watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
15:48:0226/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50 - Trang 14
Chỉ mục bài viết
Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 31-50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Trang 37
Trang 38
Trang 39
Trang 40
Trang 41
Tất cả các trang
Trang 14 trong tổng số 41



Chương 37b

Tử-Nguyên đem theo bốn kị binh hộ tống, khóc từ biệt cha, phi ngựa bất kể ngày đêm về Quế-châu xin yết kiến Lưu Di, trình bầy quân tình. Trong đoàn bốn kị binh, có một người tách ra khỏi đoàn, bị Thiên-tử-binh thuộc hiệu Vạn-tiệp của Tạ Duy bắt được, giao cho Phương-Quế. Phương-Quế sai cởi trói, đem rượu thịt giải về cho y ăn, rồi hỏi:
- Tại sao người không đi theo Tô Tử-Nguyên, mà lại tách ra?
Người lính đó quỳ mọp xuống khóc, rồi nói:
- Thưa phu nhân, đại-sư Pháp-Nhẫn vào thành thuyết phục Tô Giàm cho dân chúng, vợ con tướng sĩ ra ngoài để khỏi chết oan. Đại sư hứa rằng quân Việt sẽ không đụng đến những người dân vô tội này. Tô Giàm giả thuận theo ý của đại sư. Y sai làm cơm chay cúng dàng, rồi bỏ thuốc độc vào thức ăn. Đại sư vô tình ăn phải, ngã ra mê man. Bấy giờ Tô mới sai trói đại sư lại rồi kết tội là gian tế cho Đại-Việt, mục đích đem gia đình tướng sĩ ra ngoài cho quân Việt bắt làm con tin, hầu đòi đầu hàng. Đêm, đại sư vận công phá gông, rồi bỏ đi đâu, không ai biết.
Phương-Quế giải tên kỵ binh ấy đến dinh Thường-Kiệt, Tôn Đản. Sau khi cật vấn viên kị binh, biết chắc rằng y không có gì giả dối, Thường-Kiệt truyền tha cho y.
Phạm Dật nói với công chúa Thiên-Ninh:
- Công chúa! Chúng ta đã làm hết sức, nay Tô không thương dân Tô, thì việc gì ta phải thương dân của y?
Giữa lúc đó, thân binh vào báo:
- Có Trung-Thành vương đem theo một đội cung-thủ Long-biên lên tiếp ứng.
Tôn Đản, Thường-Kiệt, Thiên-Ninh vội vàng ra đón.
Lễ tất.
Mọi người vào trướng. Phạm Dật trình bầy tình hình từ khi quân Việt vượt biên đến giờ. Trung-Thành vương nói với Tôn Đản, Thường-Kiệt:
- Tin tế-tác của ta từ Biện-kinh báo về cho biết, Tống đang chuyển binh từ Bắc, Tây về Nam định đánh lớn. Vì vậy Thái-hậu truyền đệ tử lên tiếp viện cho sư thúc với sư-huynh. Ta phải giải quyết cho mau, rồi rút về giữ nhà.
Thường-Kiệt trình bầy về việc công thành. Trung-Thành vương ra lệnh cho Phạm Dật:
- Ngày mai ta sẽ xem các đệ công thành, rồi mới có ý kiến.
Hôm sau quân Việt tiếp tục công thành như trước.
Bây giờ nói chuyện Lưu Di ở thành Quế-châu.
Từ khi được cử xuống trấn nhậm Nam-thùy, bao nhiêu tâm huyết của Lưu đặt cả vào mười tám ải biên phòng, hy vọng khi Tống triều cử người đánh Đại-Việt, y sẽ được lĩnh ấn nguyên nhung. Sau khi thắng Đại-Việt, thì cái tước công không thể rời khỏi tầm tay. Nay quân Việt đánh như sét nổ, mười tám ải mất quá dễ dàng, rồi Khâm, Liêm, Dung, Nghi, Bạch thất thủ. Y bàng hoàng cả người, nên muốn lưu ba đạo binh triều với đạo kị binh để thủ thân, thì đời nào y cho đem đi cứu viện thành Ung? Nhưng trước sự khẩn khoản của Tử-Nguyên, y đành sai viên Đô-giám tuần kiểm Quảng-Tây Nam-lộ Trương Thủ-Tiết, đem ba đạo binh đệ 1, 2, 3, cùng đạo kị-binh 47 cứu viện.
Trương Thủ-Tiết là một tướng giỏi việc quân, xuất thân tiến-sĩ, nhưng võ công bình thường. Nghe nói quân Việt cực kỳ thiện chiến, lại đông gấp bốn, năm quân mình, nên y cho quân đi mỗi ngày năm mươi dặm (25 km ngày nay), với ý nghĩ rằng chờ cho quân Việt với quân Ung đều mệt mỏi, y mới nhập cuộc.
Tại thành Ung, Tử-Nguyên đi rồi, quân Việt lại dùng hỏa công đánh cầm chừng suốt ba ngày 27, 28, 29 tháng chạp 0. Lần này quân đô thống Ngô Ức có sáng kiến chỉ cho đánh hai cửa thành. Còn hai cửa thì bỏ trống cho quân Tống trốn ra. Tô Giàm thấy rằng sau khi bị đánh hỏa công, lương thảo chày mất hơn nửa. Số lương còn lại, không đủ nuôi quân trong vòng một tháng. Y vội viết thư, rồi sai bọc sáp cho khỏi ướt, đem nhét vào âm hộ một con ngựa; nhân lúc quân Việt hưu chiến trong dịp tết Nguyên-đán, y sai người phi ngựa đưa cho viên Đề-điểm hình ngục Quế-châu Tống Cầu, để Cầu thúc Lưu Di dùm.
Khi Cầu nhận được thư, thì Trương Thủ-Tiết đã lên đường đang đóng ở ải Côn-lôn, nằm giữa đường Ung-châu đi Tân-châu. Cầu đuổi theo kịp, khóc xin Thủ-Tiết cứu viện khẩn cấp. Hôm ấy là ngày mùng một tết. Thủ-Tiết đành họp các tướng dưới quyền là Đề-cử Tả-Giang Ôn Nguyên-Dụ chỉ huy đạo binh đệ nhất; Đô-giám Hồ-Nam là Trương Biện chỉ huy đạo binh số đệ nhị; tuần kiểm hai châu Ung, Tân là Hứa Dự chỉ huy đạo binh đệ tam; tuần kiểm ba châu Liễu, Tượng, Tân là Vương Trấn chỉ huy đạo kị binh thứ 47. Ngoài ra còn có tham-tướng Triệu Tú coi về Tế tác Quảng-Nam Tây-lộ Các tướng đồng ý để cho quân ăn tết ba ngày, sang ngày 4 tháng giêng là ngày Tân-Dậu, năm Bính-Thìn -1078 thì xuất quân.
Ghi chú,
Xét quan chế Tống triều, thì Lưu Di làm Kinh-lược An-vũ sứ, tương đương với ngày nay :
- Thời Pháp thuộc là Thống-sứ (Pháp) hay Kinh-lược-sứ (Việt).
