watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
15:43:5026/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50 - Trang 6
Chỉ mục bài viết
Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Trang 37
Trang 38
Trang 39
Trang 40
Trang 41
Tất cả các trang
Trang 6 trong tổng số 41



Chương 33b


Công-chúa Thiên-Thành đứng dậy trình bầy: Lưu Di vẫn theo đường lối của Thẩm Khởi. Y tiếp tục sai quan lại vào các khê động kiểm điểm thổ-dân, bắt tập trận. Mặt thủy y đóng chiến thuyền, dùng thuyền muối luyện thủy quân. Tháng giêng năm nay thần tâu chư sự về triều 0. Thái hậu ban chỉ: Như vậy đủ thấy rõ chính Hy-Ninh chuẩn bị đánh ta chứ không phải bọn biên thần. Người sai sứ sang Tống đòi phải trả bọn Nùng Thiện-Mỹ, mục đích dò thái độ của Hy-Ninh. Tống không trả lời. Thái-hậu lại đòi đất và dân động Ân-tình, Tống không bằng lòng trả. Như vậy rõ ràng Tống chuẩn bị đánh ta đã xong, nên mới có thái độ cứng rắn. Để tỏ ý sẵn sàng gây chiến với ta, tháng hai vừa qua, Hy-Ninh lại triệu Vương An-Thạch về triều. Vừa về tới triều, An-Thạch sai sứ sang giảng hòa với Liêu, cắt thêm 700 dặm vùng Hà-đông dâng cho Liêu để an mặt Bắc. (TS 334).
Linh-Nhân hoàng thái hậu đứng dậy, nét mặt bà cực kỳ nghiêm trọng, đôi mắt sắc như dao cau lướt nhìn triều đình một lượt, rồi ban chỉ:
- Tống chuẩn bị đánh ta từ lâu, nay mọi sự cụ bị rồi. Cái ngày quân Tống nhập Việt thực không xa. Vậy ý kiến chư khanh thế nào, xin cứ thành thực trình bầy?
Thái-sư Lý Đạo-Thành cung tay:
- Thần xin tâu: Sách Mạnh-Tử có câu : « Ta hồ binh đao chi sự, thánh nhân bất đắc dĩ dụng chi ».
Nghĩa là : Than ôi! Binh đao là những thứ hung ác, bậc thánh nhân bất đắc dĩ mới phải dùng đến. Các chúa thánh như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang đâu có dùng chiến tranh, mà vẫn an được thiên hạ? Đối với Chiêm, ta đem quân đánh họ, nên nay họ cất quân báo thù, mai họ cất quân đòi đất, cái khốn khổ này thực không biết bao giờ mới hết. Còn Trung-quốc là gốc văn minh thiên hạ, trên cao có thiên-tử trị vì, những sắc dân Di, Địch phải hướng về mà quy phục. Xưa kia vua Trưng cùng 162 tướng, lập lên Lĩnh-Nam mạnh biết là chừng nào! Nhưng chỉ vì cứng quá mà bị gẫy. Giá như hồi đó, ta hậu lễ, hạ thể tiến cống xưng thần với Hán, có phải Lĩnh-Nam yên không? Chỉ vì chư tướng hồi đó quá tự ái, nhất định chống Hán mà đi đến nước mất, tộc Việt bị diệt. Vậy, thần nghĩ, ta nên cử một văn thần giỏi biện thuyết, mang châu ngọc sang Biện-kinh nhún nhường xin Tống bãi binh. Như vậy tránh được chiến tranh.
Lập tức trong khoang thuyền cùng bật lên một loạt tiếng « không ». Lý thái sư rùng mình kinh hãi, ngơ ngác nhìn cử tọa.
Một thiếu-phụ ngồi trong hàng võ tướng nữ đứng dậy cung tay:
- Tâu thái-hậu, tâu hoàng-thượng, thần Trần Ngọc-Liên tước phong nhất phẩm phu nhân, vợ của Đô-thống Trần Ninh thống lĩnh hiệu Thiên-tử binh Đằng-hải, xin được phép đối thoại với Thái-sư ít điều.
- Tất cả những vị được mời hội hôm nay đều có quyền thảo luận, tâu trình, không phân biệt chức tước, nam nữ, văn võ. Phu-nhân cứ hỏi.
Linh-Nhân hoàng thái hậu phân giải: Huống chi phu nhân là nữ tướng phó thống lĩnh hiệu Đằng-hải.
- Thưa thái-sư. Thái-sư dạy rằng vì ta đem quân đánh Chiêm, mới khiến Chiêm đem quân báo thù, thực không đúng. Kể từ đời đức Thái-tổ nhà ta lên ngối, lúc nào người cũng muốn các vùng tộc Việt sống hòa hoãn với nhau trong thế tương thân, tương ái như môi với răng. Nhưng chính các vua Chiêm thuộc gốc Mã-lị-á cuồng bạo đem quân xâm lấn biên cãnh, cho nên người mới phái đức Thái-tông đem quâo chinh phạt. Như vậy ta đánh Chiêm đúng như Mạnh-Tử nói « Thánh nhân bất đắc dĩ dụng chi ».
Cử tọa vỗ tay hoan hô nhiệt liệt, trong đó có cả Thái-Ninh hoàng đế. Ngọc-Liên tiếp:
- Còn như thái-sư dạy: Trung-quốc là gốc văn minh thiên hạ, các sức dân Di, Địch phải qui phục, lại càng không đúng. Từ cổ, văn minh tộc Hoa, tộc Việt có hai vẻ rực rỡ khác nhau. Nếu tộc Hoa giỏi về săn bắn, thì tộc Việt giỏi về canh nông. Tộc Hoa tìm ra lý âm dương, ngũ hành, thì tộc Việt lại đi tiên phong trong thuật luyện kim. Bằng cớ, ta đúc được trống đồng từ khi tộc Hoa chưa biết dùng kim loại làm vũ khí. Về y-học, tộc Hoa soạn ra Nội-kinh thì tộc Việt soạn ra Nạn-kinh. Một đặc thái khác là tộc Việt đi tiên phong trong khoa thiên-văn, lịch-số; đời vua Hùng ta soạn ra lịch, chép vào lưng con rùa đem tặng Trung-quốc. Vua Nghiêu truyền chép lại gọi là Quy-lịch; từ đấy Trung-quốc nghiên cứu thêm về lịch số, nhưng căn bản vẫn từ Qui lịch.
