Đám tang Thái-phi Bùi Chiêu-Dương qua đi thực giản dị. Còn Thủ-Độ thì Đàm hoàng hậu trao cho một cung nga già tên Thụy-Nga trông coi với chỉ dụ : Tuyệt đối không được tiết lộ thân thế của nó với bất cứ ai. Ngay cả Ngự-y Trần-thị Phương-Thanh cũng không được vào thăm bệnh nó. Ai hỏi, nói dối rằng nó là cháu xa đời của ta, mồ côi cả cha lẫn mẹ, ta đem về nuôi. Thủ-Độ được ở ngay trong cung của thân mẫu hồi chưa lấy chồng. Hơn tháng sau, chợt nhà vua nhớ đến nó. Ông cậu cho triệu hồi nó đến để hỏi han tình hình sức khỏe. Nó biết rằng nếu mình tỏ ra tỉnh táo, thì khó mà toàn mạng. Vì vậy gặp nhà vua, nó mở mắt thao láo nhìn, không nói không rằng, rồi thình lình méo miệng cười một mình. Nhà vua ôm nó vào lòng : - Cháu ! Cháu có nhớ bố cháu tên gì không ? Thủ-Độ nhe răng, mở to mắt, rồi cười sằng sặc : - Bố à ! Bố là gì ? - Tên cháu là gì nào ? Nó lắc đầu tỏ vẻ không biết. Nhà vua tin rằng đó là thằng điên. Nhà vua hỏi cung nga già Thụy-Nga về cuộc sống hàng ngày của nó. Người cung nga tâu rằng tuy nó ít nói, nhưng lại rất chăm đọc sách. Nhà vua truyền cho nó vào trường Quốc-tử giám học. Ba hôm sau, Thủ-Độ được đưa vào trường Quốc-tử giám. Trường này thành lập từ thời vua Thánh-tông. Trường dành cho các hoàng tử, các thế tử, con các đại thần. Nếu còn chỗ thì nạp thêm những sĩ tử giỏi của các trấn, các huyện. Ngày đầu tiên Thủ-Độ phải qua một kỳ sát hạch để biết trình độ học vấn. Vị Kinh-diên quan tuổi còn trẻ, tên Phạm Kính-Ân. Ông trao cho Thủ-Độ bộ Văn-lang giản-sử bảo nó đọc. Quyển này nó đã được Đoan-Nghi giảng rất kỹ trong ba tháng lênh đênh trên mặt biển. Nó chắp tay : - Thưa thầy bộ này con đọc rồi. Kính-Ân kinh ngạc, ông hỏi : - Con đã học, vậy học với ai ? - Con tự đọc. - Vậy con có hiểu không ? - Con hiểu rất kỹ. Kính-Ân không tin : - Nếu con đọc rồi, vậy thầy hỏi con một câu: Văn minh thời Văn-lang có ba đặc tính vượt Trung-quốc. Đó là những đặc tính gì ? - Thưa thầy, thứ nhất, về Lịch-số ta bỏ xa Trung-quốc. Nên vua Hùng đã sai chép phép làm lịch vào lưng một con rùa, rồi sai sứ sang tặng Trung-quốc. Vua Trung-quốc sai quan Thái-sử lệnh chép lại. Vì vậy lịch đó gọi là Quy-lịch. - Giỏi ! Thế đặc tính thứ nhì là gì ? - Thưa là thuật luyện kim. Bằng cớ vào thời này Trung-quốc chưa biết đúc đồng. Thế mà ta đã đúc trống đồng. Trên trống đồng khắc hoa văn rất tinh xảo ! - Đúng ! Thế còn đặc tính thứ ba ? - Đặc tính thứ ba, là Trung-quốc chỉ có chữ tượng hình, học rất khó, lại rất lâu. Trong khi ta có văn tự Khoa-đẩu tượng thanh. Học rất dễ, rất mau. Kính-Ân kinh ngạc về trí thông minh, về tài ứng đối nhanh chóng của Thủ-Độ. Ông ta nghĩ thầm : - Đứa trẻ này là con của ai ? Theo như trong sổ ghi, thì nó là đứa con mồ côi thuộc họ xa của Đàm hoàng-hậu. Nó bị bệnh ngẫn ngờ. Ngẫn ngờ mà sao lại thông minh thế này ? Ta phải tìm hiểu mới được. Kính-Ân lấy quyển binh pháp Kinh-Nam vương ra trao cho nó. Bộ này Thủ-Độ đã thấy bố nó mang ra giảng cho cacù tướng Mông-cổ nhiều lần. Nó ngồi cạnh, cũng hiểu được mấy phần. Nó mở ra trúng chương chín. Đó là chương nói về việc luyện kị binh. Nó cất cao giọng đọc. Nó vừa đọc xong, thì Kính-Ân hỏi nó : - Trong phép dùng kỵ binh, thì những điều kị nhất là gì ? - Có ba điều phải tránh. Thứ nhất tránh đồng lầy. Thứ nhì tránh rừng núi. Thứ ba tránh nơi có nước dơ bẩn. Như thế đủ rồi, Kính-Ân thấy Thủ-Độ quá thông minh, lại có căn bản vững vàng. Ông đề nghị với quan Quốc-tử giám tế tửu cho nó học cùng nhóm với Thái-tử Long-Sảm. Ngay buổi học đầu, vừa trông thấy Thủ-Độ, lập