- Thời Việt Nam Cộng-hòa là Đại-biểu chính phủ miền.
- Hiện trong nước không có chức vụ tương đương.
- Dưới Di còn có viên Chuyển-vận sứ,tương đương với ngày nay là Phó đại biểu hành chánh miền.
Đô-giám tuần kiểm Quảng-Tây Nam-lộ tức chỉ huy quân sự vùng này. Ngày nay bao gồm lãnh thổ Quảng-Đông, Quảng-Tây, Hồ-Nam và Quý-châu, tương đương với lãnh thổ hai Quân-khu. Ta cứ coi như là Tư-lệnh Quân-lực liên Quân-khu Nam-thùy. Trương Thủ-Tiết giữ chức này.
Đề-cử Tả-giang, tương đương với ngày nay là Tư-lệnh Quan-khu Tả-giang. Ôn Nguyên-Dụ giữ chức này.
Đô-giám Hồ-Nam,tương đương với ngày nay là Tư-lệnh Biệt-khu Hồ-Nam hay Chỉ-huy trưởng bộ chỉ huy Chiến-khu Hồ-Nam.
Tuần-kiểm, tương đương với ngày nay là Chỉ-huy trưởng bộ chỉ huy Quân-sự tỉnh hay Tiểu-khu trưởng Tiểu-khu
Đạo-binh tương đương với một Sư-đoàn.

Với bốn vạn người ngựa ăn tết ở giữa vùng đông dân như vậy, tin tức lọt ra rất mau, Tế-tác Đại-Việt thu được, trình cho Đinh Hoàng-Nghi, Vũ-Quang biết. Hai người vội sai chim ưng báo cho đại bản doanh của nguyến-soái Thường-Kiệt, Tôn Đản. Sau khi hội ý wới nhau, Thường-Kiệt cho gọi Phạm Dật, Lý Đoan, Trần Ninh tới, ban lệnh:
- Đúng như chúng ta ước đoán, Lưu Di đem ba Đạo quân đệ 1, 2, 3 và đạo kị 47 tiếp ứng Ung-châu. Trước đây ta đã cho Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi đem cản bộ binh mã phục ở núi Đại-giáp gần Côn-lôn. Nhưng với hai hiệu Thiên-tử binh, không thể thắng bốn vạn quân Tống. Vậy ba Đô-thống hãy đem bản bộ quân mã lên hợp với Quang, Nghi diệt đám viện binh này. Có điều ta lo lắng là võ công bọn Ôn Nguyên Dụ, Trương Biện, Hứa Dự, Vương Trấn rất cao cưởng, đang ở tuổi bốn mươi, công lực mạnh vô cùng. Long-biên ngũ hùng không phải là đối thủ của chúng. Vậy phải dùng mưu mà trừ chúng.
Trần Ninh hỏi:
- Xin nguyên soái cho biết trong năm đứa chúng tôi, ai là chúa tướng?
Thường-Kiệt trầm tư suy nghĩ rồi nói với Tôn Đản:
- Xin sư thúc chỉ định cho.
Tốn Đản chỉ Trung-Thành vương :
- Năm Đô-thống cùng năm phu nhân tuy tài ba, nhưng không ai hơn ai, thực khó vô cùng. Nguyên soái nên để cho vương-gia tổng chỉ huy là hơn cả.
Trung-Thành vương đứng dậy:
- Xin tuân lệnh sư thúc và đại-ca.
Vừa lúc đó, thì Thần-vũ thập anh phi ngựa về tới. Thường-Kiệt hỏi:
- Thế nào, các sư đệ, sư-muội theo nhị vị sư thúc, sư thẩm về Biện-kinh, đã làm được những gì?
Hùng Nhân cười vui vẻ thuật lại vụ vua bà Bình-Dương, phò-mã Thân Thiệu-Thái, U-bon vương Lê Văn, công-chúa Nong-Nụt cùng Thần-vũ thập anh phá nóc Điện Sùng-chính đại náo Tống triều. U-bon vương còn dùng thuốc làm cho Lý Hiến ngứa ngáy khốn khổ; rồi Âu Hoàng, Âu Huyền trêu ghẹo, làm cho y phát điên phát khùng.
Trung-Thành vương bảo Thần-vũ thập anh:
- Các vị sư-huynh, sư-tỷ về đúng lúc. Hiện chúng tôi đang cần những cao thủ bậc nhất để chặn viện quân từ Quế-châu xuống. Không biết các vị có thể lên đường được ngay khống?
Âu Hoàng vui vẻ:
- Đa tạ vương gia đã tin dùng.
Ngay chiều hôm đó, Trung-Thành vương dẫn Thần-vũ thập anh, bọn Dật, Đoan, Ninh cùng bản bộ quân mã lên đường. Tất cả đoàn quân tới núi Đại-giáp chiều ngày 3 tháng giêng. Vương được Đinh Hoàng-Nghi, Phạm Dật dẫn đi quan sát địa thế. Ngay đêm hôm đó, vương cho họp chư tướng để ban lệnh.
Vương thăng trướng, rồi giảng giải:
- Trương Thủ-Tiết đem quân từ Côn-lôn xuống Ung phải qua hai ngọn núi Đại-giáp và Hỏa-giáp. Hai ngọn Giáp nằm song song theo hướng Đông-Tây. Tính từ Bắc xuống Nam là ngọn Đại-giáp rồi tới ngọn Hỏa-giáp. Giữa hai ngọn là một thung lũng nhỏ tên Ngọc-tuyền, dân cư thưa thớt, sống quanh ngọn suối này. Theo binh pháp của Tống, khi di chuyển sẽ cho bộ binh đi trước, kị binh đi sau, rồi tới lương bổng. Hai ngọn Giáp có con đường tắt, vậy Phạm Dật Kim-Loan được tăng viện Hùng Nhân, Âu Hoàng đem hiệu Ngự-long đi theo con đường này ém quân chờ sẵn. Đợi khi toàn quân của chúng đã lên đường hết, thì đem quân đánh úp trại lương. Sau khi đánh xong đoàn vận lương, thì đốt cỏ lên để làm nát lòng quân giặc.
Bốn người lĩnh mệnh đi ngay.
- Đường từ Côn-lốn đến núi Đại-giáp ít ra là bốn mươi dặm. Quân Thủ-Tiết khởi hành sớm thì buổi chiều mới vượt qua núi Đại-giáp. Y sẽ dừng quân lại thung lũng Ngọc-tuyền nấu ăn, và qua đêm. Lý Đoan, Ngọc-Liên được tăng viện Hùng Nghĩa, Âu Thanh đem hiệu Bổng-nhật phục ở trên đỉnh ngọn Đại-giáp. Trần-Ninh Ngọc-Hương được tăng viện Hùng-Lễ Âu-Huyền đem hiệu Đằng-hải phục trên đỉnh ngọn Hỏa-giáp. Hai đạo chờ cho quân Thủ-Tiết nghỉ ngơi nấu cơm chiều, sắp sửa ăn, thì phát pháo reo hò, treo cờ khắp núi, nhưng không được đổ xuống đánh. Mục đích của hai hiệu Bổng-nhật, Đằng-hải là đóng chặn làm cho giặc tiến không được, mà lùi cũng không xong. Như vậy chỉ trong vòng hai ngày, người ngựa đói lả, ta sẽ bắt chúng như bắt ốc trên bãi biển.
