Thế rồi từ đấy, nhà vua không tham dự các buổi thiết triều. Chính sự trao cho Trần Thừa, quân sự trao cho Trần Tự-Khánh, việc học trao cho Phạm Kính-Ân. Tổng-trấn Thăng-long, Tổng-lĩnh thị vệ trao cho Trần Thủ-Độ. Các quan không bao giờ thấy nhà vua. Lúc đầu, họ tuân chỉ vua qua bút phê của ngài trên tấu chương, mà tòa Thượng-thư lệnh chuyển vào trong cung Long-an. Những người tò mò, chú ý thấy rõ: Nét chữ phê là của Kiến-vũ hoàng hậu, nhà vua chỉ ký lên mà thôi. Dần dần, họ thấy nét chữ châu phê lẫn chữ ký đều là của Kiến-vũ hoàng hậu. Họ nghĩ: Hoàng hậu là Linh-nhân hoàng thái hậu thứ nhì.
Dưới sự phò tá của Kiến-vũ hoàng hậu, Thiếu-sư Trần Thừa, Thái-úy Tự-Khánh, Thái-bảo Phạm Kính-Ân, đất nước dần dần trở lại thanh bình. Mấy năm liền trúng mùa, dân chúng ấm no, học phong chỉnh đốn. Tại hương đảng, nhờ hệ thống tổ chức của bang Lĩnh-Nam, không còn nạn cường hào ác bá, cũng chẳng có nạn chủ điền bóc lột tá tiền. Trộm cướp gần như biến mất. Nhân tâm đều hướng về họ Trần: Phải chi Trần Thừa làm vua, thì dân còn sung sướng hơn nhiều.
Thế rồi tin từ nội cung đưa ra: Nhà vua bị chứng điên, uống rượu say, ngủ li bì suốt ngày. Có khi ngài xưng là Thiên-tướng giáng trần, tay cầm giáo, tay cầm mộc múa cho đến khi mệt lử mới thôi.
Kể từ niên hiệu Trị-bình Long-ứng thứ năm 0 đời vua Cao-tông, là năm bọn Quách Bốc khởi loạn, cho đến nay là niên hiệu Kiến-gia thứ 13 0 trải 15 năm, dân chúng đều có cảm tưởng triều Lý không còn nữa. Trong dân chúng, người ta chỉ nhắc đến ân đức của Trần Thừa, công lao dẹp loạn của Trần Tự-Khánh, và tài tổ chức an dân nông thôn của Trần Thủ-Độ.
Tuy vậy trong nước vẫn còn còn hai sứ quân Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng. Nguyễn Nộn giữ vùng Phù-đổng, xưng là Hoài-đạo vương. Đoàn Thượng chiếm giữ Hồng-châu xưng là Đông-hải đại vương. Hai người kéo cao cờ nghĩa Diệt Đông-a, trung hưng Tiêu-sơn. Sự thực, hai người cũng chẳng trung thành gì với triều Lý, nhưng cả hai đều biết rằng mình có mối thâm thù bất cộng đái thiên với Trần Thủ-Độ. Mà trên thực tế thì Trần Tự-Khánh giữ chức Phụ-quốc Thái-úy, nhưng Thủ-Độ lại là Tổng-lĩnh Thiên-tử binh, Ngưu-binh, Kỵ-binh, kiêm Tổng-lĩnh thị vệ, kiêm luôn Tổng-trấn Thăng-long. Hai người biết rằng nếu về hàng, thì tuy được quan cao cực phẩm, nhưng e sẽ bị Thủ-Độ trả thù xưa, khó toàn tính mạng. Hai người biết mình đã lâm thế cỡi cọp, thì không xuống được. Vì vậy cứ phải cầm cự. Thủ-Độ muốn đem quân dẹp, thì Tự-Khánh khuyên :
- Họ Lý làm vua đã trên hai trăm năm. Oán thù tuy nhiều, nhưng ân đức cũng có. Trong nước không thiếu gì người muốn làm giặc, mượn danh phù Lý. Nhưng đã có Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn rồi, chúng không thể làm được nữa. Vậy ta cứ để cho hai đứa cát cứ, chúng sẽ là nơi hút những kẻ muốn tôn phù Lý, để ta có cớ giết chết, mà khỏi phải kết vào các tội khác.