Tất cả cử tọa đều gật đầu tỏ vẻ tán thành. Ngọc-Liên vẫn khoan thai:
- Vấn đề thái-sư dạy rằng các dân Di, Địch phải quy phục Trung-quốc, thì tiểu nữ không phục. Những điều mà Thái-sư nói đều phát xuất từ kinh Thư, mà kinh Thư do văn nhân cổ thời viết ra, chứ đâu phải trời đất viết? Nếu như bây giờ tiểu nữ cũng viết bộ kinh Việt, rồi nói rằng Việt là gốc văn minh thiên hạ, các sắc dân khác phải cúi đầu tuân phục thì thái-sư nghĩ sao? Thái-sư viện dẫn cái thất bại của anh hùng Linh-Nam là do không biết nhún mình với Hán. Điều này hoàn toàn sai. Bởi sử sách còn ghi: Vì Lĩnh-Nam tổ chức cai trị hoàn hảo, vua được đưa lên do lối cử hiền, chứ không do cha truyền con nối. Dân Hán nổi lên khắp nơi, muốn thay đổi lối cai trị sao cho giống Lĩnh-Nam. Chính vì vậy, bằng mọi giá Quang-Vũ phải diệt Lĩnh-Nam. Giả như hồi đó vua Trưng có nhún đến mấy Hán cũng phải đánh Lĩnh-Nam để tự tồn.
Cử tọa đều gật đầu công nhận lý luận của Ngọc-Liên. Từ trước đến giờ triều đình đều nghe đồn rằng trong bốn thiếu nữ Việt kiều kết hôn với bốn trong Long-biên ngũ hùng, thì Trần Ngọc-Liên là người có cái học rất uyên thâm, nhưng ít ai tin. Bây giờ giữa buổi triều hội, nàng dùng sử sách bẻ gẫy tất cả lý luận của một đại nho như thái-sư Lý Đạo-Thành, khiến mọi người đều khâm phục.
Ngọc-Liên đọc được trên nét mặt mọi người sự đồng ý với mình. Nàng thêm can đảm, nói tiếp:
- Kinh Thư gọi các dân tộc phía Đông Trung-quốc là Di, phía Nam là man, phía Tây là Nhung, phía Bắc là địch. Khi viết tên các nước xung quanh, thì họ không có bộ trùng, thì cũng bi thú, bộ khuyển. Thế sao Liêu là nước thuộc Bắc địch, mà họ bắt Tống tiến cống xưng thần, họ còn tiến sâu vào chiếm mất một phần ba lãnh thổ Trung-quốc?
Nàng đưa mắt nhìn nhà vua:
- Tâu bệ hạ. Thần nghĩ không những mình nên đánh lại Tống, mà còn nên hợp với Liêu, Hạ bắt Tống tiến cống xưng thần. Hàng năm bệ-hạ gửi sứ sang phong cho Hy-Ninh là Tống-vương nữa.
Đám võ quan nghe Ngọc-Liên tâu, họ cùng cười ồ lên.
Trung-Thành vương tâu:
- Lời của cô em dâu thần khí quá đáng, nhưng không phải là không có lý. Tâu thái-hậu, nếu như dùng lễ mà khỏi được chiến tranh, thì ta nên nghe lời thái-sư. Nhưng đây Tống chủ trương chiếm các nước Nam phương làm quận huyện để lấy nhân lực, vật lực đánh Liêu, thì ta có nhún nhường cũng vô ích.
Đại đô đốc Lý Kế-Nguyên tâu:
- Tốt hơn hết, ngay bây giờ ta chỉnh bị binh mã, chuẩn bị thế thủ cho chắc. Như vậy Tống kéo quân sang, đánh tỉa từng đồn thì sẽ mất thời gian mấy năm. Trong khi đó, ta lại sai sứ sang vận động với Tây-hạ, Liêu đánh vào mặt Bắc, mặt Tây, như thế ắt Tống phải rút lui.
Đại tư-mã Thường-Kiệt tâu:
- Khi Tống đánh ta, ắt họ phải đem đại quân, ít ra là ba mươi vạn quân triều, hai mươi vạn bảo-giáp, năm mươi vạn dân binh dân phu. Với một lực lượng như thế mà ta đóng đồn cố thủ thì họ sẵn sàng chia quân ra đánh các đồn. Việc phòng ngự e khó thực hiện được.
Triều đình phân vân bàn lui, bàn tới, vẫn chưa tìm được quốc sách giữ nước. Linh-Nhân hoàng thái hậu vẫy tay cho cử tọa im lặng, rồi đập tay xuống án thư. Vì nội công của Hậïu là nội công âm nhu niên tiếng động vang đi khá xa. Hậu tuyên chỉ:
Cô-phụ này nghĩ:
- Ngồi yên đợi giặc, sao bằng tìm giặc mà đánh trước! Tống muốn chiến tranh, thì được chiến tranh. Ta há sợ Tống sao?
Các võ tướng vỗ tay hoan hô, đầu cúi xuống tỏ vẻ khâm phục ý kiến của Thái-hậu. Bất giác họ cùng đưa mắt liếc trộm Linh-Nhân hoàng thái hậu. Họ chỉ thấy ở bà một thiếu phụ trên ba chục tuổi, nhan sắc dễm lệ, mà không ngờ hùng tâm có thể làm rung động giang sơn nhà Tống.
- Cô phụ quyết định: Cứ tình hình này, Tống xuất binh ra được cũng phải hơn năm nữa. Trong khi ta có thể ra quân trong vòng ba tháng. Về binh pháp, ai ra tay trước thì nắm được thắng lợi. Bây giờ ta vượt biên đánh sang, cướp lương thảo, tiêu diệt các đạo quân triều, bảo-binh, dân binh, hủy thành trì, rồi rút về. Chiến tranh sẽ xẩy ra trên đất Tống. Dân Tống bị hại; còn hơn ngồi chờ họ đem quân vào đất mình, dân mình bị cái vạ chiến tranh. Sau khi ta thành công, Tống không còn đủ sức đánh sang ta nữa. Mà dù họ có cố đánh, thì tinh lực không còn đầy đủ, ta không sợ.