Tám người lĩnh mệnh.
Vương quay lại nói với Vũ Quang, Kim-Liên, Đinh Hoàng-Nghi Phương-Quỳnh, Hùng Trí, Âu Lam, Hùng Tín, Âu-Hồng:
- Các sư huynh, sư tỷ cùng các em với ta sẽ làm nhiệm vụ đặc biệt.
Hôm ấy là ngày Tân-Dậu, 4 tháng Giêng năm Bính-Thìn, niên hiệu Thái-Ninh thứ năm đời vua Nhân-tông Đại-Việt, nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ chín đời vua Thần-tông nhà Tống-1078.
Đô-giám tuần kiểm Trương Thủ-Tiết cho quân lên đường cứu Ung-châu thực sớm. Quân chia làm ba cánh. Cánh đi đầu gồm đạo binh đệ nhất, do viên đề cử Tả-giang là Ôn Nguyên-Dụ chỉ huy. Cánh thứ hai là đạo binh đệ nhị do đô-giám Hồ-Nam chỉ huy. Trương Thủ-Tiết và các tướng tham mưu đi giữa hai đạo binh này. Cánh thứ ba, là đạo binh đệ tam, do tuần kiểm hai châu Ung,Tân là Hứa Dự chỉ huy đi với đạo kị binh 47 do tuần-kiểm hai châu Liễu, Tượng là Vương Trấn chỉ huy.
Đoàn quân rầm rộ lên đường. Đến khoảng giờ Tỵ thì toàn quân đã vượt qua núi Đại-giáp. Sang đầu giờ Ngọ thì quân đã vào thung lũng Ngọc-tuyền. Các tướng truyền cho quân đóng trại, nấu cơm ăn.
Từ tiền cổ, dù thời bình hay thời loạn, người Hoa, người Việt đều có lệ ăn tết từ ngày 23 tháng Chạp cho tới ngày rằm tháng giêng. Trong những ngày đó, hễ có dịp là người ta lại họp nhau đánh bạc. Vì vậy, tuy trên đường mang quân cứu viện, các tướng Tống cũng không quên cái thú đổ bác.
Trương Thủ-Tiết cho gọi các tướng tới doanh mình uống rượu, đánh bạc. Rượu ngà ngà say, tần-kiểm hai châu Liễu, Dự nói:
- Tất cả chúng ta đây đã từng vào sinh ra tử ở mặt trận Tây-hạ, nhờ lập công, mà được thăng quan tiến chức đổi về đây. Bây giờ đức vua nghe lời tên thư sinh mặt trắng Vương An-Thạch bầy ra cái gì là Thanh-miêu, Trợ-dịch, khiến cho dân chúng khốn khổ. Rồi triều đình lại sai tên Lưu-Di, một cái múa, một chiêu võ không biết xuống trấn Nam thùy. Y hung hăng gây chiến với Đại-Việt. Nay quân Đại-Việt kéo cao cờ nghĩa điếu dân phạt tội; chỉ một trận chiếm mười tám ải, năm châu Khâm, Liêm, Dung, Nghi, Bạch. Bây giờ đại quân lại vây thành Ung. Tên Lưu Di bắt chúng ta đem quân cứu viện. Các huynh nghĩ sao?
Đô-giám Hồ-Nam Trương Biện nổi cáu:
- Con bà nó chứ, tôi làm Đô-giám ở Hồ-Nam, đâu có thống thuộc tên Lưu Di? Y làm Kinh-lược an-phủ sứ Quảng-Nam lộ tôi đếch cần biết y là gì. Ngặt một điều, mới đây y được chiếu chỉ có toàn quyền trưng dụng binh tướng vùng Kinh, Hồ. Vì thế y bắt tôi dẫn quân đi cứu Ung. Tổ bà nó, giả như khi tôi vắng nhà, mà Hồ-Nam có sự thì sao đây?
Tham-tướng Triệu Tú bàn:
- Tôi nghĩ, chúng ta trung với chúa, nhưng đừng trở thành ngu trung. Tôi nghe quân Đại-Việt chỉ đánh thành Ung rồi rút. Nay thành Ung như ngọn đèn trước gió, chúng ta có cứu cũng không nổi. Chi bằng ta cứ tiến quân thực chậm, chờ đợi. Nếu Ung thất thủ, quân Đại-Việt rút đi là may. Còn như Ung vẫn chống trả được, ta đợi quân Việt mệt rồi mới tiến lên, thì may ra thắng được.
- Đúng thế. Bây giờ chúng ta hãy cùng nhau đen đỏ một phen đã.
Bàn Tài-sửu bầy ra, Trương Thủ-Tiết làm cái. Sau bốn lần sóc, đến lần thứ năm, hầu như tất cả nhà con đều đặt bên Tài, Trương Thủ-Tiết hô lớn:
- Yêu cầu thu tay lại!
Y mở bát, thì ra Sửu. Y vừa thu bạc, thì tiếng pháo nổ liên hồi, rồi tiếng trống thúc vang dội, tiếng quân reo như sấm động vọng lại. Các tướng kinh hoàng, thế là sòng bạc tan. Trương Thủ-Tiết nhét bạc vào túi, mặc giáp trụ.
Đến đây quân vào báo:
- Trình tướng quân, chúng ta bị vây rồi. Quân Nam-man đóng trên đỉnh núi Đại-giáp, Hỏa-giáp đánh trống reo hò chặn mất đường tiến quân, lẫn đường lui quân.
- Cứ bình tĩnh.
Y ra lệnh:
- Tạm ngừng nấu cơm. Chuẩn bị tác chiến, nếu chúng đổ đồi. Đạo đệ tam thử cho quân thám thính xem tình hình quân Man ra sao.
Hứa Dự tuân lệnh lên đường. Lát sau y trở về báo tin:
- Không rõ quân Man bao nhiêu, chỉ thấy cờ xí treo khắp núi, quân reo, trống thúc mà thôi.
- Lệnh đóng trại, canh phòng thực cẩn thận.
Cho đến hết canh hai, vẫn không thấy quân Việt đổ đồi tấn công, Thủ-Tiết ra lệnh cho quân tiếp tục nấu cơm ăn, rồi đi ngủ, nhưng phải để nguyên giáp trụ trên người.