tức Long-Sảm nhảy dựng lên : - Thưa thầy, trong chín người cùng học với con, năm đứa chúng con là Gia-thụy ngũ anh, ngoài ra còn bốn người đều là những học trò giỏi nhất của các trấn. Tại sao thầy cho thằng khùng này cùng học ? Kính-Ân hỏi : - Gia-thụy ngũ anh là những ai vậy ? - Thưa thầy đứng đầu là con, thứ nhì là em Long-Thẩm của con. Thứ ba là Đoàn Thượng, con của Tổng-lĩnh thị-vệ Đoàn Văn. Thứ tư là Nguyễn Dư, con của quan Kinh-lược sứ Kinh-Bắc Nguyễn Nộn. Thứ năm là con của Vũ-kỵ thượng tướng quân Phạm Bỉnh-Di tên Phạm Bỉnh-Du. - Có phải Đoàn Thượng, Nguyễn Dư, Phạm Bỉnh-Du là Thiện-nhân không ? - Dạ. Kính-Ân biện luận : - Xin điện hạ cứ coi Đàm Độ như một hình bù nhìn. Y có theo kịp hay không cũng không cần biết. Thấy qua việc trắc nghiệm, mình đã để lộ chân tướng ra nhiều quá, Thủ-Độ tự nhủ : - Đã vậy thầy giảng, ta cứ im lặng nghe, để không ai chú ý đến ta. Thể lệ của trường Quốc-tử giám, là sau mỗi tháng, các Kinh-diên quan họp nhau lại để cùng nhận xét về các học sinh. Khi bàn về nhóm học cùng với Thái-tử, thì họ tranh cãi đến hết một buổi mà không hiểu nổi Thủ-Độ. Vì khi thầy giảng, hầu hết học trò hiểu thì gật đầu. Không hiểu thì chau mày. Còn Thủ-Độ thì trầm tư không tỏ ra hiểu hay không. Ngược lại, khi làm bài thì bài của Thủ-Độ bao giờ cũng được chấm ưu. Chữ viết rất đẹp. Trong sáu Kinh-diên quan, thì ba người cho rằng Thủ-Độ điên khùng. Còn ba người thì lại cãi rằng nó là đứa trẻ thông minh. Phạm Kính-Ân là người đứng về phía cho rằng Thủ-Độ thông minh. Một hôm, ông gọi riêng Thủ-Độ vào thư phòng, đóng cửa lại, rồi ông hỏi nó : - Con có tin rằng thầy yêu thương con không ? - Thưa thầy con tin. - Vậy thầy hỏi câu nào con phải nói thực câu đó. - Vâng ! - Hoàng hậu bảo rằng con là cháu của người. Con là đứa trẻ mất trí, khật khùng. Thầy không tin. Vậy nguồn gốc con ra sao ? Thủ-Độ nghĩ : - Ông là thầy ta, không thụ một chút ân huệ nào của cha mẹ ta, mà ông yêu thương ta còn hơn các ông cậu bà mợ của ta. Ta chẳng nên nói dối ông. Nghĩ vậy, nó nói : - Thưa thầy, con họ Trần tên Thủ-Độ. Cha con trước đây là Phụ-quốc Thái-úy phụ chính đại thần Trần Thủ-Huy. Mẹ con là Trưởng công chúa Đoan-Nghi. Kính-Ân kinh ngạc : - Ái chà ! Thế hiện thời phò mã với công chúa ở đâu ? Thủ-Độ tường thuật chi tiết vụ bố mẹ nó bị đem cống cho Tống, rồi bỏ lên Mông-cổ, giúp Mông-cổ lập quốc ra sao. Cuối cùng mẹ nó vì nghe lời nhà vua, về giúp nước mà bị giết. Nó phải giả khùng để tránh bị họa sát thân. Hai giọt nước mắt chảy trên gò má, Phạm Kính-Ân than : - Thì ra thế. Thủ-Độ hỏi : - Thưa thầy, cứ như minh kiến của thầy thì ai đã sát hại mẹ con ? Kính-Ân giảng giải : - Khu-mật viện cũng như Phủ-thừa Thăng-long tâu rằng bọn trộm cướp đã ra tay. Ta phải gạt cái lý luận ngớ ngẩn này ra ngoài. Việc công chúa bị ám hại, không thể do bọn cướp. Bọn cướp lớn đến mấy cũng không có khả năng mạnh đến như vậy. Để có thể làm việc này, phải là một thế lực uy quyền bao la. Tại sao ? Một là trộm cướp không thể biết rõ việc công chúa về nước. Hai là không biết ngày giờ công chúa về tới Thăng-long. Ba là điều động hai đội tiễn thủ phục sẵn gần bờ hồ Tây. Chỉ một thế lực lớn lao mới có khả năng đó. Chúng lại cũng đoán ra rằng công chúa xa quê hương lâu ngày. Khi về Thăng-long vào lúc trời tối ắt không kiềm chế nổi lòng rộn rực, người sẽ lấy xe dạo chơi. Dạo chơi thì phải ăn uống. Chúng cũng biết công chúa kiếm thuật thần thông, chúng không đủ sức ám toán. Cho nên chúng mới bầy ra bọn mãi võ để bắt cóc con, rồi dẫn dụ công chúa