Hình-bộ thượng thư Hoàng Khắc-Dụng tâu:
- Tâu thái-hậu, việc ta vượt biên bất thình lình, ắt thành công rồi. Nếu như Tống thấy mất thể diện quá, họ đem quân từ mặt Tây, mặt Bắc về Nam đánh ta thì ta khó mà đương nổi.
Công-chúa Thiên-Ninh vẫy tay:
- Hoàng thượng-thư tính xa như vậy là phải. Nhưng nếu như Tống bại rồi mà còn giữ ý định đánh ta, thì phải điều quân từ Bắc, Tây về Nam. Bấy giờ hai mặt này Tống không còn binh, ta không cần xui, thì Liêu, Hạ cũng thừa cơ đem quân đánh Tống. Tống bị ba mặt giáp công, sẽ phải đánh ta chớp nhoáng, trong khi ta áp dụng chính sách phòng ngự của Lý đại đô đốc, kéo dài cuộc chiến. Tự nhiên Tống sẽ phải rút quân. Ta nhân đó phản công như thời vua Lê. Dĩ nhiên, sau đó Tống quá mất thể diện, ta sai sứ sang hậu lễ, lời nhún nhường; tự ái được xoa dịu, ắt Tống bỏ ý định Nam xâm. Thế là tự hậu, khi bàn đến Nam xâm, từ vua tới quan Tống đều kinh hồn táng đởm. Mà ví dù họ có muốn đánh nữa, thì binh lính không còn, kho đụn trống rỗng, rồi cũng phải ngồi ôm hận mà thôi.
Sau khi nghị luận một lát, triều đình Đại-Việt cùng đồng ý đánh sang Tống. Việc tổng chỉ huy trao cho đại-tư-mã Lý Thường-Kiệt.
Ghi chú ,
Từ xưa đến giờ, tất cả sử sách cổ của Đại-Việt như ĐVSKTT, VSL, KĐVSTGCM, đều chép là Lý Thường-Kiệt với Tôn Đản đánh Tống. Không ai chối cãi rằng chiến công đánh Ung, Liêm, cùng cuộc kháng Tống là của Tôn Đản, Lý Thường-Kiệt, Trung-Thành vương, Tín-Nghĩa vương, Lý Kế-Nguyên. Nhưng các sử gia cổ bỏ quên không chép rõ rằng người quyết định đánh hay hòa, ngồi chờ giặc hay ra tay trước, cùng tổ chức cai trị giữ vững hậu phương, tiếp vận lương thảo, bổ xung tổn thất v.v. là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Hoặc có người cho rằng chính vua Nhân-tông quyết định, càng hàm hồ hơn nữa. Bởi bấy giờ nhà vua mới mười tuổi, chưa đủ trí khôn, kiến thức để có thể đưa ra quyết định. Linh-Nhân hoàng thái hậu đang nắm tất cả mọi quyền hành. Khi viết những giòng này, tôi theo các tư liệu sau: Một là gia phả của hai giòng họ Lý tại Hãn quốc, vốn là miêu duệ của Linh-Nhân hoàng thái hậu. Hai là bộ Tống-sử của Thoát-Thoát, Tục tư-trị thông giám trường biên của Lý Đào. Ba là bộ Quách-thị Nam chinh, Triệu thị chinh tiễu Giao-chỉ ký, một loại nhật ký hành quân của hai tướng Tống đem quân đánh Đại-Việt là Quách Quỳ, Triệu Tiết. Bốn là bộ Tống triều công thần bi ký, chép tất cả văn bia, mộ chí của những công thần nhà Tống, trong tới mười tám người có tham dự vào mặt trận Đại-Việt. Năm là những cuốn phổ, bia đá tại đền thờ các anh hùng đời Lý: Lý Thánh-tông, Linh-nhân hoàng thái hậu, Lý Nhân-Tông, Lý Thường-Kiệt, Lý Hoằng-Chân, Lý Chiêu-Văn, công chúa Thiên-Ninh, Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt.
Chỉ độc giả Nam-quốc sơn hà mới biết tận tường về trang sử huy hoàng nhất Đại-Việt do ai quyết định mà thôi.

Đại-tư-mã Thường-Kiệt hỏi Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản Ngô Cẩm-Thi:
- Thưa nhị vị sư thúc, không hiểu tại sao trong buổi họp quan trọng như thế này, mà sư thúc lại im lặng, không lên tiếng chỉ dạy cho hậu bối?
Từ lúc nhập chiến thuyền triều hội, Tôn Đản, Cẩm-Thi được xếp ngồi cạnh nhà vua, tức ngôi vị cao nhất. Hai vị im lặng hoàn toàn. Bây giờ nghe sư điệt hỏi, ông đáp:
- Tre già, măng mọc. Ta ngồi im để nghe những cây măng cứng hơn tre già. Ta thấy có góp ý chưa chắc đã hơn bọn trẻ.
Ông đưa mắt nhìn nhà vua, rồi tiếp:
- Tâu Thái-hậu, tâu Hoàng-thượng. Phàm ra quân phải có chính nghĩa. Đối với dân Việt, ta đã có chính nghĩa rồi. Chính nghĩa đó là Tống chuẩn bị đánh ta, thì ta đánh trước. Nhưng đối với sĩ dân Tống thì chính nghĩa của ta là gì? Xin thái-hậu ban chỉ cho rõ. Từ đó, Đại-tư-mã Thường-Kiệt mới giới hạn cho các tướng là ta tiến đến đâu thì ngừng? Những thành nào nên phá? Những lực lượng nào của Tống nên diệt. Những kho lương nào nên cướp, hay chở về?