Quân sĩ vừa riu riu ngủ, thì có tiếng cọp gầm, tiếng quân reo, rồi lửa bốc cháy ở khu trại kị binh. Quân sĩ vội rời chỗ ngủ, cầm vũ khí chuẩn bị chiến đấu. Lát sau Vương Trấn trở lại báo:
- Trình tướng quân, bọn Nam-man không tiến công, chúng xua hơn hai trăm con hổ tràn vào khu chuồng ngựa, làm hơn nghìn ngựa vừa bị chết, vừa bị thương, hơn ba nghìn ngựa chạy tán loạn vào rừng. Vì trong đêm, sợ có phục binh, nên tiểu tướng không dám cho quân bắt về. Viên tướng chỉ huy còn rất trẻ, trên cờ hiệu có chữ « Đô-thống Đinh » và « Đại-Việt thiên tử binh Quảng-vũ ». Cạnh y còn một nữ tướng cực kỳ xinh đẹp.
Thủ-Tiết đưa mắt hỏi tham-tướng Triệu Tú. Tú đáp:
- Trình đô-giám, nếu kỳ hiệu như vậy thì y tên là Đinh Hoàng-Nghi, giữ chức Đô-thống, chỉ huy hiệu Quảng-vũ. Còn nữ tướng là vợ y tên Phương-Quỳnh. Võ công tên này bình thường, nhưng tài dụng binh của y thực hiếm người bằng.
- Thôi được, cho quân đi nghỉ, ngày mai sẽ liệu.
Đèn trong trại vừa tắt, trống điểm canh đánh ba tiếng, quân tướng mới chợp mắt, thì lại thấy tiếng la hét, tiếng quân reo, đèn đuốc đốt lên sáng rực. Quân sĩ vội dàn trận chuẩn bị chiến đấu. Nhưng không thấy động tĩnh gì khác. Lát sau Ôn Nguyên-Dụ lại báo:
- Trình tướng quân, không có quân Nam-man, mà chỉ có khoảng hai trăm con báo xông vào khu trại đạo đệ nhất, làm hơn nghìn người vừa chết vừa bị thương. Tướng chỉ huy đi dưới cờ có chữ « Đô-thống Vũ », và « Đại-Việt thiên tử binh Quảng-thánh ». Cạnh y cũng có một nữ tướng trẻ, rất xinh đẹp.
Trương Thủ-Tiết kinh hãi. Y chợt nhớ lại hồi theo quân đánh Tây-hạ, y được Kinh-Nam vương kể rằng, người Việt thường nuôi thú huấn luyện thành binh đội để dùng trong việc xung phong hãm trận. Y đưa mắt hỏi Triệu Tú. Tú đáp ngay:
- Trình Đô-giám như vậy đây là hiệu Thiên-tử-binh Quảng-thánh do đô-thống Vũ Quang chỉ huy, võ công y rất cao thâm. Còn vợ y tên Võ Kim-Liên.
- Thôi đi nghỉ.
Quân sĩ tắt đèn, vừa riu riu ngủ, thì lại có tiếng quân la hét, rồi tiếng chó tru. Quân sĩ lại phải thức dậy, đèn đuốc đốt lên sáng rực, chuẩn bị chiến đấu. Lát sau Trương Biện lại báo:
- Trình tướng quân, lại tên Đinh Hoàng-Nghi với vợ y, đem khoảng hai chục tên tiểu yêu xua đàn chó sói xông vào trại đạo đệ nhị, làm hơn nghìn người vừa chết vừa bị thương.
Trương Thủ-Tiết ra lệnh:
- Không ngủ nữa. Giữ nguyên đèn đuốc, đề phòng chúng xua thú tấn công.
Y nói với Vương Trấn:
- Lúc đầu chúng tấn công đạo kị binh, rồi tới đạo đệ nhất, đệ nhị. Bây giờ chắc tới đạo đệ tam. Vậy Vương tuần kiểm phải cẩn thận.
Nhưng từ sau khi bị sói tấn công cho đến lúc trời sáng, doanh trại Tống hoàn toàn yên tĩnh. Thủ-Tiết họp các tướng lại để nghị sự. Vương Trấn chửi thề:
- Con bà nó! Từ qua đến giờ, mình hao hơn ba nghìn ngựa, bốn nghìn người vừa chết, vừa bị thương, mà chưa được đánh một chiêu võ, bắn một mũi tên; cũng chưa thấy mặt một tên Nam-man nào.
Bỗng có tiếng trống thúc, tiếng quân reo, rồi quân vào báo:
- Có một đoàn quân đang kéo từ phía Đông tới, dàn ra trước trại khoảng ba dặm. Chúng cử một đôi nam nữ thanh niên cỡi voi tới trước trại xin được yết kiến tướng quân.
- Cho vào!
Thủ-Tiết dàn võ sĩ làm hai hàng, rồi y rút kiếm lệnh để lên án thư ngồi chờ. Lát sau, đôi nam nữ phong lưu tiêu sái khoan thai bước vào trại, cung tay hành lễ:
- Đô-thống lĩnh đạo Thiên-tử binh Quảng-vũ Đinh Hoàng-Nghi cùng vợ là Phương-Quỳnh xin tham kiến Trương đại nhân và quý vị tướng sĩ Đại-Tống.
Thủ-Tiết xuất thân tiến sĩ, nên y cũng có cái nét phong lưu. Y đáp lễ rồi mời Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh ngồi:
- Đô-thống tới đây có việc gì? Từ qua đến giờ các người không dám trực điện đánh với chúng ta, mà chỉ cho đội thú cắn trộm, như vậy thực không đáng mặt anh hùng?
Phương-Quỳnh cười đáp:
- Trương đại nhân nói sai rồi. Thứ nhất chúng tôi chỉ là hai thiếu niên thuộc tộc Việt, không bao giờ mơ ước thành anh hùng cả. Thứ nhì là thú của chúng tôi công khai tấn công, cắn trước mặt chứ đâu có cắn trộm?
- Các ngươi tới đây với mục đích gì? Ai sai các người tới đây?
- Chúng tôi tuân lệnh Trung-Thành vương, thống lĩnh mặt trận Đại-giáp này tới yết kiến Đô-giám, xin trả Đô-giám hơn trăm tù binh bắt được hôm qua. Chỉ có vậy mà thôi. Mời Đô-giám ra trước trại nhận người.
Trương Thủ-Tiết cùng các tướng ra trước trại. Đinh Hoàng-Nghi cầm tù và rúc lên, trận Việt tách ra làm hai, rồi một toán tù binh Tống được đưa đến trước trại. Thủ-Tiết nhận ra đó là viên lữ trưởng Tô An cùng đám binh sĩ trong đoàn vận tải lương thực. Không giữ được bình tĩnh, Thủ-Tiết lên tiếng hỏi:
- Tô An, tại sao các người ở đây?
- Trương đại nhân ơi! Hôm qua, lúc Trương đại nhân lên đường rồi thì quân Việt ập tới đánh chiếm hết đoàn xe vận lương. Chỉ hơn một khắc, toàn thể lữ vận lương bị bắt, bị giết hết. Quân Việt rất tử tế, họ băng bó vết thương cho chúng tôi, rồi đem trả về với đại nhân.
Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh cung tay:
- Xin cáo từ Đô-giám, hậu hội hữu kỳ.
Thủ-Tiết nghĩ thầm:
- Chúng đem người đến trả cho ta chỉ với mục đích làm nản lòng quân mà thôi. Ta hãy bắt hai đứa này khiền cho một trận, thì mới biết rõ tình hình quân Nam-man.
Nghĩ vậy, y đưa mắt cho Vương Trấn, Hứa Dự. Hai tướng tung mình lên chụp Hoàng-Nghi với Phương-Quỳnh. Nhưng Nghi, Quỳnh vẫn thản nhiên như không biết bị tập kích, khoan thai đi. Thình lình hai bóng hồng từ hai bên vọt người tới vung chưởng tấn công Vương, Hứa. Chưởng chưa ra hết, mà hai người đã cảm thấy ngộp thở. Cả hai vội biến trảo thành chưởng đỡ. Bình, bình. Cả bốn người đều bật lui. Bấy giờ Vương, Hứa mới để ý đến đối thủ: Đó là đôi nam nữ, nam thì hùng vĩ khôi ngô, nữ thì yểu điệu sắc nước hương trời.
Cả hai cung tay:
- Hùng Tín, Âu Hồng tham kiến Vương, Hứa đại nhân. Mong nhị vị thứ lỗi cho cái tội vô phép này.
Nói rồi hai người hú lên một tiếng dài, một đôi cọp từ trong bụi cỏ phóng tới. Hùng, Âu khoan thai lên lưng cọp, phơi phới mà đi.
Hứa Dự chửi thề:
- Mẹ cha bọn gái Việt, chúng đẹp thực, mà cũng đáng sợ thực. Hèn chi xưa kia Ngô Phù-Sai mất nước vì Tây-Thi. Phải chi bắt được một đứa, đem về ôm vài đêm, rồi có chết cũng cam lòng.
Sau khi đối chưởng với hai thiếu niên Việt, Vương Trấn, Hứa Dự cảm thấy khí huyết đảo lộn cực kỳ khó chịu. Hai người vội ngồi xuống điều khí. Được ba tức, cả hai kinh hãi khi thấy bàn tay sưng vù đỏ như máu, rồi như có con dao đâm vào ngực đau đớn đến không chịu nổi. Hai người cùng bât lên tiếng Ái rồi lăn lộn, trong khi chân tay dẫy tê tê.
Chư tướng kinh hãi la lên:
- Chư-sa huyền âm chưởng.
Thủ-Tiết xuất trận phen này đặt hết tin tưởng vào võ công bọn Vương, Hứa, Ôn, Trương. Nhưng chỉ mới xuất chiêu lần đầu, mà hai người không thắng nổi đôi thiếu niên Đại-Việt, thì còn mong mỏi gì nữa? Y hỏi Vương Trấn, Hứa Dự:
- Các vị thấy thế nào?
- Võ công đôi nam nữ vừa rồi thực kỳ lạ. Nam ra chiêu Lôi-đả Ân tặc của phái Sài-sơn, nữ ra chiêu Phong-đáo sơn đau của phái Đông-a. Cả hai chiêu đều thuộc chính phái của Đại-Việt, nhưng nội công có đôi phần giống nội công Huyền-âm của phái Trường-bạch ở Liêu-Đông, lại phảng phất giống Hồng-thiết công của Hồng-thiết giáo.
Ôn Nguyên-Dụ than:
- Vua Thái-tổ triều Lý bên Đại-Việt xuất thân từ Thiền-môn, nên cực kỳ bài bác tà ma, tại sao trong quân Vệt lại có người xử dụng võ công Hồng-thiết giáo?
Sau hai giờ bị đau đớn hành hạ, Hứa, Vương trở lại bình thường. Thủ-Tiết họp các tướng lại nghị sự. Hứa Dự bàn:
- Phía trước tiến lên thì không nổi, phía sau rút về cũng không xong. Đóng ở đây, thì chiều nay quân sĩ hết lương thực, e ngày mai không chết trận mà chết đói hết. Bây giờ chỉ có cách đánh liều mạng phá vòng vây trở về Côn-lôn, rồi tính sau.
Thủ-Tiết đồng ý, y truyền cho Ôn Nguyên-Dụ mang đạo đệ nhất leo núi Đại-giáp mở vòng vây. Tiếp theo Trương Biện mang đạo đệ nhị, Hứa Dụ mang đạo đệ tam tiếp ứng. Đạo kị binh đi sau cùng.
Nguyên-Dụ trở về cho quân dàn trận, rồi tiến đến chân núi Đại-giáp.
Đường từ chân núi lên đỉnh khoảng sáu dậm (3 km), nhưng hẹp và dốc, nên quân chỉ có thể di chuyển theo đội hình dọc, mỗi hàng từ ba tới năm người. Tốt đầu tiên lên đến lưng chừng núi, thì một tiếng nổ rung động không gian, rồi một trái cầu lửa chụp xuống đầu toán tiền sát. Trống thúc vang lừng. Quân Việt từ các hốc đá, từ sườn núi dùng cung tên bắn ra. Trọn vẹn hai tốt đi đầu bị giết trong khoảng một khắc. Bốn tốt đi sau vội lùi trở xuống. Quân Việt chỉ reo hò, mà không đuổi theo.
Tuy kinh hoàng, nhưng bị lâm thế cùng, Ôn Nguyên-Dụ cho quân để tất cả hành lý dưới chân núi, chỉ mang vũ khí nhẹ, rồi dàn ra len lỏi theo cây cối mà tiến lên. Khi vượt qua khoảng hai phần ba sườn núi quân sĩ mệt thở dốc, thì quân Đại-Việt lại thúc trống, rồi dùng máy bắn đá bắn ra, đội thần-tiễn Long-biên núp trong các hốc đá, nhắm từng người mà bắn tỉa.
Khác với lần trước, tên đều nhắm trán, ngực quân Tống, nên ai trúng tên là chết ngay tại chỗ. Lần này tên lại trúng mông, đùi, vai, làm cho binh Tống ngã xuống, rồi la hét, kêu khóc đồng đội cấp cứu.
Quân bị thương, bị chết mặc quân, Ôn cứ thúc tiến lên. Hai quân đã giáp với nhau, cuộc giao tranh giữa kẻ trấn thủ và người mở đường máu cầu sống diễn ra cực kỳ khốc liệt.
Lý Đoan đứng trên một tảng đá lớn trấn ở đỉnh cao nhất, nơi có con đường băng qua, tay cầm ngũ hành kỳ, tù và, pháo thăng thiên để chỉ huy. Cạnh Đoan là Hùng Nghĩa với đội võ-sĩ dàn ra bảo vệ chúa tướng.
Dưới sườn, Ngọc-Liên cầm kiếm đứng ngay tuyến đầu đốc chiến. Cách nàng không xa, Âu Thanh cũng cầm kiếm chỉ huy một tuyến phòng thủ.
