc chiến thì việc tiếp tế lương thảo tối cần thiết. Nếu cất lương trong ải nhiều, thì sợ Tống dùng hỏa công bắn vào đốt cháy; hoặc giả ải thất thủ thì lương đó lọt vào tay giặc, giặc dùng lương đó nuôi quân đánh ta, hóa ra ta nối giáo cho giặc sao? Còn như để ở ngoài, thì ải bị vây lâu ngày, sao có thể tiếp tế được?
Thường-Kiệt chỉ công chúa Thiên-Ninh:
- Tấu sư-phụ, về lương-thảo, thì Bà-chúa-kho sẽ trình sư -phụ.
Tiên-nương Bảo-Hòa là sư-phụ vua Thánh-tông với Thường-Kiệt, sau ngài lại thu công chúa Thiên-Ninh làm đệ tử út. Vì tuổi của công chúa với tiên nương quá cách xa, vì liên hệ sư đồ đã hai đời, nên công chúa được tiên nương yêu thương nhất trong các đệ tử. Từ lúc tiên nương nhập điện, người đã kéo công chúa cho ngồi bên cạnh như bà với cháu. Bây giờ nghe Thường-Kiệt nói việc cung ứng lương thảo do công-chúa đảm trách, tiên nương cầm tay công chúa:
- Ninh nhi! Con mà lo việc lương thảo thì sư phụ yên tâm lắm. Vậy kế hoạch ra sao?
Công chúa trình:
- Thưa sư phụ, về lương của phòng tuyến thứ nhất không do đệ tử đảm trách; vì lực lượng chiến đấu là hoàng nam, họ dùng lương của trang động tích trữ. Tại ải Đồn-sơn, thì do thủy quân tiếp tế, như vậy ải này được bảo đảm. Còn lương ải Đâu-đỉnh, Quyết-lý, Chi-lăng, con cho tích trữ đủ dùng trong ba tháng, lương đều cất dưới hầm rất kiên cố. Trong kho lương con chất thêm một ít hoàng thạch, mã não. Khi đồn thất thủ hay phải rút, thì chỉ cần một mồi lửa là kho lương bị cháy sạch, giặc không thể dùng lương của ta nuôi quân được.
Tiên nương vuốt tóc công chúa:
- Con thực xứng đáng với danh hiệu Bà-chúa-kho. Còn như nếu quân giữ ải không được, phải rút vào rừng, thì dùng lương thảo đâu để sống?
- Dạ, hồi đánh Tống, ta có thu được một số lương thảo khá lớn, con đã cho vận tải về chất ở hai kho lớn, một là ở núi Vạn-nhai, hai là ở Nam Chị-lăng. Đó là lương dùng tiếp tế cho ba ải Đâu-đỉnh, Quyết-lý, Chi-lăng dùng trong thời bình, trong lúc ải chưa bị vây. Trong rừng Vạn-nhai, Quyết-lý, Chi-lăng, con đều cất dấu lương thảo gồm cá khô, tôm khô, thịt khô, mắm, gạo, đậu, đường, dưới những hầm xây bằng đá. Vị trí hầm này rất bí mật, chỉ các chúa tướng mới biết mà thôi. Nếu quân các ải rút vào rừng, thì chúa tướng cho đào hầm lấy lương cho binh dùng. Ngoài ra con còn gửi lương ở nhà dân; khi cần thì hoàng nam, hoàng nữ, ông già bà cả bí mật vận tải, tiếp tế cho quân.
Tiên nương hài lòng hướng Thường-Kiệt:
- Được! Con tiếp đi.
Ông chỉ lên bản đồ:
- Nếu như Quách Quỳ vượt được hai phòng tuyến đầu, thì sẽ gặp phòng tuyến thứ ba. Phòng tuyến này đệ tử lập ở phía Nam ngạn sông Như-nguyệt kéo dài từ núi Tam-đảo tới Vạn-xuân. Ngay phía Nam sông Cầu, núi Tam-đảo, đệ tử cử phò mã Thái-úy Hoàng Kiện, với công chúa Động-Thiên trấn thủ. Chính giữa ở khúc sông Như-nguyệt, đích thân đệ tử trấn thủ. Phía cuối, nơi ngã ba sông Thương, sông Lục-Nam đổ vào Vạn-xuân, đệ tử để hai hàng tử Hoằng-Chân, Chiêu-Văn trấn thủ. Trên bờ sông, đệ tử cho đắp đất cao đến ba trượng (6m ngày nay), bên ngoài cắm chông, gai lởm chởm. Vì như sau khi Quỳ phá được hai phòng tuyến đầu, chúng muốn vượt sông thì phải có thủy quân chở qua. Nhưng thủy quân không có, chúng chỉ co thể đóng bè. Bè e không chở được nhiều quân. Mà có chở được nhiều, cũng khó lọt vào trong chiến lũy.
Công chúa Kim-Thành hỏi:
- Như vậy, trong mười hai hiệu Thiên-tử binh, chỉ có hiệu Quảng-vũ trấn ở Chi-lăng, còn mười một hiệu đều dàn ra từ Tam-đảo tới Vạn-xuân cả. Tại sao con không dùng Thên-tử binh trấn ở phòng tuyến thứ nhất, thứ nhì?
Thường-Kiệt cúi đầu xuống, trán ông cau lại rồi đưa mắt nhìn Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt:
- Khải cô mẫu, chiến lược phòng thủ của ta là kéo dài thời gian của Tống. Mà kéo dài thời gian, thì không gì bằng dùng hoàng nam của làng xã, tráng đinh trang động. Thiên-tử binh không dùng được trong trường hợp này. Giả dụ như dùng Thiên-tử binh trấn hai phòng tuyến đầu, thì khi hai phòng tuyến này vỡ, ta không còn quân bảo vệ Thăng-long.
Công chúa Kim-Thành lắc đầu:
- Con trình bầy như vậy, thì cô không hiểu nổi. Giả như hai phòng tuyến đầu, ta sai Thiên-tử binh giữ, lỡ có vỡ, thì cho rút lui về phòng tuyến ba, và Thăng-long cũng được chứ có sao đâu?
Thường-Kiệt trầm ngâm không nói. Tiên nương Bảo-Hòa, vua bà Bình-Dương linh cảm thấy người đệ tử, người cháu mình tài trí bậc nhất Đại-Việt, nhưng dường như có điều gì khó khăn, mà nói không được. Cả hai cùng đưa mắt nhìn nhau, rồi hỏi:
- Ta là sư phụ con, Bình-Dương là cô con. Chúng ta yêu thương con thế nào, trong bốn mươi năm qua, con biết rồi đó. Nay con lo việc nước, nếu có lỗi gì ta cũng khoan thứ. Vậy con cứ nói ra đi.
Thường-Kiệt lột mũ, phục xuống hành lễ:
- Tấu sư phụ, tấu tam vị cô mẫu. Con tuy lãnh trọng trách, nhưng vì bạc đức, nên không điều khiển nổi một số tướng.