Không nghĩ ngợi, Hoàng thái hậu ban chỉ ngay:
- Nhổ cỏ phải nhổ tận rễ. Sở dĩ Tống muốn đem quân chiếm Đại-Việt vì Tống mạnh. Tống mạnh là nhờ Tân-pháp của Vương A-an-Thạch. Một số lớn đại thần, sĩ dân cực lực chống y, đến nỗi Hy-Ninh phải tạm cất chức y. Trong triều, ngoài dân cái nạn chia rẽ đang như ngọn lửa đốt cháy căn nhà của họ Triệu. Nay vì tình hình nghiêm trọng, Thạch mới được gọi về triều nắm quyền, thì cái ngọn lửa chống đối càng bốc cao. Ta nhân đó đổ thêm dầu vào cho ngọn lửa bốc cao để đốt cháy vĩnh viễn Tân-pháp của y. Tân-pháp không còn, Tống sẽ trở lại với những gì là Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang xưa, thì không bao giờ có thể đủ sức đánh ta nữa. Muốn đổ thêm dầu vào, ta phải làm như cuộc xuất quân này là do Tân-pháp của Thạch gây ra. Vậy khi tiến quân, ta phải làm một tờ hịch, in ra thực nhiều, rồi công bố cho sĩ dân Tống. Nội dung hịch nói rằng Tân-pháp làm khổ dân. Chúng ta ra quân chỉ với mục đích cứu dân vùng Lĩnh-Nam, vốn gốc Việt. Đấy là chính nghĩa ra quân của ta. Vậy ta chỉ tiến đến chân núi Ngũ-lĩnh rồi rút về.
Thái-hậu ngừng lại một lát rồi tiếp:
- Nhưng sự thực ta ra quân là tự vệ kia mà! Tự vệ bằng cách tiên hạ thủ vi cường. Ta phải thực hiện được ba điều. Một là chiếm lại các trang động đã theo Tống, hay bị Tống lấn. Hai là đánh tan hết hệ thống Tân-pháp đã tạo ra như Thanh-miêu, Trợ-dịch, Thủy-lợi, Quân-điền, Bảo-giáp, Bảo-mã. Nghĩa là bắt hết ngựa, đánh tan các đội Bảo-giáp, lấy hết của lương tiền trong công khố mà Tống tích lũy để chuẩn bị đánh ta. Ta đem của ấy chia cho dân chúng. Ba là những thành trì, xưởng chế vũ khí, xưởng đóng chiến huyền, quân cảng, cầu đường... nhất nhất phá sạch.
Hậu đưa mắt nhìn Tôn Đản, Cẩm-Thi:
- Nhưng có ba điều không nên và không thể phạm đến. Một là nghiêm lệnh chư quân, không được xâm phạm đến tài sản, tính mệnh dân chúng. Hai là tuyệt đối cấm đốt phá các cơ sở tôn giáo như đền thờ, chùa am, miếu mạo, nhà từ, mồ mả của dân chúng. Ba là đối với tù binh, hàng binh, nên cho ăn uống tử tế, rồi đem về Đại-Việt. Ai phạm vào một trong ba điều đó, thì đem ra trước dân chúng xử tử, bêu đầu làm hiệu lệnh. Lệnh xử tử còn gửi về làng xã, để truất công điền mà làng cấp cho chinh nhân.
Hậu đứng dậy hướng Tô Đản, Cẩm-Thi:
- Thưa nhị vị sư thúc! Trong Thuận-Thiên thập hùng, thì Quốc-phụ đã băng hà; Cổ-loa quốc công Tạ Sơn nay tuổi cao sức yếu, mấy năm qua bệnh tật liên miên; Quốc-mẫu, thái công chúa Bình-Dương, Kinh-Nam vương, U-bon vương ngao du sơn thủy không lý đến thế sự; các phò mã Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm đã qui tiên; nay chỉ còn mình sư thúc với công-chúa Côi-sơn Trần Thanh-Nguyên. Vậy cô-phụ này lớn mật xin thỉnh sư thúc, sư thẩm với Côi-sơn công chúa tham dự vào trận đánh này.
Tôn Đản định từ chối, thì Cẩm-Thi đã trả lời:
- Quốc-gia hưng vong, thất-phu hữu trách. Nay cuộc tiến quân phòng thủ này cưc kỳ trọng đại, mà thái-hậu đã ban chỉ, thì chúng tôi đâu dám từ nan?
Bà hỏi công chúa Côi-sơn:
- Thanh-Nguyên, em nghĩ sao?
- Em chả có quyền nghĩ hay không nghĩ mà phạm quốc pháp.
Côi-sơn công chúa giảng giải: Trượng-phu em hiện lĩnh chức đại tướng quân, tước quốc-công. Còn em là Côi-sơn công chúa kia mà! Đã là công-chúa, quốc-công, khi Thái-hậu ban chỉ thì chỉ việc hoan-hỉ tuân thủ mà thôi.
Cử tọa vỗ tay hoan hô nhiệt liệt.
Thái-hậu ban chỉ tiếp:
- Bây giờ cô-phụ này xin mời chư vị sư thúc sư thẩm, sư huynh Thường-Kiệt, nhị vị hoàng thúc Hoằng-Chân, Chiêu-Văn điều quân.
Tôn Đản hỏi Hoàng Kiện:
- Phò-mã! Phò-mã là Binh-bộ thượng thư. Phò-mã cho biết tình hình tướng-sĩ của ta ra sao? Trước hết là quân có thể tham chiến bên Tống. Sau tới quân phòng thủ.
Ghi chú.
Trong suốt cuộc đời, chưa bao giờ Tôn Đản nhận một chức, một tước, lĩnh một đấu gạo, một đồng tiền của Lý triều. Thế nhưng trong khi đối đáp với đệ tử, con cháu vì công vụ, ông luôn trịnh trọng gọi họ bằng chức tước.
- Trình sư-phụ.