vào trận loạn tiễn. Thủ-Độ như người mù được mở mắt ra. Nó hỏi : - Theo thầy, thì kẻ nào đứng chủ trương ? - Thầy đoán như thế này : Kẻ nào đó biết rõ Thái-phi, Hoàng-thượng thỉnh công chúa hồi hương. Khi công chúa hồi hương bình an, ắt phò mã sẽ về. Phò mã với công chúa sẽ được Hoàng-thượng trao đại quyền, lập lại thịnh trị như hồi các vị Tiên-đế. Bấy giờ bọn chúng sẽ mất hết quyền hành, hay gặp nguy hiểm. Chúng bàn với nhau bầy mưu ám toán công chúa. Một là chúng dùng quyền lực đe dọa, hai là chúng mua chuộc sứ đoàn với thủy đoàn. Khi công chúa về đến lãnh hải Đại-Việt, sứ đoàn, thủy thủ đoàn báo cho chân tay bọn sát nhân biết. Bọn này phi ngựa khẩn cấp về Thăng-long trình lên chánh phạm. Chánh phạm mật ra lệnh cho thủy thủ đoàn ghìm sao để thuyền tới Thăng-long vào giờ cổng thành đóng. Rồi chúng cho người giả làm bọn mãi võ, đưa công chúa đến chỗ chúng phục tiễn thủ. - Không lẽ Thái-phi hay Hoàng-thượng làm việc này ? - Thầy nghĩ Thái-phi không thể nào giết con. Hoàng-thượng muốn thỉnh công chúa về, thì người đâu có hại công chúa ? Thái-phi, Hoàng-thượng sai Vũ Khải thỉnh công chúa, phò mã mà triều đình không biết gì. Người ngoài duy nhất được biết là viên sứ thần Vũ Khải. Nhân viên sứ đoàn cũng không biết nốt. Vậy chỉ cần điều tra viên sứ thần Vũ Khải với thủy thủ đoàn thì ra manh mối. Kính-Ân nắm tay Thủ-Độ : - Con giả ngây như vậy cũng phải. Ở đây là chốn miệng hùm, nọc rắn. Con liệu mà trốn về Thiên-trường với ông nội con càng sớm càng tốt. Từ đấy, Kính-Ân không bao giờ nghị tới việc Thủ-Độ điên hay tỉnh nữa. Trên toàn Đại-Việt có năm trường dạy võ của triều đình, do Lĩnh-Nam ngũ hổ tướng trự tiếp điều động. Trường lớn nhất, mở trong Hoàng-cung. Trường này dành riêng cho hoàng tử, thế tử và con các đại thần.. Người phụ trách dậy võ là quan Tổng-lĩnh thị vệ Đoàn Văn. Thủ-Độ được vào học lớp này. Chỉ nhìn cảnh thầy dậy trò tập, Thủ-Độ thấy ngay, họ là những con vua, cháu chúa. Học chỉ để làm cảnh. Cho nên sau khi học buổi đầu, nó đóng kịch, uể oải múa may loạn xạ, rồi lên cơn điên nói lảm nhảm. Thái-tử Long-Sảm nói với anh là Long-Thẩm : - Anh xem ! Thằng mọi này vốn bị bệnh điên, mà đi học văn với bọn mình nên thành điên thêm. Bây giờ lại học võ thì chỉ có chết non. Tuy vậy mỗi buổi chiều Thủ-Độ cũng phải học võ. Nó cứ đóng kịch, múa may không ra bài bản gì. Nhưng tối tối, nó đóng cửa lại, tự luyện nội công. Ôn lại bộ quyền, chưởng mà bố nó dạy nó. Vì không có việc gì khác, cũng như không được chạy nhảy, đùa nghịch ; Thủ-Độ chăm chỉ luyện công không ngừng. Hai năm dài qua đi, Thủ-Độ đã luyện hết yếu quyết nội công Đông-A mà bố nó dạy nó. Trong thời gian này, nó nghe người ta nói nhiều về những việc mà trước đây bố mẹ nó đã làm, ai cũng tỏ vẻ kính phục. Nó lại nghe các ông thầy dạy võ nói nhiều về phái Đông-A của bố nó. Trong óc nó lóe lên một ý nghĩ : - Không ngờ danh tiếng ông bà ta lại lớn như vậïy ! Hay là ta thử về Thiên-trường tìm ông bà nội, tìm bác Lý, tìm cô Ngân của ta, ta sẽ nói với ông bà ta những lời mẹ ta trối trăn lúc lâm chung, rồi xin các người đưa ta trở về Mông-cổ gặp bố ta. Nhưng những tàn nhẫn của Đàm hoàng hậu, của anh em Long-Sảm, Long-Thẩm lại khiến nó suy nghĩ : - Biết đâu bác Lý, cô Ngân cũng như con của họ lại giống Đàm hoàng hậu vơi các con bà ? Hôm ấy là ngày rằm tháng tám, nhà vua cùng Hoàng-hậu, phi tần, thân vương mở tiệc trung thu trong Hoàng-thành để khoản đãi các thân vương, công chúa. Trong buổi tiệc này, nhà vua sẽ cho các thiếu niên trong hoàng tộc đấu võ. Ai