Cả ba công chúa Bảo-Hòa, Kim-Thành, Trường-Ninh cùng Thiếu-Mai đều kinh ngạc. Công chúa Kim-Thành rút thanh Thượng-phương bảo kiếm ra, mắt phượng quắc lên:
- Ai? Ai dám chống lệnh con, con cứ đem ra chặt đầu. Con sợ ư? Ai? Con nói ra đi, ta chặt đầu nó ngay tức thời.
- Không phải chư tướng chống lệnh, mà tất cả mười hai vạn binh sĩ trong mười hai hiệu Thiên-tử binh đều quá cứng.
Linh-Nhân hoàng thái hậu lên tiếng:
- Kính chị, nguyên do thế này. Hồi Quốc-phụ còn tại thế, người soạn ra một thiên binh thư, dùng chủ đạo tộc Việt luyện quân. Binh thư này chưa truyền ra ngoài, chỉ mới dạy cho Trung-Thành, Tín-Nghĩa nhị vương. Nhị vương đem giảng cho Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt. Mười bốn tướng trẻ lại đem ra luyện binh. Trong binh thư của Quốc-phụ, thì chỉ dạy tiến, chứ không dạy thoái. Phàm khi lâm trận, khi có lệnh xung phong, thì bất cứ binh tướng nào đứng nguyên, lùi lại, quay nhìn về sau, đều bị chém tại chỗ. Vì giáo huấn lâu ngày, những điều đó nhập tâm, trở thành Kinh-Việt; chư tướng, chư vương thuộc nằm lòng ví như nho gia thuộc Luận-ngữ vậy. Nên chi, nếu như thượng cấp ra lệnh rút lui, bỏ chạy, thì họ quyết bất tuân. Họ tự coi là điều xỉ nhục nhất trên đời, họ sẽ tự tử ngay tại trận.
Hậu kể:
- Hồi ta đem quân đánh Tống, trong trận Đại-giáp, một Thiên-tử binh gác ở dưới chân núi, bị mười quân Tống tấn công. Y can đảm chống trả, khi sáu binh Tống bị giết, thì y cũng bị thương. Y bỏ chạy, phiá sau bốn địch quân đuổi theo. May đâu, y được các bạn tiếp cứu, giết hết bốn kẻ thù. Sau này luận công, y được thăng chức ngũ-trưởng. Nhưng bốn Thiên-tử binh đặt dưới quyền y không chịu y, lấy lý do rằng người chỉ huy chúng đã chạy trước quân Tống thì không xứng đáng để chúng tuân lệnh. Rồi bạn hữu chế diễu y khốn khổ. Nào « liên tử banh » (hạt sen vỡ) chứ không phải là Thiên-tử binh, nào là « Không phải là con Rồng, cháu Tiên, đệ tử thánh Gióng, mà là con thằn lằn, cháu điên, đệ tử võ phái cầy sấy». Cuối cùng y tự tử chết, bấy giờ các bạn mới làm ma linh đình cho y và khen là người biết tự trọng.
Tiên nương Bảo-Hòa hiểu ngay:
- À thì ra thế, nên Kiệt nhi không thể cho Thiên-tử binh trấn ở tuyến thứ nhất, thứ nhì; vì lỡ ra khi quân Tống đông quá, Thiên-tử binh chỉ biết tiến, không chịu thoái rồi hy sinh hết, cuối cùng không còn quân bảo vệ phòng tuyến thừ ba. Có phải thế không?
- Tấu sư phụ vâng.
Tiên-nương cau mày suy nghĩ:
- Ta hiểu! Chính vì thế, mà trong trận Ung-châu, tất cả các tướng chỉ huy mười hai hiệu Thiên-tử binh nhất quyết rằng Ung-châu chưa hạ, họ không chịu lui binh. Kết quả Ung châu hạ được, mà dân, quân Tống chết nhiều quá, khiến Tôn Đản, Cẩm-Thi bỏ đi mất tích. Bây giờ ta mới hiểu.
Tiên nương hỏi Trung-Thành vương:
- Hoằng-Chân, em không thể giáo dục lại binh sĩ được sao?
- Thưa chị, em không muốn giáo huấn quân mình đang từ những dũng sĩ can đảm thành những kẻ hèn nhát. Mà em có muốn làm, thì vợ chồng bọn Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt, cộng hai mươi tư người này họ cũng không nghe theo.
Vương cười:
- Không phải mình em với Chiêu-Văn, Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt... đâu, mà cả Hoàng Kiện Động-Thiên, Thiên-Ninh; thêm vợ chồng Bùi Hoàng-Quan, vợ chồng Nguyễn Căn, Dư Phi nữa, tới ba mươi sáu đứa kia. Tất cả đều nhất quyết giữ nguyên ý chí này. Chị thử tưởng tượng xem, chúng em là con Rồng, cháu Tiên, hậu duệ của Phù-đổng thiên vương, của vua Trưng mà phải lùi trước bọn cướp nước, thì... thì thà chết quách đi cho rồi. Lùi, chạy, thì nhục lắm, nên bọn em chỉ tuân lệnh anh Thường-Kiệt để tiến, chứ không tuân lệnh anh ấy lùi đâu.
Vua bà Bình-Dương lắc đầu than:
- Khó quá. Trọn đời ta, với chị Bảo-Hòa, Thiếu-Mai, Kim-Thành, Trường-Ninh; mỗi lời nói, đến uy quyền như đức Thái-tông, Thánh-tông bên Đại-Việt cho đến Nhân-tông, Anh-tông bên Tống; hét ra lửa, mửa ra khói như Kinh-Nam vương, Mộc-tồn Vọng-thê hòa thượng... nhất nhất nghe theo. Mà nay bọn trẻ ba mươi sáu đứa bay, lại bất tuân lệnh. Để ta sang thỉnh Quốc-mẫu giải quyết vụ này.
Công chúa Côi-sơn Trần Thanh-Nguyên nắm tay vua bà:
- Chị Mỹ-Linh à! Chị có biết rằng mấy thiên sách mà Quốc-phụ soạn để luyện thần cho binh tướng là ý kiến của chị Thanh-Mai không? Bây giờ chị muốn gặp bà ấy, để bà ấy đổi ý ư? Khó lắm. Chị đi tu, hiền lành quá thì cãi không lại bà chằng tinh đâu.
Thấy mặt vua bà không vui, Thanh-Nguyên cười:
- Chị giận đấy à? Chị đi tu thành Phật bà rồi, mà còn nổi cơn A-tu-la hay sao? Báo cho chị biết, không phải ba mươi sáu đứa trẻ đâu, mà em với Tôn Mạnh, không hẹn, cũng đồng ý với chúng. Thế là ba mươi tám người chứ không phải ba mươi sáu đâu.
Tiên vương Bảo-Hòa hỏi Thần-vũ thập anh, Thập-bát Kim-cương:
- Còn các con, các con có theo các tướng kia không?