Phò-mã Hoàng Kiện lễ phép cung tay hướng Tôn Đản: Quân ta hiện chia làm hai loại. Một là quân triều, hai là quân Bắc-biên. Quân triều chủ lực chính gồm mười hai hiệu Thiên-tử binh. Mỗi hiệu phân ra hai đạo tả, hữu. Quân số mỗi đạo năm nghìn người. Trong một đạo có ba sư bộ, một sư kỵ, một sư trợ. Mỗi sư trợ có một lữ Thần-ưng để thông tin, chiến đấu; một lữ nỏ liên châu; một lữ Thạch-xa tức xe bắn đá. Đấy là bộ-binh. Về kị binh, thì có hiệu Phù-đổng gồm hơn vạn ngựa. Về thủy-quân, ta rất mạnh, gồm bốn hạm đội là Động-đình, Âu-cơ, Thần-phù, Bạch-đằng. Một hiệu trợ chiến, trong hiệu này có một đạo Thạch-xa, một đạo nỏ liên châu, đội Thần-tiễn Long-biên, đội Thủy-thần Giao-long. Về quân Bắc-biên thì có ba đạo bộ binh, một đạo kị-binh, một đạo thú.
Phò-mã hỏi phò-mã Thân Cảnh-Long:
- Anh trình sư phụ em về quân số đạo binh thú, thực chi tiết.
Ghi chú,
Phò-mã Thân Cảnh-Long kết hôn với công chúa Thiên-Thành. Phò-mã Hoàng Kiện kết hôn với công chúa Động-Thiên. Công chúa Thiên-Thành là chị công chúa Động-Thiên vì vậy phò-mã Hoàng Kiện mới gọi phò-mã Thân Cảnh-Long bằng anh.
Phò-mã Thân Cảnh-Long đứng dậy:
- Trình sư thúc, đạo binh thú có tám lữ. Lữ tượng, hổ, báo, ngao, ưng, hầu, mỗi lữ từ năm trăm tới một nghìn con. Lữ phong, xà có mười xe.
Tôn Đản gật đầu rồi hỏi tiếp:
- Bây giờ tới quân phòng thủ.
- Thưa sư phụ! Quân phòng thủ thì ta có mười hai hiệu của mười hai trấn hay phủ. Mỗi phủ, trấn còn có một thủy-đội. Còn các làng xã thì có đội hoàng-nam. Tóm lại, khi quân triều phải chinh chiến xa, lỡ giặc tới thì quân trấn, phủ cỏ thể tự vệ. Khi giặc tới xã nào, thì mỗi xã là một đồn binh, Hoàng-nam trấn thủ bên trong.
Tôn Đản đưa mắt nhìn Thường-Kiệt:
- Đại-tư-mã điều quân.
Thường-Kiệt cầm kiếm lệnh để lên trước mặt, rồi ban lệnh:
- Trong cuộc chiến này, ta chia lực lượng làm hai. Một là lực lượng xung kích đánh sang Tống. Hai là lực lượng phòng thủ. Lực lượng đánh Tống bao gồm toàn thể quân triều, quân Bắc-biên. Lực lượng phòng thủ gồm quân các trấn, hoàng-nam các xã, và thổ-binh các trang động. Việc phòng thủ thì do Binh-bộ thượng-thư, Phụ-quốc thái-úy Hoàng Kiện thống lĩnh.
Phò-mã Hoàng Kiện đứng lên nhận lệnh.
- Phòng thủ từ Thanh-hóa cho đến Hải-vân thì do hoàng-tử Chiêu-Văn làm chánh tướng. Phó thì do Trấn-viễn thượng-tướng quân Gia-viễn hầu Dư Phi đảm trách. Phòng thủ từ Thanh-hóa đến Kinh-bắc thì do hoàng-tử Hoằng-Chân đảm trách, phó thì do Trấn-Bắc thượng-tướng quân Đinh-sơn hầu Nguyễn Căn đảm trách.
Trung-Thành vương, Tín-Nghĩa vương , cùng hai tướng Dư Phi, Nguyễn Căn đứng dậy nhận lệnh.
- Từ ngày Nam chinh về, ta mang theo các hào kiệt Trung-nguyên đầu hàng. Ta trọng đãi như thượng khách, lại đem gia quyến từ Tống sang, cấp đất cho ở Tây-hồ. Năm trước ta đã nhờ họ theo sứ đoàn sang Liêu, sang Hạ. Về lòng dạ họ tỏ ra tận tâm, về tài trí họ tỏ ra siêu việt. Tuyết-sơn thập anh đã kết bạn với Long-biên ngũ hùng. Động-đình thất kiệt đã kết bạn với Tây-hồ thất kiệt. Vậy nay ta cử Động-đình thất kiệt theo giúp hoàng tử Chiêu-Văn. Lại cho Tuyết-sơn thập anh theo giúp Tôn sư thúc.
Ghi chú,
Về chức vụ (fonction) thì Thường-Kiệt là Đại-tư-mã, tức tổng tư lệnh, cao hơn chức Thượng-tướng quân của hai vương nhiều. Nhưng về tước thì ông chỉ là công, thấp hơn Hoằng-Chân, Chiêu-Văn. Vì vậy ông không thể « hạ lệnh» cho chư vương; mà ông lấy cái nghĩa: ông là con nuôi Khai-Quốc vương, lớn tuổi hơn nên làm anh. Ông có quyền « hạ lệnh » cho em, nên ông gọi hai vương là hoàng-tử.

Ông ban lệnh tiếp:
- Từ trước đến nay, có năm đô-thống, cùng năm phu nhân, văn mô, vũ-lược, võ công cao cường, xuất thân đệ tử danh gia đó là Thần-vũ thập anh; mười vị hằng ước mong được đem tài ra giúp nước, mà chưa có dịp. Mười vị đang giữ trọng trách chỉ-huy ngự-lâm quân cùng thị-vệ. Vậy năm sư đệ, sư-muội hãy trao nhiệm vũ đó cho người khác, để tham dự vào cuộc hành quân này.
Thần-vũ thập anh đứng dậy nhận lệnh.