thắng giải nhất sẽ được thưởng một thanh kiếm, chuôi nạm vàng. Ai thắng giải nhì, sẽ được thưởng một cái roi da, chuôi bằng bạc. Ai thắng giải ba, sẽ được thưởng một cây cung, với ba mũi tên đầu bịt bạc. Thủ-Độ bị coi như đứa trẻ ngẫn ngờ, không được tham dự. Nhưng nó vẫn phải cùng các bạn đồng học, ngồi xếp hàng trước võ đài xem tranh giải. Ngồi trước võ đài, mà trong tâm Thủ-Độ nghĩ tới những ngày ở Mông-cổ với cha mẹ, phi ngựa với bọn Ngột Lương Hợp Thai, bọn Bạt Đô, bọn A Bát Xích trên đồng cỏ mênh mông. Khi nhà vua cùng chư vương đến, nó mới trở về thực tại. Nhìn lên đài, thấy hai vương Kiến-khang, Kiến-bình ngồi cạnh nhà vua, trong lòng nó chua chát : - Ba ông cậu kia, đều là em của mẹ ta. Hai ông thì do cha mẹ ta dậy dỗ nuôi nấng. Một thì chết đến ba lần, đều do cha mẹ ta mà còn sống đến nay. Thế nhưng, họ bắt ta cải họ, giam giữ ta như thế này đây ! Ta phải cố tranh sống. Sau này ta mà ngóc đầu lên được, thì ta cũng không nghĩ đến tình cậu cháu nữa. Ai đấu với ai, Thủ-Độ cũng không cần để ý. Cho đến khi phát thưởng nó mới biết, người đoạt giải nhất là Đoàn Thượng, con trai của quan Tổng-lĩnh thị vệ Đoàn Văn. Người đoạt giải nhì là Nguyễn Dư, con trai quan An-phủ sứ Đăng-châu Nguyễn Nộn. Người đoạt giải ba là Phạm Bỉnh-Du, con trai của Vũ-kỵ thượng tướng quân Phạm Bỉnh-Di. Sau khi nhà vua trao thưởng cho ba thiếu niên, thì Kiến-khang vương hỏi Thái-tử Long-Sảm : - Thế nào ? Cháu luyện võ đến đâu rồi ? Cháu thử đi một bài quyền cho chú xem nào ? Long-Sảm vâng lệnh, bước ra bái tổ, hành lễ với cử tọa, rồi đi một bài quyền. Thủ-Độ nhận ra đó là một bài quyền của phái Hoa-sơn. Bất giác nó nảy ra ý khinh bỉ, trán hơi nhăn lại, rồi quay đầu nhìn đi chỗ khác. Hành động của nó không qua được mắt Đàm hoàng hậu. Bà vẫy tay gọi nó : - Đàm Độ, người hãy lên đài. Thủ Độ không đừng được, nó phải lên đài, cung tay hành lễ. Hoàng hậu bảo Long-Sảm : - Đàm Độ học võ cùng với con. Vậy con hãy đấu với nó mấy chiêu cho phụ hoàng cùng các hoàng thúc xem nào. Long-Sảm dạ một tiếng rồi đứng đối diện với Thủ-Độ. Đoàn Văn hô : - Xuất chiêu! Long-Sảm tung vào người Thủ-Độ một chiêu Hoa-sơn quyền. Thủ-Độ giả như người không biết võ, nó ôm đầu trầm người xuống tránh. Long-Sảm đánh vào quãng không. Xấu hổ, Long-Sảm lại dùng tay phải đành thẳng vào ngực Thủ-Độ trong khi tay trái chém ngang vào cổ nó. Thủ-Độ trầm người xuống, rồi bước ra sau Long-Sảm. Long-Sảm đánh hụt, người lảo đảo suýt ngã. Tức giận y quay người về sau, trong khi chân đá vòng vào bụng Thủ-Độ. Thủ-Độ không tránh kịp, nó đành vận công chịu đòn. Bộp một cái, Long-Sảm có cảm tưởng như mình đá phải cái cột gỗ, chân y đau đớn, mặt nhăn nhó cực kỳ khó chịu. Thấp thoáng một cái, Kiến-bình vương đã nhảy ra giữa đài, ông túm áo Long-Sảm, Thủ-Độ ném hai trẻ ra xa rồi nói : - Đàm Độ ! Phàm khi đấu võ thì không kể đến chúa tôi, thầy trò. Cháu phải trả đòn đi chứ ! Nói dứt ông hô : - Phát chiêu. Long-Sảm lại dùng Hoa-sơn quyền tấn công Thủ-Độ. Vốn đã chủ tâm, Thủ-Độ cứ giả như người không biết võ, nó xuyên bên Đông, lách bên Tây, khiến Long-Xưởng không sao đánh trúng được nó. Nhưng sau mười tám chiêu, thì nó lùi đến mép đài. Long-Sảm dùng cả hai tay thúc vào ngực nó, mong đẩy nó xuống đài. Không đừng được, Thủ-Độ phải chụp hai vai Long-Sảm, rồi lộn một vòng trên không, nó tung mình đáp xuống giữa đài. Vô tình nó đã xử dụng chiêu Kình-ngư thuận phong một chiêu trong Đông-A chưởng pháp. Khán giả vỗ tay hoan hô. Long-Sảm quá xấu hổ, nó rút trong bọc ra một thanh trủy