Hùng Nhân cung tay:
- Kính tiên nương, sư phụ của chúng con dạy rằng: Mũi nhọn dễ gẫy. Phàm làm tướng, thì phải biết lẽ tiến lui. Khi thấy không đánh được, thì ta tạm lui. Khi thấy thắng được địch, thì ta phải đánh đến cùng.
- À, có thế chứ.
Tiên nương Thiếu-Mai hỏi Trung-Thành vương:
- Hiện quân Tống đã tiến tới đâu rồi?
- Trình sư thúc, hiện giờ thì Quách Qùy đã tới Quế-châu. Y cho Lý Thật đem đạo quân hữu đệ nhất xuống đắp lại thành Ung-châu. Hồi ta sang đánh Tống, các trang trưởng khê động Tống ở vùng Tả-giang, Hữu-giang phải theo ta. Nay họ lại theo về Tống, đó là bọn Nùng Quang-Lâm, Nùng Thịnh-Đức coi ải Hạ-lôi. Y lại sai bọn Khúc Chẩn, Đào Bật đem bằng sắc vào các trang động của ta vừa đe dọa, vừa chiêu hàng. Hiện cho đến nay chưa trang động nào hàng Tống cả.
Đến đây tiên nương Bảo-Hòa, Thiếu-Mai cùng công chúa Kim-Thành, Trường-Ninh cáo từ sang dinh Quốc-phụ thăm Quốc-mẫu Thanh-Mai, để thỉnh người ban chỉ cho đám tướng trẻ cứng đầu.
Linh-Nhân hoàng thái hậu tuyên chỉ:
- Về vệc dân chúng Thăng-long náo loạn, nguyên do từ đâu?
Trung-Thành vương tâu:
- Nguyên trước đây, mấy công tử họ Dương như Đức-Huy, Đức-Nhàn, Đức-Minh thường ỷ thế cha, anh lêu lổng ăn chơi ở Thăng-long, kết thân với bọn du thủ, du thực thành đảng. Buồn thay trong đám đó, có một tên tương đối thuộc loại tài trí tên Nguyễn Dư, em của Trấn Bắc thượng tướng quân Nguyễn-Căn, theo làm quyân sư cho bọn chúng. Hồi Dương gia nổi loạn, bọn này được trọng dụng. Lúc Dương gia bị dẹp, tên Nguyễn Dư bỏ theo bọn Triệu Tiết. Nay Triệu Tiết đem bọn này về làm hướng đạo. Chính Nguyễn Dư đã thư cho bọn dư thủ, du thực ở Thăng-long phao tin bất lợi cho ta. Thần đã bắt những tên tay sai này đem ra chợ chém đầu rồi.
Linh-Nhân hoàng thái hậu hỏi phu nhân của tướng Nguyễn Căn là công chúa Vũ Thanh-Thảo:
- Chị Thảo à! Trong Hồng-hà ngũ long, chị là người có tài cảm hóa người nhất, sao chị không cảm hóa tên Dư, để đến nỗi truyện xẩy ra như vậy?
- Tâu Thái-hậu! Khi thần làm dâu họ Nguyễn, thì tên Dư đã trưởng thành. Trong nhà, y là em sinh đôi với anh Căn. Thoạt trông, ai cũng tưởng y là anh Căn. Y chuyên giả anh Căn đi làm không biết bao nhiêu truyện đốn mạt. Vô học, bất thuật, y sống nhờ vào các anh. Các anh đều là những người có kiến thức, có tài, có địa vị, nhưng y không theo các anh, mà cúi đầu làm đầy tớ, theo hầu hạ tên lưu manh họ Dương. Vì vậy, thần vô dụng với y.
Bãi triều.
Hôm ấy là ngày Tân Dậu, tháng bẩy, niên hiệu Thái-Ninh thứ năm-84
Tại đồn Ngọc-sơn thuộc châu Vĩnh-an, nằm giữa biên cương Hoa-Việt.
Trấn-viễn thượng tướng quân Gia-viễn hầu Bùi Hoàng-Quan, cùng phu nhân Trần Ngọc-Huệ dậy thực sớm; hai vị vừa ăn điểm tâm vừa bàn luận với nhau. Phu-nhân nói:
- Kể ra, từ hôm chúng ta ra trấn ở đây đã bốn tháng, ngày ngày thao luyện sĩ tốt chờ giặc, chả biết bao giờ giặc mới tới. Em chỉ mong chúng đừng đến là hơn hết.
Hầu phì cười:
- Em nói! Bọn Quách Quỳ, Triệu Tiết, Khúc Chẩn, Tu Kỷ, Yên Đạt từng sang Đại-Việt mình nhiều lần, lại biết nói tiếng Việt. Nay chúng được mang quân đánh mình, thì chúng phải biết rằng: Muốn đánh vào Thăng-long, thì phải chiếm cho được cánh trái là vùng Tam-đảo, cánh phải là Ngọc-sơn. Bằng không thì sẽ bị cắt đường vận lương. Anh sợ chúng đánh mình trước là khác.
- Từ ngày em được Linh-Nhân hoàng thái hậu đem về Thăng-long gửi vào trường xin sư phụ, sư mẫu thu làm đệ tử, thấm thoát đã mười ba năm. Nghĩ lại thời gian qua mau thực. Anh thì đã có dịp xử dụng những gì học được. Còn em, thì vẫn phụ tá cho Thái- hậu những vấn đề liên quan đến bộ Lễ như phong thần, cải cách phong tục, chỉnh dốn học phong. Mãi đến nay mới được rời kinh thành ra cầm quân để xử dụng võ công. Sau trận giặc này, đất nước mình thanh bình, em nghĩ chúng mình cáo quan về điền dã, ngao du sơn thủy như Kinh-Nam vương, hay trồng hoa nuôi tằm như sư phụ, sư mẫu em. Đấy mới là hạnh phúc.
- Kể ra em học võ với ông bà Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản, bản lĩnh cao thâm, mà chưa có dịp xử dụng, thì cũng đáng tiếc. Còn anh, anh làm tướng, mà bản sự lại chẳng lằm bao. Nghĩ cũng chán.
- Anh nói! Thời Lĩnh-Nam, công chúa Phùng Vĩnh-Hoa, Thánh-Thiên võ công đâu có cao, mà cũng làm đại tướng đánh những trận kinh thiên động địa? Em nghe Thái-hậu nói: Anh là một tướng có tài dùng binh, tính lại cẩn thận, nên mới chịu cho mình trấn ở đây đấy chứ.
Nghe phu nhân nói, hầu mỉm cười. Từ ngày thánh hôn đến giờ, đã mười ba năm, hầu với phu nhân luôn hợp truyện về quốc sự, có khi bàn luận suốt đêm không ngủ. Hầu chỉ tay lên trời:
- Chim ưng bay tuần phòng trong tư thái an nhàn thế kia, thì giặc chưa tới đâu. Hôm qua tin của công chúa Thiên-Thành báo Quách Quỳ sai Lý Thật mang đạo quân hữu đệ nhất xuống đóng ở Ung-châu mà thôi. Đại quân Tống hiện chưa tới biên giới. Đối diện với ta là Khâm-châu, do Nhâm Khởi trấn nhậm. Y chỉ có quân bảo-giáp, tân đằng hải mới tuyển mà thôi. Nếu như Nhâm muốn đánh ta, thì ít ra cũng phải cả tháng nữa.