Từ trước đến nay, triều-đình cũng như võ-lâm chỉ biết Thập-anh theo học Đông-Thiên, sau được Mộc-tồn hòa thượng thu làm đệ tử. Mà Mộc-tồn hoà thượng là sư huynh của Đại-từ Liên-hoa hòa thượng 0. Trong khi Đại-từ liên hoa là bản sư của Linh-Nhân hoàng thái hậu với Long-biên ngũ hùng. Thập-anh có đại công trong việc dẹp loan Dương gia... vì những liên hệ đó, nên thái-hậu luôn gọi mười người là sư huynh, sư đệ. Bây giờ mọi người thấy Thường-Kiệt gọi Thập-anh là sư-đệ, sư-muội, chứng tỏ ông với Mộc-tồn hòa thượng có liên hệ môn phái. Mà Mộc-tồn hòa thượng phải là sư đệ của thân phụ Thường-Kiệt, đương nhiên ngài thuộc phái Đông-a mới phải. Hoặc giả hoà-thượng là sư đệ của tiên-nương Bảo-Hòa, thì ngài lại thuộc phái Tản-viên. Thế sao võ công của Thập-anh lại thuộc phái Sài-sơn? Không ai đoán ra tông tích ngài!
Thường-Kiệt tiếp:
- Vậy Lâm-môn thượng tướng quân, Yên-phong hầu Lý Thường-Hiến thay Đô-thống Hùng Nhân, Hùng Nghĩa làm Tổng-lĩnh Ngự-lâm quân. Công chúa Động-Thiên thay đô-thống Hùng Lễ, Hùng Trí thủ Hoàng-thành. Chức điện-súy trước do sư-đệ Hùng Tín chỉ-huy, nay cũng do công chúa Động-Thiên đảm trách.
Công-chúa Động-Thiên, Thường-Hiến đứng dậy nhận lệnh.
Thường-Kiệt hỏi thượng-thư bộ hộ là Mai Đình:
- Xin thượng thư cho biết tình hình lương thảo, quân dụng của ta.
Mai Đình đáp:
- Trình nguyên-soái từ hồi Nam-chinh đến giờ vấn đề lương thảo được phân ra như sau: Thu thuế, quản trị công nho, mua quốc dụng, chi tiêu trên toàn quốc thì thiểm bộ đảm trách. Nhưng mua sắm quân dụng, tích trữ lương thảo dùng vào việc binh, thì do công chúa Thiên-Ninh.
Ghi chú,
Như vậy nhiệm vụ của Mai Đình tương đương với ngày nay là bộ Tài-chánh, còn nhiệm vụ của công-chúa Thiên-Ninh giống như Tổng-cục trưởng tổng cục Tiếp-vận.

Linh-Nhân hoàng thái hậu hỏi:
- Bà-chúa-kho! Thế nào, lương thảo ra sao?
Công-chúa Thiên-Ninh mở một tập sách dày ra, rồi tâu:
- Tâu thái-hậu, hiện lương thảo của ta đủ để nuôi toàn quân trong ba năm. Vũ khí như đao, kiếm, kích, lao, cung, tên, y phục, thuốc men có có thể trang bị cho hai mươi vạn quân. Xưởng đóng chiến thuyền ở Sơn-Nam hiện đã đóng xong ba trăm chiếc dùng bổ xung cho các chiến thuyền tổn thất trong chiến tranh.
Thường-Kiệt hướng vào chư tướng:
- Lương thực đã cụ bị. Ta yên tâm. Bây giờ đến lực lượng đánh Tống. Ta đánh Tống bằng hai đường tiến quân. Một là đường bộ, hai là đường thủy. Đường thủy lực lượng bao gồm bốn hạm đội, bẩy hiệu Thiên-tử binh của Tây-hồ thất kiệt, sẽ vượt biển đánh vào Khâm-châu, Liêm-châu, sau đó tiến về Ung-châu. Đây là đạo kỳ binh. Đường tiến quân này bản soái thân chỉ huy.
Chư tướng vỗ tay hoan hô.
- Hai là tiến quân trên bộ. Quân trên bộ sẽ đánh tràn qua biên giới, rồi hướng về Ung-châu. Quân trên bộ gồm toàn thể quân Bắc-biên, năm hiệu Thiên-tử binh của Long-biên ngũ hùng.
Ông hướng vào Tôn Đản:
- Quân triều, quân Bắc-biên rất phức tạp. Phải có một người mà uy tín trùm Đại-Việt mới điều khiển nổi. Vậy theo điệt nhi nghĩ ngoài sư thúc, sư thẩm không ai có thể thống lĩnh.
Tôn Đản đứng dậy cung tay:
- Xin tuân lệnh Nguyên-soái.
Uy tín Tôn Đản cực lớn. Từ xưa đến giờ ông bà đối với Thường-Kiệt như đối với con ruột, nay ông nói « xin tuân lệnh nguyên soái» là nói đúng theo nghi lễ. Nhưng cũng gây cho chư tướng bật cười, rồi vỗ tay hoan hô.
Thường-Kiệt lại hướng Côi-sơn tam anh:
- Ba sư-bá từng ở bên Tống lâu. Xin ba sư bá cho những lời dạy dỗ.
Trần Bảo-Dân xua tay:
- Nhị sư bá chỉ biết đánh đàn, thổi tiêu, chứ có biết gì về quân sự đâu. Biết việc quân, họa có tam sư bá. Vì người từng là tư mã Kinh-châu, từng là Tả-kim ngô thượng tướng quân của Tống.
Trần Trung-Đạo đứng dậy phát biểu:
- Lưu Di đóng tổng hành doanh ở Quế-châu. Hiện Tống đang ở thời bình, chưa thiết lập ngựa chạy chạm, tức ngựa Lưu-tinh. Như vậy đường đi ngựa thường đưa tin từ biên giới Tống-Việt đến Quế-châu mất nửa tháng. Từ Quế-châu tới Biện-kinh mất một tháng. Ví thử ta đánh các trại biên giới; ít ra hai ngày sau bọn biên thần mới gửi tin tức về Quế-châu. Lưu Di vốn tính cẩn thận, y chờ vài ngày nữa để có tin chính xác rồi mới gửi tấu chương về. Như vậy kể từ lúc ta đánh sang, phải mất ít nhất một tháng hai mươi ngày triều Tống mới biết.
Thường-Kiệt hướng Linh-Nhân hoàng thái hậu:
- Xin thái-hậu ban chỉ dụ.