thủ vung tay đâm vào ngực Thủ-Độ. Kinh hoảng, Thủ-Độ xuống đinh tấn, tay trái gạt tay phải Long-Sảm, rồi tung mình lên cao, quay một vòng, chân phải đá vào vai phải Long-Sảm. Đó là một chiêu trong Đông-A quyền pháp. Binh một tiếng, Long-Sảm bay tung xuống đài, nằm thẳng cẳng, không bò dậy được nữa. Có nhiều tiếng la thét : - Võ công Đông-A chính tông. Biến cố đột ngột xẩy ra, ngoài sự tưởng tượng của mọi người, Phạm Bỉnh-Di nhảy ra túm tóc Thủ-Độ, tát nó hai cái, rồi quát : - Mi học đâu những võ công sát nhân này ? Kiến-bình vương nhảy ra can thiệp : - Bỏ đứa trẻ này xuống. Vương đưa con mắt nghiêm khắc nhìn Bỉnh-Di: - Võ công mà đứa trẻ này dùng là võ công thuộc danh môn chính phái. Người liệu mà giữ mồm, bằng không thì cả nhà người sẽ bị tru diệt, cả đến con gà, con chó cũng không thoát chết đâu. Phạm Bỉnh-Di tái mặt, y lùi lại góc đài, chân tay y phát run. Kiến-bình vương xoa má cho Thủ-Độ rồi hỏi : - Cháu là con của vị quan nào trong triều ? Đàm hoàng hậu trả lời thay Thủ-Độ : - Nó là đứa trẻ mồ côi, bị bệnh điên trong họ tôi. Tôi mang về nuôi trong Hoàng-thành. Lời nói của Hoàng-hậu, cũng như những chiêu thức hỗn loạn của Thủ-Độ không qua mắt được Kiến-bình vương. Bởi quan sát cuộc đấu, ngay từ đầu, ông thấy rõ Thủ-Độ giả không biết võ, ra chiêu lộn xộn, nhưng những chiêu đó đều bao hàm những sát thủ kinh nhân của võ công Đông-A. Ông biết ngay Thủ-Độ đã đươc huấn luyện căn bản cực kỳ tinh vi. Như vậy nó phải học võ với những người ngang hay cao hơn ông một vai. Ông hỏi Thủ-Độ : - Cháu là đệ tử của cao nhân nào trong phái Đông-A ? Thủ-Độ không dám nói thực, nó trả lời : - Cháu học võ trong Hoàng-thành. Vừa rồi cháu gặp nguy hiểm, thuận tay múa loạn lên, chứ có ai dạy cháu đâu ? Kiến-bình vương hỏi Phạm Bỉnh-Di: - Phải chăng tướng quân chỉ dạy võ công Hoa-sơn cho đám trẻ này ? - Khải vương gia vâng. Kiến-bình vương càng áy náy. Ông nói với Hoàng-hậu: - Thưa nương nương, việc này không giản dị đâu. Ngày mai, thần xin phép nương nương cho đón đứa trẻ này đến tệ phủ, để tìm hiểu rõ sự thực. Hoàng-hậu đáp bằng giọng run run: - Hoàng thúc cứ tự tiện. Long-Sảm chỉ bị ngã đau, chứ không bị thương. Nó đã lên đài, định xông vào đánh Thủ-Độ nữa. Kiến-bình vương tuyên bố : - Trận vừa rồi Long-Sảm thua, Đàm Độ thắng. Trận đấu chấm dứt. Thế là cuộc đấu võ xong. Nhà vua tuyên bố ban tiệc cho các thiếu niên. Vì Thủ-Độ không phải là tôn thất, cũng không phải là con quan, nên nó không được dự tiệc Trung-thu. Nó chỉ được gói quà, gồm một quả hồng, một quả na, một gói ngô rang và một cái bánh dẻo. Nó ngồi ăn bên cạnh những đứa trẻ mà cha mẹ làm những nghề hèn hạ trong Hoàng-thành như cắt cỏ, gánh phân, chăn ngựa. Ăn xong, nó thui thủi trở về chỗ ngủ. Vừa về đến nơi, thì trước mặt nó, bọn Gia-thụy ngũ anh đã dàn hàng ngang đứng chờ. Không nói không rằng, cả năm xông vào tấn công nó. Thủ-Độ kinh hoàng, không kịp phản công, thì bị đánh ngã. Sau khi nó ngã, Nguyễn Dư, Đoàn Thượng khóa tay nó, còn Long-Sảm thì chân đấm, tay đá vào khắp người nó. Nó nghiến răng chịu đau, không kêu, không khóc cho đến khi ngất đi mới thôi. Long-Sảm bảo đồng bọn : - Chúng ta đái vào đầu nó cho bỏ ghét. Cả bọn xúm vào đái khắp người Thủ-Độ, rồi cười khoái trá, kéo nhau đi. Thủ-Độ tuy đau đớn, nhưng vốn có nội công thâm hậu, chỉ lát sau, nó đã đứng dậy đi được. Nó vào nhà tắm rửa, thay quần áo rồi nghĩ thầm : - Tình thế này, ta không thể ở đây được nữa. Nhân đêm Trung-thu, các cổng thành đều mở cả đêm, ta phải trốn đi, rồi tìm đường về