Nguyên hôm dự buổi thiết Tinh-triều ở Thăng-long, Thái-tử thiếu-bảo, Trấn-viễn thượng-tướng quân, Gia-viễn hầu, Binh-bộ tham-tri, Khu-mật viện sứ Bùi Hoàng-Quan tình nguyện ra trấn ở châu Vĩnh-an. Khi trao nhiệm vụ cho hầu, Đại-tư-mã Lý Thường-Kiệt nhấn mạnh rằng: Hầu đi lần này, thì chín phần chết mới có một phần sống, cần phải suy nghĩ cho kỹ. Hầu đâu phải là người ngu mà không biết truyện đó? Nhưng hầu nghĩ khác: Ông nội của hầu làm tới tể thần thời vua Thái-tổ, phụ-thân hầu là Bùi Hựu làm tới Thái-sư đời vua Thái-tông, Thánh-tông. Hầu lại được chính vua Thánh-tông ưu ái hỏi vợ cho. Vậy hầu không nhận nhiệm vụ nguy hiểm này thì để cho ai bây giờ?
Phu-nhân của hầu là Trần Ngọc-Huệ, bạn tâm giao thời thơ ấu của Linh-Nhân hoàng thái hậu. Suốt mấy năm qua, phu-nhân làm việc bên cạnh thái-hậu, như một phụ tá về Lễ-bộ, chỉ quanh quẩn ở Thăng-long. Trong khi đó cháu gọi hầu bằng chú là Bùi Phương-Lý cùng chồng là Trần Di sát cánh bên nhau chỉ huy hiệu Thiên-tử binh Vũ-thắng, dự cuộc Bắc-chinh, thực là oanh liệt; phu nhân nảy ra ý muốn cùng chồng ra trấn biên cương. Bà xin Linh-Nhân hoàng thái hậu chuẩn cho mang đội nữ binh trực thuộc theo giúp chồng.
Biết rằng cho hầu với phu nhân đi lần này, khó mà trở về an toàn, nhưng Thái-hậu lại nghĩ: Việc khó khăn, nguy hiểm này, phi người cực thân, khó ai dám hy sinh cho xã tắc. Vì vậy Thái-hậu thầm nuốt lệ rồi tiễn đi. Hậu cầm tay phu nhân dặn:
- Kể ra, trấn thủ ải địa đầu Vĩnh-an là nơi biên khích, một đi không trở lại này, cần phải có người tâm phúc, tín cẩn. Mà tâm phúc giữa Ngọc-Huệ với Yến-Loan, thì không ai có thể sánh. Mình để Ngọc-Huệ đi, mà trong lòng lại có chỗ bất nhẫn.
Hầu với phu nhân tới nơi, kiểm điểm lại nhân mã, thì biết rằng bao nhiêu hoàng nam đã được mộ vào hiệu binh Đông-triều hết. Vì vậy lực lượng trấn thủ chỉ có hiệu binh này mà thôi. Đô-thống chỉ huy hiệu binh Đông-triều là Lê Huy, viên trương tuần làng Thổ-lội, vốn quen biết với phu nhân từ hồi thơ ấu. Mấy năm trước, Lê Huy chỉ huy hiệu binh địa phương Thiên-trường, mới đổi về coi hiệu Đông-triều hơn năm nay. Vợ Lê Huy là Chu Thúy-Phượng cũng biết võ, trước đây có tuyển mộ một đạo nữ binh hơn trăm người, nay xin mang theo giúp chồng. Chỉ huy phó hiệu Đông-triều là đô-thống Trần Thanh-Nhiên.
Nguyên trước đây Bùi Hoàng-Quan với Trần Thanh-Nhiên là bạn đồng liêu với nhau, mỗi người chỉ huy một hiệu Thiên-tử binh. Cả hai cùng dự cuộc bình Chiêm, vì Hoàng-Quan lập đại công, nên khi hồi triều được phong hầu, chức tới tướng quân. Còn Thanh-Nhiên bị kết án chém đầu vì can tội không cứu đồng bạn. May đâu gặp dịp ân xá, y lại được trở lại làm việc tại Khu-mật viện. Tại đây, y cùng với Minh-Can chuyển tin tức của Thượng-Dương thái hậu cho Tống, bị Mộc-tồn hòa thượng bắt được trói lại giao cho triều đình. Triều đình chuyển cho bộ Hình điều tra. Bộ Hình xét thấy y vô tội, vì y tuân chỉ Dương hậu chuyển thư, mà không biết trong thư nói gì. Vì vậy Linh-Nhân hoàng thái hậu ân xá cho y, rồi đổi ra biên thùy, giáng xuống làm chỉ huy phó hiệu binh Đông-triều.
Lê Huy trình bầy với hầu: Hiệu binh chia làm ba sư, mỗi sư 1.500 người, và một lữ kị 500 người. Sư một đóng tại Như-hồng, trên đất Tống, sư trưởng là Nguyễn Văn-Khan. Trại này do Trần Thanh-Nhiên chỉ huy. Sư hai đóng ở Ngọc-sơn, sư trưởng là Trần Ngọc-Bá. Bộ chỉ huy trấn thủ biên giới Đông-Bắc Đại-Việt, đóng ở đây. Sư ba với lữ kị do chính Lê Huy chỉ huy đóng ở Tiên-yên.
Hầu quyết định:
- Phối trí như vậy là được rồi. Tôi sẽ đóng ở ải Ngọc-sơn.
Hầu nghĩ lại, trước đây Trần Thanh-Nhiên với mình, cùng một đẳng trật, mỗi người chỉ huy một hiệu Thiên-tử binh. Nay vì y thất thế, mà bị giáng truất, nên đối xử với y như một người bạn, hơn là một thuộc hạ. Hầu dẫn phu nhân cùng Lê Huy, Thúy-Phượng, Thanh-Nhiên đi quan sát địa thế, thăm dân tình toàn châu Vĩnh-an rồi trở về thiết kế phòng thủ.
Hầu ban lệnh cho Lê Huy, Thanh-Nhiên và các lữ trưởng:
- Lệnh của Đại-tư-mã Thường-Kiệt truyền rằng: Tống muốn đánh ta cho mau, để còn kéo quân về. Chúng sợ lỡ Hạ từ Tây đánh vào, Liêu từ Bắc đánh xuống. Vậy chúng ta phải cản trở bước tiến của Tống, kéo dài thời gian càng lâu càng tốt. Vậy chúng ta củng cố hàng rào cho cao, hào cho sâu, chông cho nhiều; rồi trấn ở trong. Tuyệt đối không được xuất trại giao chiến. Vì vậy, ta phải dự trù trường hợp quân Tống đông, bao vây lâu ngày. Xin các tướng coi lại các giếng nước trong trại, cho đào hầm chứa lương thảo, vì sợ chúng bắn tên lửa vào đốt nhà, đốt lương. Chư tướng có ý kiến gì không?