Linh-Nhân hoàng thái hậu sai cung-nga bưng ba chén sâm thang lại cho Tôn Đản, Cẩm-Thi và Thường-Kiệt. Ba người tạ ơn uống xong, thái-hậu ban chỉ:
- Tuy ta ra quân bất thần, hành sự cực kỳ bí mật, thần tốc nhưng cũng phải lợi dụng ba điều. Một là tin tức bên Tống, cùng phản ứng của họ chậm, ta đánh thực mau, hành sự thực mau, không cho viện binh đủ thời giờ cứu ứng. Hai là, ta lợi dụng những đụng chạm ở biên giới gần đây, để khi ta tấn-công thì Lưu Di, Tống triều tưởng đó cũng chỉ là đụng chạm nhỏ, không cần tiếp cứu. Ta kéo dài thêm thời gian cứu binh của họ. Đến khi họ biết sự thực thì đại thế đã tan nát. Nghĩa là ta phải làm sao hành sự xong, mà viện quân Tống chưa tới cứu kịp. Có như thế, ta mới không bị giao chiến với toàn quân Tống. Ba là hiện ở Quảng-châu, Ung-châu, Quế-châu là ba nơi Tống đóng đại quân. Vậy chư vị có ý kiến gì?
Phò-mã Thân Cảnh-Long nghị:
- Hiện Tống có một loạt cửa ải Nam phòng đóng dọc bên giới ta từ Tây sang Đông là Hoành-sơn, Thái-bình, Vĩnh-bình, Tây-bình, Lộc-châu, Cổ-vạn, Như-tích, Để-trạo, Thiên-long. Nếu ta phá được các cửa ải, thì có thể thẳng tiến về Ung-châu. Nhưng hiềm một nỗi, khi ta tiến quân thì mặt bộ dù khó đánh, chúng cố thủ ta vẫn vây rồi tấn công, trước sau gì rồi cũng hạ được. Duy đạo binh thủy của đại-tư-mã Thường-Kiệt đánh vào Khâm-châu, Liêm-châu, thì có vấn đề. Bởi Khâm-Liêm là nơi có trọng binh Tống, ta từ mặt thủy đổ bộ lên, mà không hạ được ngay, thì bị đánh bật ra biển. Vậy ta phải làm thế nào để quân Ung, Liêm, Khâm cùng kéo về Tây-Nam, bấy giờ Khâm, Liêm không còn quân phòng thủ. Ta từ mặt biển đổ lên đánh úp là được. Đánh úp Khâm, Liêm rồi, ta tiến lên đánh Ung cùng với đạo bộ binh.
Triều đình cùng nghị luận phân vân. Đô-thống Đinh Hoàng-Nghi xin phát biểu:
- Tâu thái-hậu, việc đem quân Tống từ Bắc, Đông xuống Tây-Nam thực không khó.
Linh-Nhân hỏi:
- Đinh đô-thống nổi tiếng mưu thần, chước thánh, ắt có diệu kề.
- Tâu thái hậu.
Hoàng-Nghi phân giải: Ta phải thực hiện hai điều. Một là mặt bộ phải hành sự sao cho Tống tưởng là xung đột giữa các động chủ của ta với khê-động Tống, để họ không cứu ứng kịp thời. Hai là khi ta tấn công toàn diện mặt bộ, thì mặt thủy vẫn ém quân. Chúng tưởng ta tấn công như hồi vua bà Bình-Dương đã làm. Nghĩa là chỉ có mặt bộ, mà không có mặt thủy; ắt chúng đem quân Khâm, Liêm, Ung về Tây-Nam cứu viện. Bấy giờ ta mới cho quân mặt thủy đổ bộ lên đánh Khâm, Liêm.
Triều đình cùng tán thành đề nghị của Hoàng-Nghi. Tín-Nghĩa vương hỏi:
- Theo ý hiền đệ, bây giờ ta phải làm thế nào khi mặt bộ khởi sự tấn công, mà Tống lại tưởng là xung đột giữa các khê-động với nhau?
Hoàng-Nghi đưa mắt nhìn Thân Cảnh-Long:
- Không khó! Khi các trang động Tống-Việt giáp nhau có sự, các trang động thường đem quân đánh lẫn nhau. Vậy trước khi ta khởi sự, thì phò-mã Thân Cảnh-Long ra lệnh cho một trang động nào đó, nhân có hiềm khích với một khê động bên Tống, để Tống đem quân đánh sang, nhân đó ta phản công. Tin này đưa tới Quế-châu, Lưu Di cho rằng đây là sự hiềm khích giữa man dân. Y tâu về triều. Trong triều triều, Hy-Ninh, An-Thạch coi là loại man-dân trộm cướp vặt. Sau đó ta tiến đại binh sang. Tin đưa về triều, lúc đầu Hy-Ninh với An-Thạch cũng tưởng chuyện cướp bóc diễn ra mà thôi, chưa có phản ứng.
Tín-Nghĩa vương khen:
- Mưu của Đinh đệ hay thực. Nhưng nếu như giữa các trang động không có hiềm khích gì, thì sao ta có cớ mà đem quân sang?
Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt đều nhìn nhau cười tủm tỉm. Tín-Nghĩa vương hỏi:
- Anh hỏi vậy không đúng sao mà các chú cười?
Ngô Ức lắc đầu:
- Anh hai ơi! Anh là một thân vương, lại sống trong đạo đức đã quen nên anh tìm không ra cớ. Chứ mười hai đứa chúng em từng ăn mày, từng móc túi, từng ăn cắp vặt, dư thừa thói lưu manh dân dã. Việc kiếm cách gây sự đâu có khó. Này nhé, ở Bắc-biên có lệ, hễ để trâu ăn lúa của nhà người ta, thì người ta có quyền giữ trâu lại. Có đúng thế không?
Tín-Nghĩa vương lắc đầu không hiểu.