Thiên-trường mới hy vọng sống sót. Nghĩ vậy, nó lấy quần áo cho vào cái túi da, mà nó mang từ Mông-cổ về, cùng với mấy di vật của mẹ, rồi lết ra khỏi Hoàng-thành. Nó thẫn thờ đi gữa kinh thành rực ánh trăng. Bấy giờ Đại-Việt đang lúc thời bình, biên cương không ngoại xâm, trong nước không loạn. Dân chúng Thăng-long lũ lượt kéo nhau ra đường chơi trăng Trung-thu. Chỗ này một đoàn xiếc biểu diễn. Chỗ kia một đoàn hát chèo. Chỗ khác, trai, gái chia toán hát Trống-quân. Trai thanh, gái lịch cười đùa, tưởng như thiên cung. Trong cái không gian vui vẻ ấy, đứa trẻ mồ côi Thủ-Độ lầm lũi lê bước, khắp thân thể đau đớn cùng cực. Bất giác nó ngửa mặt nhìn trời : - Trăng đẹp thế kia, người vui thế nọ, còn ta ? Trời đất mênh mông, ta đi về đâu ? Hỡi ơi ! Thình lình mây đen kéo đến che khuất mặt trăng, rồi sấm, chớp rung động trời đất. Cơn mưa đổ ụp xuống. Người người bỏ chạy. Thủ-Độ ẩn thân vào dưới một mái hiên. Được một lát, gió thổi ào ào, mưa tạt khắp người nó. Nó cố nép mình vào tường, nhưng cũng bị ướt. Tuy ướt, nhưng vốn sinh trưởng ở vùng băng tuyết, nó không cảm thấy lạnh. Gió lại thổi, mưa lại tạt vào người, cảm thán nó làm bài thơ cổ phong: Trung-thu vọng nguyệt ! Vũ như cương la ! Ta hồ, thống khổ ! Thùy khả tri tâm ! Không gian vô tận hà vi tiểu ? Bất nghi nhất thốn khả dung thân ! Rồi nó tự dịch sang tiếng Việt : Trung-thu ngắm trăng, Mưa như lưới giăng : Than ôi, đau đớn ! Ai hiểu ta chăng ? Vô tận không gian sao hẹp quá ? Không đầy một chỗ để dung thân. Ghi chú của thuật giả: Về nguồn gốc bài thơ này, trong gia phả các chi họ Trần chép không giống nhau. Chi hai, thuộc giòng Hưng-Nhượng vương chép : « Thủa thiếu thời mồ côi mẹ, Thái-sư Thượng-phụ, Hóa-thiên, Trung-vũ, Long-công, Liệt đức, Từ-huệ, Đại-vương, bị Huệ-Quang đại sư làm nhục, đánh đậïp thương tích đầy người đến chết đi sống lại, phải ăn mày ở Thăng-long, làm thơ này ». Trung-vũ Đại-vương là chức tước của Trần Thủ-Độ. Huệ-Quang đại sư là pháp danh của vua Lý Huệ-tông. Còn gia phả của con cháu Chiêu-quốc vương Trần Ích-Tắc lại chép là ông làm trong lúc hàng Mông-cổ. Vua Mông-cổ phong cho ông làm An-nam quốc vương, sai quân đưa về nước, bị quân Trần đánh tan, phải bỏ chạy dưới trời mưa tầm tã. Xét văn phong cùng thi tứ của Chiêu-quốc vương, vốn điêu luyện bậc nhất đương thời, dù trong lúc chạy...chí chết, ông cũng không thể làm một bài thơ quá mộc mạc như trên. Thơ khô khan, mộc mạc như bài này, chỉ có thể là của Trung-vũ Đại-vương Trần Thủ-Độ. Vả lại, trong hai gia phả thì gia phả của giòng Hưng-Nhượng vương đáng tin hơn, vì người khởi chép là con trai của vương, một thi sĩ đương thời. Còn gia phả của Chiêu-quốc vương, khởi chép từ con của vương là Trần Hữu-Lượng, lưu vong ở Trường-sa bên Trung-quốc. Trời tạnh, Thủ-Độ lại lê bước lầm lũi đi trong đêm. Đau quá, kiệt lực nó ngã sóng soài trên vũng nước. Giữa lúc đó một chiếc xe ngựa bon bon chạy tới. Có tiếng thiếu nữ kêu thét lên: - Ai chết giữa đường. Dừng xe lại ! Người đánh xe ghì cương khẩn cấp. Con ngựa hý lên một tiếng dài, cất cao hai vó. Trên xe có một thiếu phụ nhan sắc diễm lệ ngồi cạnh một thiếu nữ. Người phu xe tung mình xuống đất. Y sờ tay lên đầu Thủ-Độ, rồi tỏ vẻ mừng rỡ: - Là một đứa con trai, thương tích đầy người. Nó chưa chết. Thiếu nữ cuống lên: - Mẹ! Mẹ! Mình có cứu nó không? - Cứu chứ. Mau đem nó lên xe. Gã phu xe bồng Thủ-Độ để nằm ở ghế sau, rồi ra roi cho ngựa chạy. Tới bờ sông Hồng, thiếu phụ ra lệnh: - Đem nó vào khoang chính cho ta. Nói rồi bà với cô gái leo lên tấm