Lê Huy thưa:
- Hiện ta có đủ số lương ăn trong ba tháng. Ba đồn của ta đóng ở ven biển. Nếu như bị vây lâu ngày hết lương, ta có thể sai chim ưng cầu cứu với đô-đốc Trần Phúc, chỉ huy hạm đội Âu-Cơ đang trấn ngoài khơi.
- Được.
Đến đó ưng-binh vào trình cho Hoàng-Quan một ống tre, hầu mở ra, đó là tin tức của phò mã Thân Cảnh-Long:
« Phải tối cẩn thận, trấn thủ Khâm-châu là Nhâm Khởi mới được viện hai đạo binh từ Quảng-châu xuống. Có thể y sẽ phụ trách đánh Vĩnh-an ».
Hoàng-Quan đọc tin cho các tướng nghe. Thanh-Nhiên hiến kế:
- Nếu Khởi đem quân đánh qua, thì có thể đi bằng ba đường. Một là qua huyện Tuy-viễn. Đường này y sẽ đụng phải các trang động của Tô-mậu. Một đường qua trại Như-tích, thì đụng phải ải do tôi trấn thủ. Đường thứ ba là dùng thuyền nhỏ chở quân men theo bờ biển, đường này y sẽ đụng phải hạm đội Âu-Cơ của đô-đốc Trần Phúc. Vậy bây giờ, hàng ngày ta phải cho đội Ngao-binh, Thần-ưng tuần tiễu xâm nhập đất Tống để lấy tin tức. Như vậy, nếu như giặc mới chuẩn bị vượt biên, ta đã biết trước. Tôi xin lĩnh nhiệm vụ đó.
Hầu vui mừng:
- Đúng thế. Trần đô-thống từng làm việc ở Khu-mật viện, thì thành thạo vấn đề này. Tôi xin trao đội Thần-ngao, Thần-ưng cho Trần đô thống chỉ huy. Bắt đầu từ ngày mai ta thi hành.
Thanh-Nhiên lĩnh mệnh đi rồi, Thúy-Phượng nói nhỏ với phu nhân Ngọc-Huệ:
- Về cái ông Trần Thanh-Nhiên này, mình phải cẩn thận lắm mới được. Vì lữ của ông gồm toàn đám thị-vệ cung Thượng-Dương với con cháu họ Dương bị đầy ra đây. Nay lại giao đội tế-tác cho ông ta, lỡ ông ta phản thì e trở tay không kịp.
- Khi chị lên đường, Thái-hậu cũng dặn vậy. Nhưng Đại-tư-mã Thường-Kiệt lại nói rằng việc này không ngại, bởi vợ con Thanh-Nhiên với đám thị vệ bị đầy đều ở Thăng-long, nếu chúng phản thì không khác gì chúng giết vợ con chúng vậy.
Chiều hôm đó, Thanh-Nhiên cho một viên trưởng đội tế-tác về báo rằng: Không có dấu hiệu quân Tống xuật hiện trong vòng trăm dặm.
Nhưng vào lúc trời chập choạng tối, thì viên tốt trưởng đi tuần tiễu ở phía Tây về báo cho biết: Cách đây hơn hai ngày, quân Tống từ Cổ-vạn tràn qua đánh Tô-mậu. Vì Tô-mậu chỉ có khoảng nghìn hoàng nam, nên không đầy nửa ngày đã thất thủ. Dân chúng các động xung quanh đang bồng bế nhau đang trên đường chạy về Vĩnh-an.
Lập tức Bùi Hoàng-Quan gọi Lê Huy:
- Đô-thống hãy mang theo một lữ tuần tiễu phía Tây xem sao!
Lê Huy chưa kịp đi, thì quân báo: Vì Tô-mậu thất thủ, nên chiêu-thảo sứ Vi Thủ-An, dẫn tướng sĩ, gia thuộc, cùng hơn năm trăm hoàng nam đến xin nương nhờ.
Bùi Hoàng-Quan cho tập họp binh sĩ, truyền canh phòng doanh trại cho cẩn thận, rồi ông cùng với phu-nhân, dẫn hơn trăm võ-sĩ ra khỏi đồn đón Vi Thủ-An. Từ phía xa, Vi Thủ-An cỡi trên bành voi, đầu bù tóc rối, quần áo xốc xếch đang đi tới. Phía sau hơn trăm hoàng nam cùng với vợ con được thồ trên lừa, ngựa, trâu, bò kêu khóc thảm thiết.
Vi Thủ-An trông thấy Hoàng-Quan, thì bật lên tiếng khóc:
- Bùi huynh ơi! Thôi rồi, Tô-mậu tan nát hết rồi.
Hoàng-Quan ra lệnh cho Lê Huy tiếp cứu đám người chạy loạn. Huy đưa họ đến một bãi cỏ lớn gần bãi biển cho nghỉ ngơi. Còn hầu thì dẫn Thủ-An với vợ con vào trong đồn. Thủ-An kể:
- Hôm qua, quân Tống từ Cổ-vạn kéo sang đến hơn vạn người. Chúng ào ạt xông vào tấn kích. Chúng tôi chỉ cầm cự được nửa ngày, rồi bị tràn ngập. May đội cận vệ dùng cung bắn cản đường, nhờ thế chúng tôi mới đem gia thuộc chạy thoát vào rừng. Chúng tôi đi suốt từ qua đến giờ, người, ngựa đều mệt. Xin huynh cho nương nhờ.
- Được. Vi huynh với quý quyến tạm ở đây ít ngày, tôi sẽ nhờ thủy quân đưa về Thăng-long cho an ninh hơn.
Vừa lúc đó, Trần Thanh-Nhiên tới. Y báo cáo:
- Trình quân hầu, phía Bắc không thấy quân Tống, nhưng phía Tây có một đạo quân rất hùng tráng đang tiến tới, không biết là quân nào?
Vi Thủ-An run rẩy:
- Quân Tống đấy, chúng đuổi theo tôi đấy!
Đến đó đám hoàng nam, đàn bà, trẻ con tỵ nạn của Tô-mậu cùng kêu khóc, tỏ vẻ sợ hãi. Thanh-Nhiên đề nghị:
- Đám người này vừa đói khát, vừa mệt, xin quân hầu cho họ vào trú trong đồn, bằng không quân Tống tới, họ sẽ bị giết chết hết.
Hoàng-Quan gật đầu đồng ý. Ông ra lệnh cho binh sĩ đem đám người Tô-mậu vào trong ải. Còn Thanh-Nhiên, Lê Huy phải lên ngựa phóng như bay về ải của mình. Mọi việc vừa xong, thì quân Tống kéo đến hàng hàng, lớp lớp, reo hò tỏ ý đe dọa.