Quân Tống đông như kiến, dẵm lên xác đồng đội để leo núi, rồi xông vào chém giết. Nhưng quân Việt nhất định không lùi giữ nguyên vị trí.
Ôn Nguyên-Dụ thoáng trông thấy Ngọc-Liên đang đứng chỉ huy quân. Y tung mình lên chụp nàng. Ngọc-Liên kinh hoảng, đưa kiếm vào ngực y. Nguyên-Dụ lách tay một cái đoạt được kiếm của nàng, rồi túm áo nàng quật vào tảng đá. Nhưng y cảm thấy ngộp thở, vì phía sau y, một thiếu phụ mặc quần áo trắng sắc nước hương trời đang đưa kiếm vào cổ y, kình lực kiếm phát ra vo vo. Kinh hoảng, y đưa Ngọc-Liên ra đỡ kiếm. Nhưng mũi kiếm lách sang phải, trúng cùi chỏ y. Đau quá y buông rơi Ngọc-Liên xuống, rồi lộn đi hai vòng, tránh ba chiêu kiếm của người áo trắng. Ôn với người áo trắng quay tròn đấu với nhau, bất phân thắng bại.
Tuy suýt chết, nhưng khi vừa đứng dậy, Ngọc-Liên vẫn bình tĩnh chạy dọc theo tuyến đầu chỉ huy. Bấy giờ nàng mới kịp nhận ra người áo trắng là Âu Thanh.
Cuộc giao tranh vẫn tiếp diễn khốc liệt. Quân Tống tuy đông gấp ba quân Việt, nhưng một là mất tinh thần, hai là leo núi mệt, ba là võ công không giỏi như quân Việt, nên cuộc chiến vẫn ngang ngửa.
Thình lình có tiếng tù và thổi một hơi dài. Ngọc-Liên biết đó là biểu hiệu của đạo Ngự-long. Khoảng nửa khắc sau, có hàng trăm hàng ngàn tiếng chó sói tru, tiếng cọp gầm, tiếng beo rống. Rồi từ phía sau, đội Thần-báo, Thần-hổ, Thần-ngao do Phạm Dật, Lê Kim-Loan, Hùng Nhân, Âu Hoàng chỉ huy xông vào phòng tuyến. Trận tuyến quân Tống bị rối loạn liền.
Đứng trên cao, Lý Đoan nhìn rõ, lập tức chàng cầm cờ phất, đội Thấn-nỏ đổ đồi, vừa đi vừa bắn liên châu vào hông quân Tống. Thoáng một cái quân Tống đã bị đánh bật xuống đưới núi.
Lý Đoan thổi tù và ra lệnh thu quân. Chàng hỏi Phạm Dật, Kim-Loan:
- Anh chị tới tiếp viện vừa kịp, bằng không thì bọn em sẽ bị tổn thất nhiều lắm.
- Hôm qua, sau khi đánh cướp lương thảo của quân Tống, ta sai chim ưng báo tin cho Trung-Thành vương biết. Công chúa sai vợ chồng Hoàng-Nghi tới lĩnh tù binh. Người truyền lệnh cho ta đánh ải Côn-lôn, rồi đem quân đóng ở dưới chân núi Đại-giáp, bảo vệ lưng, cùng tiếp tế nước cho tứ đệ. Sáng nay, ta thấy Thần-ưng tuần thám báo cho biết tứ đệ, Ngọc-Liên đang giao chiến với địch. Ta vội rủ Kim-Loan đem thú binh lên tiếp ứng. Bây giờ chú tính sao?
- Em đã ra lệnh thu nhặt xác chết, cùng tù binh Tống, đem xuống núi trao cho họ. Anh nghĩ có nên không?
Hùng Nhân xua tay:
- Tại sao lại phải mất công trao trả xác chết với tù binh cho chúng?
Ngọc-Liên nói nhỏ:
- Sư huynh ơi! Về võ công thì sư huynh cao thực, nhưng sư huynh chưa quen chinh chiến. Để em nói cho sư huynh nghe. Binh pháp dạy rằng : « Bất chiến nhi khắc nhân chi binh, thiện chi thiện giả dã ». Nghĩa là: Không đành nhau, mà thắng được binh địch là người dùng binh giỏi trong những ngươi dùng binh giỏi. Nay ta chỉ mất chút công, đem xác chết, thương binh trả cho tướng Tống. Tướng Tống tất sai binh sĩ nhận mặt xác chết, rồi đào lỗ chôn cất. Lại nữa, họ phải sai binh sĩ trông coi chăm sóc thương binh. Như thế ta có ba điều lợi. Một là ta được tiếng nhân nghĩa. Hai là làm hao tổn nhân lực địch. Ba là binh sĩ địch thấy đồng đội chết, bị thương, sẽ mất nhuệ khí sẽ mất đi. Trong trận sau ta dễ thắng.
Nàng hỏi Âu Thanh:
- Gã Ôn Nguyên-Dụ đấu với sư tỷ thắng bại ra sao?
- Chúng ta đấu được trên trăm chiêu, thì cả hai cùng bị gẫy kiếm. Chúng ta quay ra đấu chưởng. Thực đáng nể, Dụ là cao thủ của phái Võ-đang, chúng ta đấu ngang tay. Cuối cùng đi đến đấu nội lực. Khoảng một khắc, nội lực ta yếu hơn, nên bị lùi bốn bước. Trong khi nguy cấp, ta tòng tâm phát Chu-sa huyền âm nội lực, rồi đánh bậy ba chưởng. Giữa lúc đó quân Tống lui binh. Đêm nay tên họ Ôn sẽ đau đớn đến chết đi sống lại vì Chu-sa huyền âm độc tố. Ta lấy làm lo sợ vô cùng, vì nếu vụ này đến tai sư phụ, ắt người phạt ta về cái tội dùng võ công tà môn.
Phạm Dật, Lý Đoan cho quân nghỉ ngơi, tuy nhiên dưới chân núi lúc nào cũng duy trì hai đội Ngao-binh, trên trời cho Thần-ưng canh phòng. Trận đánh tuy ác lệt, nhưng Thiên-tử binh tổn thất rất ít, vì hầu như mỗi người lính đều là một võ sĩ.
Phạm Dật họp các tướng lại để chuẩn bị chống trả cuộc đánh mở đường máu ngày mai của quân Tống. Sáu cặp vợ chồng, sau trận xung sát vào sinh ra tử, họ mới cảm thấy yêu thương nhau hơn.
Vừa lúc ấy có chim ưng mang lệnh của Trung-Thành vương tới. Sáu người lấy thư trong ống dưới chân chim ưng ra cùng nhau nghiên cứu.