ván làm cầu, xuống con thuyền cực lớn. Thủ-Độ được đặt nằm dài trên cái ổ rơm. Thiếu phụ cởi áo Thủ-Độ ra xem, rồi nói: - Cứ như y phục, thì đứa trẻ này không phải là ăn mày. Nó bị năm đứa trẻ khác dùng võ công Hoa-sơn đả thương, rồi lại đái trên người. Song nó chỉ bị ngoại thương thôi. Bóp rượu thuốc vài lần thì khỏi. Thủ-Độ đã tỉnh, nó rên lên mấy tiếng. Thiếu phụ bảo gã phu xe: - Người đem nó đi tắm, ta sẽ dùng rượu thuốc trị các vết thương cho nó. Trong khi thuyền phu đưa Thủ-Độ ra phía sau thuyền múc nước sông tắm cho nó, thì thiếu nữ giặt quần áo rồi hơ khô. Thiếu-phụ, thiếu nữ cùng dùng rượu thuốc thoa bóp cho Thủ-Độ. Khoảng một khắc sau, nó cảm thấy bớt đau. Thiếu phụ hỏi: - Cháu tên là gì? Bố mẹ cháu là ai? Thấy thái độ từ ái của thiếu phụ, Thủ-Độ không muốn nói dối. Nó nói thực: - Mẹ cháu chết rồi. Còn bố cháu thì ở xa...xa lắm. Cháu ở với cậu mợ cháu. - Ai đã hành hung cháu thế này? - Cháu bị hai đứa em con cậu cùng ba đứa bạn nó xúm vào đánh cháu. - Thương thế của cháu rất trầm trọng. Ta muốn đưa cháu về nhà ta, rồi mời thầy lang trị bệnh cho cháu. Ngặt vì luật nước rất nghiêm, chỉ người trong gia tộc mới có quyền nuôi trẻ. Vì vậy, ta mà đưa cháu về nhà ta, thì cậu mợ cháu sẽ kiện ta về tội dụ dỗ trẻ con. Vậy nhà cháu ở đâu, để sáng mai ta đưa cháu về ? Thủ-Độ nói dối: - Nhà cháu ở phố hàng Trống. Bấy giờ Thủ-Độ mới chú ý đến thiếu nữ. Nàng ngang tuổi với nó. Nó đã từng thấy biết bao nhiêu người đẹp mà Thành-cát Tư-hãn bắt từ các nước đem về, thưởng cho các tướng. Nó cũng biết mẹ nó là công chúa đẹp nhất Đại-Việt. Thời gian ở trong Hoàng-thành, nó từng thấy Hoàng-hậu, Phi-tần, người nào cũng đẹp... nhưng thiếu nữ này có sắc đẹp diễm ảo, như có, như không. Đôi mắt nàng đen, to, thực nhu mì. Nhưng khi nàng nhìn thẳng vào nó thì chiếu ra tia hàn quang cực mạnh. Mỗi cử chỉ, mỗi hoạt động của nàng như muôn nghìn đóa hoa đang nở. Thiếu nữ hỏi nó : - Này ! Người tên gì vậy ? - Tôi...tôi tên Độ ! Độ là bến đò. - Thế còn họ ? - Tôi họ Đàm. - Họ Đàm hả. Vậy người có bà con gì với Thái-sư Đàm Dĩ-Mông, Thái-úy Đàm Thì-Phụng không ? - Không. - Người đói rồi đây. Để ta lấy cái gì cho người ăn nhe. Thiếu nữ vào khoang thuyền sau, lát sau nàng mang ra một bát cơm nóng, với cá bống mít kho. Thủ-Độ ngồi dậy, nhưng nó vừa cử động, chạm đến vết thương, đau thấu tâm can. Nó lại rên lên một tiếng, rồi nằm xuống. Thiếu nữ an ủi : - Người nằm đó đi. Ta...Ta đút cho người ăn. Thiếu nữ lau tay rồi bốc cơm, nắm thành viên nhỏ, đút cho Thủ-Độ. Tuy đau đớn khắp người nhưng được thiếu nữ tuyệt sắc đút cơm. Thủ-Độ ăn ngon lành. Nó ăn hết hai bát cơm. Thiếu nữ lại lấy nước vối cho nó uống. Thiếu nữ nói với thiếu phụ : - Mẹ ơi ! Y đau đớn quá thế này, thì sao ngủ được ? - Con cho y uống hai viên Định-tâm hoàn. Thiếu nữ lấy thuốc bỏ vào miệng Thủ-Độ, rồi cầm bát nước kê lên môi nó. Nó hớp một hớp, hai viên thuốc trôi xuống bao tử. Thiếu nữ nói với mẹ : - Phải chi mẹ đem y về nhà mình nuôi. Con sẽ chăm sóc y, rồi dẫn y đi trồng hoa, nuôi cá thì vui biết bao. Thiếu nữ nói với Thủ-Độ : - Độ ơi ! Để ta ru người ngủ nhe. Nàng cất tiếng hát : Ạ ời ơi. Phượng hoàng đậu chốn cheo leo, Gặp khi bão táp a à a phải theo đàn gà. Ạ ời ơi. Bao giờ mưa thuận á à gió hòa. Thay lông đổi cánh...