Bùi Hoàng-Quan bình tĩnh nói với Vi Thủ-An:
- Chà, quân Tống đông thực, dễ thường tới vài vạn chắc! Vi huynh với gia đình cứ tạm nghỉ ngơi, tắm rửa, ăn uống. Tuy tôi chỉ có hơn nghìn binh, nhưng ải này chắc lắm, không dễ gì quân Tống đánh được ngay đâu. Nếu chúng muốn đánh, thì phải chấp nhận một đổi mười.
Hầu đeo kiếm cùng phu nhân đi vòng quanh ải kiểm điểm lại hệ thống phòng thủ. Trong khi quân Tống kéo đến tuy đông, nhưng chúng không đánh đồn, mà cắm trại, rồi nấu cơm ăn, trong tư thế nghi ngơi.
Hầu cười, bảo viên lữ trưởng Thần-nỏ:
- Dường như chúng nghỉ ngơi, chờ thêm viện quân rồi mới công đồn. Hừ! Dễ gì ta cho chúng được yên thân như thế. Em hãy dùng Lôi-tiễn bắn vào chỗ đóng quân của chúng, bắn hết lực, cho chúng kinh hoàng, phải lùi xa ải mình.
Viên lữ trưởng tuân lệnh, sai mồi lửa, rồi bắn Lôi-tiễn. Mũi tên khổng lồ đầu tiên bay lên trời phát ra tiếng vi vu, khi rơi cách đầu người hơn năm trượng thì phát nổ. Lập tức môt trái cầu lửa xanh lè, tím ngắt, đỏ chói lòa con mắt tỏa ra trên không, chụp xuống đầu quân Tống. Chúng la hét oai oái, ôm đầu tìm chỗ nấp, thì tiếp theo hơn mười Lôi-tiễn nữa chụp xuống đầu. Nỏ thần của ải Ngọc-sơn có năm dàn, thì bốn dàn bắn liên châu, và một dàn bắn Lôi-tiễn. Vì vậy sau hơn hai khắc, mới bắn được khoảng trăm mũi. Lôi tiễn tuy không làm cho quân Tống chết nhiều, nhưng doanh trại bị cháy, binh tướng bị phỏng nhiều.
Đến đây, quân Tống rút ra xa, rồi đóng trại. Hoàng-Quan cho hai lữ làm trừ bị nghỉ ngơi, chỉ để lại một lữ ở các vị trí phòng thủ.
Trời tối dần.
Vào khoảng giờ Tuất -2, thì có tiếng quân reo, tiếng ngựa hí, tiếng trống thúc từ phía trại Như-hồng vọng lại. Binh canh báo:
- Trình quân hầu, dường như quân Tống đánh trại Như-hồng, tiểu nhân lên đài cao quan sát, thì thấy lửa tại đây bốc cao tới trời, lẫn vào đó là tiếng quân reo, ngựa hí, nhưng không thấy chim ưng của Trần đô thống báo tin.
Càng về khuya, tiếng reo hò tiếng trống thúc càng nhiều hơn. Hoàng-Quan leo lên đài cao quan sát, trong bóng đêm, chỉ thấy lửa trong trại Như-hồng bốc lên ngút trời. Lát sau, tiếng reo càng vọng lại gần hơn, rồi một đoàn quân Việt vừa đánh, vừa rút về phía Ngọc-sơn. Chính Thanh-Nhiên với viên sư trưởng Nguyễn Văn-Khan đi cản hậu. Phía sau quân Tống đuổi theo rất gấp.
Viên sư trưởng Trần Ngọc-Bá kêu lên:
- Có lẽ ải Như-hồng bị chiếm, quân mình rút chạy về. Xin quân hầu mở cửa đồn cho họ vào.
Từng đánh dư trăm trận, kinh nghiệm có thừa, Hoàng-Quan truyền cho đội cung thủ, hai dàn Thần-nỏ dàn ra trước cổng trại, lại cho đội đao thủ dàn phía sau đề phòng, rồi truyền mở cổng.
Đám bại binh từ Như-hồng về vào khoảng hơn hai trăm tên. Thấy cổng ải mở, chúng chạy ùa vào. Thanh-Nhiên với viên sư trưởng Nguyễn Văn-Khan nhảy theo. Trong khi phía sau, quân Tống bám sát. Đội cung thủ buông tên, rồi nỏ thần bắn loạt đầu. Đám quân Tống đi đầu ngã lổng chổng.
Đám bại binh Như-hồng vừa vào trong ải, thì nhanh nhẹn chia làm hai vung đao tấn công đội cung thủ, đội xạ thủ nỏ thần. Bị tập kích bất ngờ, đám cung thủ hét lên kinh hoàng, mạnh ai người ấy phản công. Nhờ đám cung thủ bị rối loạn, quân Tống tràn vào trại như nước vỡ bờ. Sư trưởng Trần Ngọc-Bá quả là người gan dạ, bình tĩnh. Y điều động hai lữ trừ bị ra phía trước cổng. Một lữ vây đánh đám bại binh Như-hồng, một lữ đánh đám quân Tống lọt vào trong trại.
Đội cung thủ lại được rảnh tay, bắn cản không cho quân Tống tiến đến cổng trại. Thành ra đám binh Tống trong trại bị cô lập với bên ngoài.
Thanh-Nhiên, Nguyễn Văn-Khan dùng kiếm đâm Hoàng-Quan. Hoàng-Quan kinh hãi, ông tung người lên cao, trong khi tay rút kiếm chĩa xuống gạt kiếm đối thủ. Trong ải náo loạn cả lên. Tiếng đao chém nhau phầm phập, tiếng người kêu gào thảm thiết vì đau đớn.
Đội đao thủ cuối cùng của đồn Ngọc-sơn đã được tung ra nhập cuộc, cùng vây đánh đám bại binh Như-hồng. Giữa lúc đó, trong dinh trấn thủ, lửa bốc lên cao ngụt trời, rồi có tiếng reo:
- Gian tế! Gian tế.
- Phản! Phản!
Hoàng-Quan vừa đấu với Nguyễn Văn-Khan, tên Thanh-Nhiên, vừa đưa mắt nhìn vào trong dinh tổng trấn: Phu nhân cùng đám vệ sĩ, nữ binh đang giao chiến với Vi Thủ-An và đám hoàng nam Cổ-vạn.
Nguyên Ngọc-Huệ là đệ tử của Tôn Đản, Cẩm-Thi, bản lĩnh hơn chồng nhiều. Trong khi biến cố xẩy ra ở cổng, thì bên trong dinh, Vi Thủ-An với hơn trăm hoàng nam hò hét rút vũ khí đánh từ trong ra. Tuy bị đánh úp, nhưng đội nữ binh nhanh nhẹn phản công. Họ chỉ có hơn trăm người, nhờ luyện tập nhiều, võ công cao, nên trong chốc lát, đám hoàng nam Tô-mậu bị đánh bật ra khỏi dinh. Vi Thủ-An thấy Ngọc-Huệ đứng đốc chiến, y khinh thường, cho rằng bà không biết võ, y dí kiếm vào cổ bà, bắt ra lệnh cho đám nữ binh buông vũ khí.