« ... Sau trận đánh vừa qua, đạo quân đệ nhất của Tống chỉ còn một phần ba, đạo đệ nhị còn một nửa. Đêm qua quân Tống bị Hoàng-Nghi, Phạm Dật quấy phá suốt đêm, mệt rã rời. Sáng hôm nay phá vòng vây không nổi. Đêm nay Trần Ninh, Ngọc-Hương sẽ đổ đồi, cướp trại, mục đích làm cho quân Tống mệt mỏi hơn nữa. Các hiền đệ cho quân ngủ sớm. Vì quân Tống tuyệt đường lương, bằng mọi giá, ngày mai chúng phải phá vòng vây. Vậy hãy cố gắng tránh giao tranh. Đợi đến chiều mai quân Tống đói rã ra, mới giao chiến ».
Sáu người cho quân đi ngủ sớm, rồi lên ngọn cây cao chót vót nhìn xuống vùng thung lũng Ngọc-tuyền chờ xem quân của Trần Ninh, Ngọc-Hương hành sự.
Rừng núi Đại-giáp chứa gần hai vạn người, mà không một tiếng động. Trên bầu trời, đội Thần-ưng vẫn bay lượn tuần phòng. Dưới sát chân núi, đội Thần-ngao gục mõm nằm ngủ, nhưng chỉ cần một con chồn, con cáo chạy qua, chúng cũng biết.
Sang giờ Tý, thình lình ba chiếc pháo thăng thiên từ phía Nam bay vọt lên trên không, rồi đèn đuốc sáng rực. Bọn sáu người nhìn rõ quân Việt chia làm hai cánh. Một cánh do Trần Ninh, Hùng Lễ chỉ huy, một cánh do Ngọc-Hương, Âu Huyền chỉ huy; đang đánh vào trại Tống. Hai bên giao chiến cực kỳ khốc liệt.
Khoảng nửa giờ sau, phòng tuyến quân Tống bị vỡ, quân Việt tràn vào trong. Cuộc chiến lại càng ác liệt hơn nữa.
Khoảng nửa giờ sau nữa, giữa lúc hai quân đâm chém kịch liệt, thì từ phía Đông, một chiếc pháo thăng thiên nổ trên không, tỏa ra hình con chim ưng xòe cánh, chân cặp hai thanh kiếm. Đó là lệnh lui quân của Trung-Thành vương. Lập tức Trần Ninh đánh ba tiếng chiêng lệnh, quân Việt đang reo hò, bỗng im bặt. Ngọc-Hương đánh ba tiếng chiêng lệnh tiếp theo, thoáng một cái, quân Việt đổi tiền đội ra hậu đội rồi vừa đánh trống vừa rút lui.
Không gian biến thành mầu tối, chỉ còn tiếng thương binh Tống rên khóc mà thôi.
Trương Thủ-Tiết cùng các tham tướng đứng trên một cái đài cao để quan sát chỉ huy. Y thấy quân Việt không làm bao, nhưng can đảm, kỷ-luật, dũng-mãnh, phối hợp nhịp nhàng giữa Thần-nỏ, thú binh, Thạch-xa, bộ binh; nên dù quân Tống đông gấp năm, mà không thắng được. Y ném kiếm lệnh xuống đất than:
- Hỡi ơi! Trước kia ta thấy quân Liêu dũng mãnh, kỷ luật, đã cho là bầy sói trong khi quân Tống chỉ là đám gà chọi. Sau này, ta lại thấy quy cách tổ chức, kỷ luật, thiện chiến của các đạo quân thuộc quyền Kinh-Nam vương, vội cho rằng sức mạnh như beo, như hổ. Nhưng nay thấy quân Việt, ta mới cảm thấy chua xót rằng: Chúng biến hóa không ngừng, khi thì như bầy diều hâu, khi thì như bầy sư tử, khi thì như Thiên-binh, không còn biết đâu mà chống trả nữa. Không chừng ta bỏ mạng tại đây mất!!!
Sau một ngày một đêm không ngủ, bây giờ vừa chợp mắt, lại phải thức dậy, trực diện giao chiến với quân Việt; quân Tống đã mệt mỏi lắm rồi. Nên khi thấy quân Việt rút lui, thì từ tướng tới quân đều quẳng vũ khí lăn ra ngủ.
Nhưng sang giờ Sửu, Trần Ninh, Ngọc-Hương, Hùng Lễ, Âu Huyền lại đem quân đánh nữa. Khác với lần trước, quân Việt tới sát trại Tống mới đốt đuốc reo hò, bắn tên rồi xung phong. Lần này, Trần Ninh, Ngọc-Hương cho quân vừa đánh trống, vừa đốt đuốc, vừa reo hò từ xa xa tiến lại. Quân Tống mệt đến cất chân tay không nổi, nhưng vẫn phải choàng dậy cố thủ trong trại.
Hai tiếng chiêng, một tiếng trống lệnh vang lên. Quân Việt im bặt, rồi nhanh chóng dàn trận: Thần-nỏ đặt trên xe lớn do voi kéo ngừng lại trước trại Tống một lằn tên (50 m ngày nay). Đội Thần-hổ, Thần-báo dàn ra bảo vệ xung quanh. Mỗi xe chở nỏ, lại có năm mươi Thần-tiễn Long-biên trấn phía sau.
Hai quân im lặng nhìn nhau, trong ánh đuốc chập chờn của đêm Xuân giá buốt. Trần Ninh, Hùng Lễ tay cầm cờ mầu đỏ đứng trên một bành voi đối diện cửa chính trại. Xa hơn chút nữa Trần Ngọc-Hương, Âu Huyền tay cầm tù và, đứng trên một bành voi khác.
Thình lình Trần Ninh cầm cờ phất một cái.
Ba nỏ binh cầm đuốc châm vào ba mũi Lôi-tiễn, rồi ba xạ thủ giật dây, ba mũi đại tiễn bay vọt lên cao, lửa chiếu ra như ba con rồng đỏ xé không gian. Khi bay tới bầu trời trại Tống, ba Lôi-tiễn nổ tung, tỏa lửa mầu xanh, đỏ, vàng, như ba quả cầu khổng lồ, rồi những đám lửa đó rơi xuống trại Tống như đám mưa. Tiếp theo thạch-xa bắn đá vào. Quân Tống kinh hoàng rú lên, chạy vào các căn trại núp, thì cũng vừa lúc đó, các trại bốc cháy ngùn ngụt.
Bấy giờ quân Việt mới đánh trống reo hò « Giết, giết, giết »... « Đốt, đốt, đốt ». Trong khi đại nỏ, thạch-xa cứ tiếp tục nã đại tiễn vào trại Tống, khi thì đại tiễn thường, khi thì đại tiễn tẩm dầu đốt lửa, khi thì đại tiễn chứa dầu, mã não, hoàng thạch. Phút chốc trại Tống biến thành một biển lửa.
Trong khi ấy, Thiên-tử binh chỉ reo hò mà không xung phong đánh trại. Cứ như vậy khoảng nửa giờ, ba tiếng chiêng lệnh đánh lên, các đại nỏ ngừng tác xạ. Quân Việt lại ngừng reo hò, đổi tiền đội ra hậu đội, rồi rút vào trong bóng đêm, không một tiếng động.