ạ à lại ra phượng hoàng. Ạ ời ơi. Thủ-Độ tỉnh giấc thì mặt trời đã lên cao. Thiếu nữ thấy nó thức thì reo lên : - Tỉnh rồi ! Độ tỉnh rồi. Này Độ ơi ! Mẹ ta có việc phải vào thành. Mẹ bảo ta ở lại để chăm sóc người. Người thử ngồi dậy xem nào ! Thủ-Độ cố gắng ngồi dậy, thiếu nữ reo : - Khá lắm ! Để ta lấy cháo cá cho người ăn. Thiếu nữ bưng ra bát cháo, nói : - Cháo cá quả đấy. Ngon lắm, người ăn đi. Thủ-Độ ăn liền một lúc ba bát. Nó hỏi : - Cô nương phương danh quý tính là gì ? - Ta ấy à ! Ta họ Trần tên Kim-Dung. Kim là vàng, Dung là cái bông hoa... À, tại sao mấy đứa con cậu của người lại đánh người ? - Một trong năm đứa đanh nhau vơí tôi bị thua, rồi chúng kéo cả năm đứa đánh tôi để trả thù. - Trước khi đi mẹ ta dặn rằng, sau Ngọ mẹ chưa về, thì ta đưa người về. Bây giờ quá Ngọ rồi, ta đưa người về thôi. Thiếu nữ dắt Thủ-Độ lên khỏi con thuyền. Nàng chỉ chiếc xe ngựa : - Người lên xe đi. Ta đưa người đến phố hàng Trống. Bây giờ chúng ta tạm chia tay. Sau này có dịp về Thăng-long, chúng ta lại đánh ngựa đi chơi khắp nơi. Nghe thiếu nữ nói, Thủ-Độ mất tự nhiên : - Đó...là điều tôi... ước mong. Hai người vừa lên xe, thì Thủ-Độ bóp miệng hí lên mấy tiếng. Đó là tiếng của loài ngựa mà nó học đươc khi còn ở Mông-cổ. Con ngựa vỗ móng chạy về phía trước. Thiếu nữ kinh ngạc : - Đàm Độ này ! Người biết nói tiếng ngựa đấy à ? - Tôi học được mấy trăm tiếng mà thôi. - Người thử bảo nó quẹo phải xem nào ! Thủ-Độ hí lên một tiếng. Con ngựa từ từ quẹo phải. - Người bảo nó quẹo trái đi ! Thủ-Độ lại hí, ngựa quẹo trái. Hai trẻ cho ngựa chạy khắp phố phường. Kim-Dung tỏ ra thông thạo đường lối. Mỗi khi qua một ngôi chùa mộït ngôi đền nàng lại giảng giải cho Thủ-Độ nghe. Khi xe đang chạy qua khu Văn-miếu, thình lình phía trước có tiếng la hét náo loạn. Dân chúng tránh dạt ra hai bên. Giữa đường có chiếc xe bốn ngựa phi như bay. Thoáng nhìn Thủ-Độ đã nhận ra bọn Gia-thụy ngũ anh ngồi trên xe. Nó vội kéo cái nón che mặt, rồi ra lệnh cho ngựa ép sát vào bên đường. Khi hai xe giao nhau, gã Đoàn Thượng nhìn thấy Kim-Dung thì reo lên : - Trời ơi ! Người đâu mà đẹp như tiên thế kia. Quay xe lại. Gã phu xe gò cương cho bốn ngựa dừng lại, rồi quay đầu. Thủ-Độ quát liền ba tiếng, ngựa vọt lên như tên bắn. Phía sau gã Đoàn Thượng ra lênh cho mã phu : - Đuổi thực gấp. Phút chốc chiếc xe bốn ngựa đã đuổi gần kịp chiếc xe của Thủ-Độ. Thủ-Độ quay lại phía sau hí lên một tiếng ra lệnh cho bốn ngựa dừng lại. Bốn con ngựa đang phi, nghe hiệu lệnh, chúng cất cao vó trước lên rồi ngừng lại. Nhưng tên mã phu lại giật cương, ra roi. Bốn con ngựa sải bước đuổi theo ngựa Thủ-Độ. Khi hai xe chạy song song với nhau, Long-Sảm vẫy tay nói với Kim-Dung : - Xin tiên tử ngừng xe lại, ta có mấy lời muốn nói. Kim-Dung nhoẻn miệng cười : - Người muốn nói gì thì nói đi ! - Tôi muốn thỉnh tiên tử sang xe bên này, rồi chúng ta cùng đi Cổ-loa chơi. - Không được đâu. Mẹ tôi bảo tôi phải về trước giờ Thân. Tôi mà đi như vậy, e mẹ đánh què. - Phu nhân là ai ? Để tôi đến thưa chuyện với phu nhân. Kim-Dung hỏi ngược lại : - Công tử là ai ? Mẹ tôi khó lắm, không phải ai cũng xin gặp được đâu. Long-Sảm cười lớn : - Cô nương cứ đưa tôi đến yết kiến phu nhân. Cam đoan phu nhân nghe tên tôi, người sẽ cho cô nương theo tôi trọn đời. - Công tử nói lớn lối quá vậy ? Công tử là ai ? Nghe Kim-Dung đối đáp với Long-Sảm, Thủ-Độ nổi cơn ghen, nó hí lên một tiếng dài, con ngựa của nó cất cao vó, thế là chiếc xe tứ mã vọt lên trước, chiếc xe của nó ở phía sau. Nó lại hí một tiếng, chiếc xe của nó quẹo sang trái, rồi vọt lên như tên bắn. Nó khoái trá cười ha hả. Kim-Dung thấy trò chơi của Thủ-Độ, nàng cực kỳ cao hứng, hướng chiếc xe bốn ngựa vẫy tay : - Non xanh chưa hết củi, sông dài chưa cạn nước. Sẽ có ngày tái ngộ.