Bị bất ngờ, Ngọc-Huệ cười nhạt, rồi vờ ngã chúi về trước. Bà trầm người xuống cho kiếm Thủ-An qua đầu, rồi quét chân một cái, khiến y ngã úp sấp về trước. Bà rút kiếm ra chiêu Vân hoành Tản-lĩnh, đầu y bị bay khỏi cổ. Giải quyết xong đám nội phản, Ngọc-Huệ dẫn đám nữ binh ra tiếp chiến với chồng, đúng lúc quân Tống rút đi hồi chiều, bây giờ đã trở lại. Chúng reo hò, vác lá chắn bằng rơm cản tên, đang phá các lớp rào. Ngọc-Huệ đứng nhìn chồng đấu với Thanh-Nhiên, Văn-Khan, chỉ ngang sức. Muốn giải quyết chiến trường cho mau, bà lách tay phải bắt lấy kiếm Thanh-Nhiên, tay trái điểm huyệt đại-trùy của y. Y ngã lăn ra liền. Thuận tay, bà thích một mũi kiếm vào ngực tên Khan. Y vung kiếm gạt. Choang nột tiếng, kiếm của y vuột khỏi tay bay ra xa. Bà điểm vào huyệt đản trung của y. Y trầm người xuống tránh, thành ra tay bà điểm trúng mắt phải của y. Con ngươi y lòi ra ngoài. Y ngã ngửa về sau.
Trần Ngọc-Bá sai trói hai gian nhân lại, đem vào dinh thẩm vấn. Bấy giờ Ngọc-Huệ mới quay lại quan sát trận tuyến: Quân Tống đã lọt được vào hàng rào thứ ba, nhưng gặp sức kháng cự mãnh liệt, bị nỏ thần bắn chết la liệt, nên đành rút lui.
Trại Ngọc-sơn trở lại yên tĩnh.
Sau khi thẩm vấn tù binh, Trần Ngọc-Bá trình vời Hoàng-Quan:
« Khi ra trấn ở đây, Thanh-Nhiên đã liên lạc với Tống. Khu-mật viện Tống cho y biết viên sư trưởng Nguyễn Văn-Khan trước đây là thị vệ trong cung Thượng-Dương, cũng là người của Thiên-triều. Hai người được đặt dưới quyền viên trấn thủ Khâm-châu là Nhâm Khởi. Khởi dặn hai người phải tiềm ẩn, chờ ngày quân Thiên-triều đánh sang sẽ làm nội ứng. Mấy hôm trước, Khởi sai người truyền lệnh: Vi Thủ-An hàng Tống, sẽ làm khổ nhuc kế, để có thể lọt vào trại Ngọc-sơn, trong khi Nhiên với Khan cũng phải giả thua chạy về. Thế rồi nội ứng, ngoại hợp đánh úp trại Ngọc-sơn. Không ngờ Hoàng-Quan quá kinh nghiệm chiến đấu, hiệu quân Đông-triều lại can đảm, thiện chiến, nên mưu không thành ».
Hoàng-Quan kiểm điểm lại: Hơn hai trăm quân Tống giả làm bại quân Như-hồng bị giết hết, đám người của Vi Thủ-An cũng bị giết sạch. Quân Tống chết phơi thây ngoài hàng rào kể đến mấy nghìn. Điểm lại, quân thủ ải cũng chết mấy trăm.
Viên sư trưởng Trần Ngọc-Bá trình:
- Thưa quân hầu, mình có khoảng nghìn rưởi binh, nay vừa chết, vừa bị thương hết phân nửa, vậy ta có nên thủ đồn, hay rút về Tiên-yên?
Hầu chưa kịp trả lời, thì trống thúc vang dội, quân Tống đã trở lại. Dưới ánh sáng của đuốc, hầu nhìn rõ: Quân tấn công lần này có cả quân Việt thuộc sư một ở Như-hồng hàng Tống, hoàng nam Tô-mậu. Chúng dùng những tấp liếp nhồi rơm làm lá chắn chống tên lăn vào đem đoản đao chặt rào.
Ngọc-Huệ than với chồng:
- Cơ chừng này chúng thí quân để chiếm cho được đồn đây. Đánh nhau từ chiều đến giờ, chúng chết có tới mấy nghìn, mà nay chúng còn đông dường này, thì ta chỉ có cách tử chiến.
Phu nhân cầm kiếm đốc chiến phía Tây, Ngọc-Bá đốc chiến phiá Nam, hầu đốc chiến phía Bắc.
Quân Tống thúc trống, reo hò lăn xả vào tấn công. Quân Việt dùng tên lửa bắn ra, những tấm liếp nhét rơm bị bốc cháy. Hai bên giằng co đến hơn ba khắc, quân Tống chết nhiều quá lại phải rút ra ngoài, để lại không biết bao nhiêu xác chết nằm vắt vẻo trên hàng rào bên những lá chắn bốc cháy sáng rực trong đêm.
Nghỉ hơn giờ, quân Tống lại thúc trống tấn công, quân Việt lại bắn ra. Giữa lúc chiến trận nghiêng về phía quân Việt thì viên đội trưởng cung thủ báo cáo:
- Trình quân hầu, chúng ta đã hết tên rồi, xin hầu định liệu xem có nên rút lui không?
- Không! Chúng ta quyết tử chiến.
Đến đó phu nhân bị trúng một mũi tên vào bụng. Sợ binh sĩ trông thấy, bà vung kiếm cắt dứt chuôi tên, lấy dây lưng buộc bụng lại, tiếp tục đốc chiến. Quân Tống đã tràn vào trong đồn, chúng reo hò dùng đao giáp chiến với quân Việt.
Phu nhân cùng đám nữ binh vừa đánh vừa lùi về phía trước, thì gặp hầu cùng đám vệ sĩ cuối cùng cũng đang chiến đấu tuyệt vọng. Hầu với phu nhân đứng đâu lưng vào nhau, múa kiếm như mấy trôi, như sóng dạt, quân Tống xông vào người nào, bị giết người đó.
Thình lình có tiếng quát:
- Lùi ra!
Quân Tống lùi ra ngoài. Quân Việt cũng thu chiêu, đứng thành vòng tròn, tay lăm lăm vũ khí.
Có hai người cầm đao nhảy vào vòng chiến, đó là Trần Thanh-Nhiên với Nguyễn Văn-Khan. Nhiên tấn công hầu, Khan tấn công phu nhân. Biết quân Tống đã vào nhà tù thả hai tên này ra. Không nói, không rằng, phu nhân phóng một chiêu kiếm thực thần tốc vào ngực tên Khan, y gạt kiếm của bà; nhưng không kịp, kiếm đã xuyên qua ngực y. Y loạng choạng ngã xuống, máu từ ngực phun ra có vòi. Trong khi hầu với Nhiên đang chiết chiêu.