Đến lượt Trần Di cười:
- Anh ơi! Chỉ cần một trang động của ta vờ thả trâu ăn lúa của khê-động Tống. Như vậy ắt họ giữ trâu lại bắt chuộc. Ta không chuộc, còn kéo nhau sang đánh cướp trâu về. Dĩ nhiên bên kia không chịu, thế là đánh nhau to. Khi đánh nhau, họ không dự bị, trong khi ta đã chuẩn bị hết. Ta xua quân đánh tràn sang chiếm khê-động của Tống, nhưng cố ý không bắt bọn thủ lĩnh. Bọn thủ lĩnh chạy đến quan huyện tố cáo. Quan huyện cáo về cho Lưu Di. Lưu Di sẽ tâu về triều chi tiết này. Thế là trong triều Tống cho đến Lưu Di đều tưởng cuộc tiến quân của ta chỉ là đụng chạm giữa man dân. Trong lúc đó ta xua quân đánh tràn sang. Đến khi ta hạ hết các khê-động, đồn trại biên giới, bấy giờ Tống mới phản ứng thì đã trễ.
Trong triều đình, thì văn quan đa số là nho gia, đạo đức có thừa. Võ quan đa số xuất thân từ các danh môn chính phái, nên không ai có thể tưởng tượng ra được cớ gây sự. Nay nghe Trần-Di thiết kế, họ đều bật cười.
Đinh Hoàng-Nghi tiếp:
- Khi biết rõ chủ ý cuộc tiến quân của ta, phản ứng tức thời của Lưu Di, của Tống triều là gì? Cứu binh như cứu lửa, ắt họ dùng quân Khâm, Liêm, Ung cứu vùng Tây-Nam. Thế là họ mắc mưu ta. Khi quân ba nơi kia đổ về Tây-Nam, bấy giờ ta mới cho đạo thủy-quân đổ lên đánh Khâm, Liêm.
Ghi chú,
Hồi này thuật rõ:
- Nguyên do nào, Đại-Việt phải đem quân Bắc phạt?
- Ai là người chủ trương?
- Chủ đích cuộc Bắc-phạt như thế nào?
Như phần tựa đã trình bầy: Người chủ trương, lãnh đạo là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Nhưng tại sao, sau này chính sử Đại-Việt lại cố tình làm mờ nhạt huân công của ngài? Lại nữa, bấy giờ các công chúa Bình-Dương , Bảo-Hòa , Thiên-Thành , Động-Thiên ,Thiên-Ninh đã lập không biết bao nhiêu công lao, mà sau sử không nhắc tới? Các bà Trinh-Dung, Ngọc-Huệ, Ngọc-Nam, Thanh-Thảo, với phu nhân Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt... đều là danh tướng, rồi tuẫn quốc. Thế sao ngày nay chỉ thấy bốn bà Dung, Huệ, Nam, Thảo được phối thờ ở đền thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu; còn mười hai bà là phu nhân của Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt tại sao không thờ? Dù là thờ chung với chồng?
Tôi giải đoán như thế này:
Một là, sau thịnh thời của triều Lý, có tới ba bà thái hậu 0 nhân con thơ, nhiếp chính như Linh-Nhân hoàng thái hậu rồi làm cho nước loạn, làm những truyện dâm ô. Nên chi sử gia đời sau với quan niệm sử như tấm gương dạy hậu thế, đã bỏ không nói đến huân công của ngài, vì sợ việc cũ tái diễn.
Hai là, có thể thời Lý các bà được thờ chung với các ông. Nhưng đến thời Lê, vua Lê Thái-tổ đánh đuổi ngoại xâm rồi dựng lại kỷ cương. Những cuốn phổ bị Trương Phụ, Mộc Thạch lấy đi được viết lại, tâu lên triều đình xin phong thần. Triều đình nhân đó tước bỏ sắc phong của các bà, tước bỏ việc thờ cúng các bà, vì sợ phụ nữ lại được trọng?. Nên sau này trong đền chỉ thấy thờ các ông mà thôi.
Ba là vào giữa thời Lê, thời Nguyễn, Nho học cực thịnh. Nho học coi các bà nhiếp chính, cầm quân là hiện tượng gà mái gáy. Vì vậy một lần nữa thần tích, sắc phong đã bỏ các bà ra ngoài.
Cũng may, tôi lần mò tìm ở những tập sách nhỏ (sẽ trình bầy ở hồi thứ 34, trong quyển thứ tư này), danh tính, huân nghiệp của các bà. Không biết đến bao giờ đại công của các bà mới được phục hồi? Bao giờ lại đem tượng các bà thờ chung với các ông?
Việc này xin để hậu thế giải quyết.
Thái-úy Lý Thường-Kiệt là nhân vật tài trí bậc nhất thời Thần-vũ 0 và Anh-vũ Chiêu-thắng 0. Ngài là một anh hùng đã lập được huân công vĩ đại cho tộc Việt. Hiện còn nhiều đền thờ ngài. Tôi đã được viếng thăm đền thờ tại xã Ngọ-xá, huyện Vĩnh-lộc, tỉnh Thanh-hóa hai lần. Hiện hầu hết các đền thờ anh hùng dân tộc trong nước đều được dân địa phương trùng tu rất khang trang. Nhưng dân Ngọ-xá quá nghèo, vì vậy đền tiêu điều ...

Trên giữa cổng chính là ba chữ Lý Đại Vương (chữ Lý ở giữa. Bên phải là chữ Đại, bên trái là chữ Vương).
Đôi câu đối cổng chính:
Phạt Tống, bình Chiêm vạn cổ danh phương thùy vũ trụ,
Hộ dân bảo quốc thiên thu công đức quán sơn hà.

PhạtTống,bìnhChiêmtiếngthơmvạncổtrànvũtrụ.Hình dưới là cổng phụ bên trái, đôi câu đối là:
Anh hùng chí khí sinh dũng tướng,
Hào kiệt uy phong hóa phúc thần.

Chíkhíanhhùngsinhtướngmạnh,
Còn cổng bên phải có đôi câu đối:
Hách hách uy phong trừ nội nghịch,
Đường đường kính khí diệt ngoại xâm.

Uyphongháchháchtrừphảntặc,
Hình cổng phụ bên phải không còn cánh, tường, vách thủng, nghiêng gần muốn đổ.

Đền thờ chính
Mái ngói lâu ngày đã mục hết.
Các đồ thờ bên trong còn mục hơn nữa.
Dân xã nghèo quá, ăn không đủ, lấy tiền đâu mà cúng, mà trùng tu?


HOMECHAT
1 | 1 | 178
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com