Bọn Phạm Dật quan sát đội quân của Trần Ninh, Ngọc-Hương hành sự từ đầu đến cuối. Sáu người cùng khoái trá, cười ha hả:
- Vợ chồng Ninh Mai Hắc-đế chơi vụ này đẹp thực. Từ trước đến nay, Ninh trị quân hiệu Đằng-hải cực kỳ nghiêm, ta cứ cho là khắt khe. Nay mới thấy cái lợi của kỷ luật.
Rồi kéo nhau tìm chỗ ngủ.
Quan sát trận chiến, Trương Thủ-Tiết biết ngay quân Việt không muốn đánh thực sự, mà chỉ làm mệt mỏi tinh thần quân mình. Y gọi các tướng lại ban lệnh:
- Bọn Việt chỉ có khoảng vạn người, do hai thằng nhãi ranh với hai con lỏi chỉ huy. Vậy tất cả chuẩn bị sẵn, đợi chúng đến quấy rối nữa, thì cùng xông ra diệt chúng, rồi cướp lấy lương cho quân mình ăn.
Các tướng đồng ý với Thủ-Tiết, vì không còn cách nào hơn nữa.
Nhưng lần này Trần Ninh, Ngọc-Hương bỏ đi luôn. Thủ-Tiết cho quân chờ tới sáng, cũng không thấy quân Việt trở lại. Bấy giờ y mới biết mình mắc mưu. Thế là sau hai ngày, hai đêm quân Tống luôn bị động, không được ngủ. Bây giờ mệt đến bước không nổi. Dù tướng, dù quân, đều lăn ra ngủ.
Từ ba ngày qua, bây giờ quân Tống mới được ngủ một giấc no nê cho đến xế Ngọ. Khi vừa tỉnh giấc, các tướng đến gặp Trương Thủ-Tiết với vẻ mặt lo lắng. Hứa Dự than:
- Vì nghĩ rằng nơi đây gần chiến trường, nên ta chỉ cho quân mang theo trên mình một ngày lương; sau mỗi ngày lại phát tiếp. Không ngờ nay đoàn chở lương bị đánh, còn chúng ta thì tiến không nổi, lùi không xong. Hôm qua đô-giám đã lệnh cho quân giết ngựa ăn tạm, rồi phá vòng vây. Nhưng vòng vây không phá nổi. Bây giờ sang ngày thứ nhì phải ăn thịt ngựa, trong khi tướng, quân đều mệt rã rượi, đến cất chân, cất tay cũng không nổi, lỡ ra giặc tới đánh thì chống sao được?
Vừa lúc đó, trống thúc vang dội, quân reo dậy đất. Quân canh vào báo:
- Có hai đạo quân từ phương Đông đang kéo đến.
Thủ-Tiết với các tướng vội ra phía Đông trại quan sát: Từ xa xa, hai đạo quân hùng tráng, uy nghi, cờ xí rực trời, gươm đao sáng choang đang tiến tới. Đi đầu là một tướng trẻ, với kỳ hiệu thêu hàng chữ lớn « Trung-Thành vương »; cạnh có hai nam khôi ngô hùng vĩ, hai nữ yểu điệu sắc nước hương trời trông như bốn cây ngọc trước gió. Bên trái, một cặp nam nữ tướng đi dưới lá cờ vàng thêu con rồng trắng có hàng chữ « Đại-Việt, Thiên-tử binh Quảng-thánh », một lá khác có chữ « Đô-thống Vũ ». Bên phải lại một cặp nam nữ nữa đi dưới lá cờ vàng thêu con rồng đen có hàng chữ « Đại-Việt Thiên-tử binh Quảng-vũ » một lá khác có chữ « Đô-thống Đinh ».
Thủ-Tiết hỏi viên tham-tướng coi về tế tác:
- Hôm qua đánh lên núi, ta đã gặp sáu tướng Việt đều là con nít, ba trai, ba gái. Ban nãy ta lại bị hai đôi trai gái xua quân đốt trại, quấy rối suốt đêm. Bây giờ còn bốn trai, bốn gái nữa. Chúng là ai vậy?
- Thưa, Đại-Việt có mười hai hiệu Thiên-tử binh. Mỗi hiệu do một tướng với vợ y chỉ huy. Tuy tuổi chúng trẻ, nhưng mưu kế, cùng tài dụng binh thực vô địch. Năm tên được vua Giao-chỉ ban cho mỹ hiệu là Long-biên ngũ hùng, bẩy tên được ban mỹ-hiệu là Tây-hồ thất kiệt. Ngoài ra, trong khi đánh Chiêm, Mộc-tồn hòa thượng ra tay cứu mạng cho mười kỳ-chủ Hồng-thiết giáo Chiêm, rồi thu làm đệ tử, bọn này được Thái-hậu Giao-chỉ ban cho mỹ-hiệu Thần-vũ thập anh. Trận này Long-biên ngũ hùng, Thần-vũ thập anh đều có mặt. Đám Thần-vũ thập anh không có tài dùng binh, nhưng võ công cao thâm, lại yêu nước vô bờ bến. Cứ như hiệu kỳ, thì tên đi giữa là hoàng tử Lý Hoằng-Chân, con của Khai-Quốc vương, cháu gọi Kinh-Nam vương bằng cậu. Võ công, trí lự của y không thua cậu làm bao.
Ôn Nguyên-Dụ than:
- Hôm trước tên thứ ha, thứ ba trong Long-biên ngũ hùng là Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi với vợ chúng xuất hiện rồi. Hôm qua, tôi đụng trận với hai tên Phạm Dật, Lý Đoan cùng hai con vợ nó, suýt nữa thì bỏ mạng. Còn cái tên với vợ nó bắn đại nỏ ban nãy là ai?
- Thưa y đứng hàng thứ tư trong Long-biên ngũ hùng tên Lý Đoan.
Thủ-Tiết lắc đầu:
- Năm tên này không thể gọi là Long-biên ngũ-hùng, mà phải gọi là « Giao-chỉ ngũ kiêu » mới đúng. Chúng lợi hại không ai tưởng tượng nổi.
Ghi chú,
Kiêu là con cú. Tiếng kiêu trong ngôn từ Trung-hoa để chỉ những người tài trí, hùng tâm, đại lược, nhưng không đi theo chính nghĩa. Mộ chí của Trương Thủ-Tiết thì nói rằng Trương gọi Long-biên ngũ hùng là Giao-chỉ ngũ kiêu. Trong khi QTNC chép rằng chính Triệu Tiết đã đặt tên ấy. Ngược lại TTCTGCK lại chép rằng Tu Kỷ đã đặt tên này. Tôi tra trong TTCTBK, phần văn bia Tu Kỷ lại không thấy ghi. Cho nên tôi tin vào bia Trương Thủ-Tiết hơn, vì Trương đối trận với cả ngũ hùng, rồi tử trận, nên Trương gọi ngũ-hùng là Ngũ-kiêu thì đúng lý hơn.
Các tướng Tống nghe nói đều kinh hãi.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 159
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com