- Ngừng tay!
Thanh-Nhiên thu kiếm lùi lại.
Một tướng Tống bước tới, y chĩa mũi kiếm xuống đất, rồi bái phu nhân:
- Tại hạ Nhâm Khởi, tổng trấn Khâm-châu, xin được ra mắt quân hầu và phu nhân.
Tuy mệt mỏi, nhưng hầu cũng đáp lễ:
- Kính chào Nhâm đại nhân.
Nhâm Khởi chỉ xác quân Việt nằm la liệt khắp nơi:
- Sự đã đến như thế này thì quân hầu hàng đi thôi. Đánh nữa cũng vô ích mà thôi. Trọn đời họ Nhâm này, chỉ biết kính trọng những bậc anh hùng trung liệt như quân hầu. Nếu quân hầu đầu hàng, thì cái tước hầu, tước bà cũng không đến nỗi mất.
Hầu lắc đầu, chưa kịp trả lời thì phu-nhân quay lại hỏi hơn ba chục nữ binh, năm chục binh Việt còn sống sót:
- Nhâm đại nhân muốn chiêu hàng. Các em nghĩ sao?
- Không hàng!
- Chúng em chỉ biết chết chứ không biết hàng.
Phu nhân cung tay tạ Nhâm Khởi:
- Đa tạ nhã ý quân tử, chúng tôi là con Rồng, cháu Tiên thì chỉ biết chết chứ không biết hàng.
Vừa dứt lời bà đưa kiếm vào cổ Thanh-Nhiên. Y kinh hoàng lộn người ra sau tránh, nhưng mũi kiếm đã trúng ngực y, đúng vào miếng hộ tâm kính đến choang một tiếng.
Đám tiễn thủ Tống vội dương cung bắn vào phu nhân để cứu Nhiên. Nhưng phu nhân đã quyết chết ngày hôm này, nên thay vì dùng kiếm gạt tên, bà chuyển mũi kiếm thúc vào sườn y, người y đứt làm hai khúc.
Nhâm Khởi hô quân Tống tấn công. Đám nữ binh, vệ sĩ lại lăn xả vào chém giết. Giữa lúc cuộc chiến đang ác liệt, thì một mũi tên trúng giữa ngực Hoàng-Quan, hầu ngã xuống. Phu nhân thấy chồng ngã, bà hơi phân tâm một chút, bị trúng một mũi đao vào bụng, ruột lòi ra ngoài. Bà nghiến răng dùng tay trái nhét ruột vào bụng, tay phải vẫn múa kiếm như mây bay, như gió lốc. Bà đi đến đâu, quân Tống ngã tới đó.
Dưới ánh đuốc lờ mờ, binh tướng Tống nhìn bà chiến đấu như một con sư tử, đều nhảy lùi ra xa, đứng nhìn. Một tay ôm bụng, một tay chống kiếm, bà đứng thở dốc, nhìn bên mình: Phu quân chết nằm đó, đám nữ binh cũng không còn một người.
Nhâm Khởi là tiến sĩ xuất thân, y cực kỳ kính trọng những bậc trung quân tuẫn quốc. Y cung tay hưởng bà:
- Phu nhân! Ngừng tay đi thôi. Tôi hứa băng bó, chữa trị cho phu nhân, rồi đưa phu nhân với thi hài hầu về Thăng-long. Phu nhân chiến đấu như thế cũng đủ rồi, khí phách của phu nhân e rằng cao tới trời xanh.
Ngọc-Huệ thở hổn hển:
- Đa ta đại nhân. Vợ chồng tôi sống với Ngọc-sơn, thì chết với Ngọc-sơn. Nay Ngọc-sơn bị chiếm, tôi còn mặt mũi nào về nhìn chúa tôi nữa?
Tay vung lên, kiếm đâm suốt qua ngực, bà ngã xuống. Đám binh tướng Tống từng trải qua nhiều cuộc chiến đấu kinh hồn động phách, nhưng chưa bao giờ họ thấy một thiếu phụ sắc nước hương trời chiến đấu anh dũng đến như vậy. Bất giác, nào tướng, nào binh, đều hướng bà vái ba vái.
Bấy giờ là giờ Mão ngày Quý-Hợi, tháng bẩy, mùa Thu, niên hiệu Thái-Ninh thứ năm đời vua Nhân-tông bên Đại-Việt -1082 bên Trung-nguyên là niên hiệu Hy-Ninh thứ chín đời vua Thần-tông nhà Tống.
Sau khi Bùi Hoàng-Quan với phu nhân tuẫn quốc, Nhâm Khởi sắm quan quách, mai táng bên khe suối ở đồn Ngọc-sơn, trên mộ khắc tấm bia đá có chữ :
« Lĩnh-Nam nghĩa sĩ Bùi, phu phụ chi mộ ».
Tin Ngọc-sơn thất thủ đưa về Thăng-long, Linh-Nhân hoàng thái hậu, Thái-Ninh đế truyền triều đình để tang, làm lễ tế vọng, truy phong cho hầu tước:
Trung-vũ, Anh-duệ, Tráng-tiết đại vương.
Phu nhân được phong:
Nhu-mẫn, Đoan-huệ, Anh-văn công chúa.
Truyền phối thờ vào thái-miếu, cho nên sau này ngoài dân chúng không có đến thờ của hai ngài. Riêng công chúa thì đời sau phối thờ với Linh-Nhân hoàng thái hậu. Cho đến nay (1995) trải 919 năm, nếu những con dân Việt đọc được những giòng này, mà còn tưởng nhớ huân nghiệp của công chúa, xin viếng thăm các đền thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu (ghi ở mục 3.2 phần tựa, quyển 1, NQSH) sẽ thấy:
- Tượng Linh-Nhân hoàng thái hậu ngồi trên chiếc ngai ở giữa trong y-phục Thái-hậu mầu vàng.
- Hai bên là tượng của sáu bà, trong y-phục công-chúa. Áo choàng, khăn tuy giống nhau, thêu hoa văn giống nhau, nẹp giống nhau, nhưng mầu khác nhau.
Đền thờ Linh-Nhân hoàng Thái-hậu ở Dương-xá, Gia-lâm, Hà-nội
Phía trước bàn thờ với chữ đại tự:

THÁNH CUNG VẠN TUẾ
Tượng Thái-hậu ngồi trên ngai, trong y phục vàng
3. Bên trái tượng Thái-hậu: Tượng mặc áo xanh khuất sau cột là bà Nguyễn-thị Trinh-Dung, vương phi Trung-thành vương. Tượng mặc áo đỏ là Công-chúa Thiên-Thành. Tượng mặc áo trắng là Nhu-mẫn đoan duệ, anh văn công chúa Trần Ngọc-Huệ

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 170
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com