Bệnh tình nhà vua mỗi ngày càng thêm nặng, không biết sẽ băng hà lúc nào, mà ngài lại chưa có hoàng nam. Kiến-vũ hoàng hậu chỉ sinh được hai công chúa. Công chúaThuận-Thiên sinh năm Kiến-gia thứ 6 0, năm nay mới 8 tuổi. Công chúa Chiêu-Thánh sinh năm Kiến-gia thứ 8 0, năm nay mới 6 tuổi. Tôn thất lo lắng, dâng biểu xin nhà vua theo gương vua Nhân-tông, nuôi con em trong hoàng tộc, lập làm Thái-tử để yên lòng trăm họ. Nhưng nhà vua gạt đi, vì ngài còn trẻ, mới có 30 tuổi.
Ghi chú của thuật giả
Công-chúa Chiêu-Thánh sau được truyền ngôi vua, hiệu là Chiêu-Hoàng. Trong gia phả các chi họ Trần đều ghi rõ niên canh bát tự của Chiêu-Hoàng như sau: Sinh ngày 4 tháng 9, giờ Thân, năm Mậu-Dần. Còn niên canh bát tự của công chúa Thuận-Thiên, thì không sách nào ghi cả.
Bàn về số Tử-vi của vua, chúa, thì không cần phải để ý đến cung quan, tài, di mà cần xét xem cung mệnh có lớn không mà thôi. Xét lá số Tử-vi của Chiêu-Hoàng, thì mệnh cực tốt: Thiên-cơ, Thái-âm thủ mệnh tại Dần, cát tinh phù có Khoa, Quyền, Xương, hợp chiếu còn được bộ Tả, Hữu. Hiềm vì mệnh ngộ Kỵ thì bao nhiêu tốt đẹp, sẽ bị phá. Nên sau này ngài đi tu, đắc quả Bồ-tát.
Đất nước cứ như giòng nước êm đềm trôi, cho đến ngày 11 tháng 12 niên hiệu Kiến-gia thứ 13 0, một biến cố lớn xẩy ra. Ngày ấy, vào giờ Dậu, nhà vua đang say khướt, Kiến-vũ hoàng hậu đang ngồi duyệt các tấu chương, thì có tin báo phu nhân của Thái-úy Trần Tự-Khánh là Phan Mỹ-Vân, xin yết kiến khẩn cấp. Hoàng-hậu vội đánh thức vua dậy, nhưng vô ích, ngài say li bì. Hoàng-hậu tùng quyền ra tiếp chị dâu. Thấy mặt Mỹ-Vân tái xanh, Kiến-vũ hoàng hậu phát run, hỏi:
- Thưa chị, có gì không lành vậy?
- Anh Khánh vừa từ trần.
Hoàng-hậu kinh hãi:
- Anh có bệnh gì đâu?
- Hồi chiều đi duyệt binh về, anh kêu nhức đầu, chóng mặt, rồi buồn nôn. Thần sai thân binh thỉnh Ngự-y. Ngự-y chưa kịp tới thì anh ấy đã từ trần. Khi Ngự-ý tới chẩn mạch, người nói rằng anh bị Trúng-phong huyền dựng.
Ghi chú của thuật giả:
Theo gia phả của các chi họ Trần, thì những đời trước của Trần Thừa, Trần Tự-Khánh đều rất thọ. Đến Trần Thừa, Trần Tự-Khánh thì tuổi thọ giảm quá mau.
Trần Tự-An thọ 100 tuổi -100.
Trần Tự-Mai thọ 87 tuổi -87.
Trần Vỵ-Hoàng thọ 81 tuổi -81.
Trần Tự-Quang thọ 93 tuổi -93.
Trần Tự-Kinh thọ 87 tuổi -87.
Trần Tự-Hấp thọ 74 tuổi -74.
Trần Lý thọ 59 tuổi -59.
Trần Thủ-Huy thọ 105 tuổi -105
Trần Thừa thọ 51 tuổi -51
Trần Tự-Khánh thọ 39 tuổi -39.
Căn cứ vào chứng trạng ghi trong gia phả, thì Tự-Khánh chết vì chứng Trúng-phong huyền dựng do can dương nội động. Tương đương với Tây-y là huyết áp cao (Hypertension artérielle), rồi đưa đến tai biến mạch máu não (AVC).
Chức tước cuối cùng của Tự-Khánh là Phụ-quốc Thái-úy, Tả Kim-ngô thượng tướng quân, Uy-viễn đại học sĩ, Thuần-nghĩa quốc công. Lúc hoăng được truy phong:
Thái-sư thượng trụ quốc,
Long công, thịnh đức,
Vũ thắng, anh huân,
Nhân ái, trung liệt,
Kiến-quốc Đại-vương.
Kiến-vũ hoàng hậu ban chỉ gọi quan Tổng-lĩnh thị vệ, kiêm Tổng-trấn Thăng-long nhập cung ngay. Hơn khắc sau, Thủ-Độ vào. Hoàng-hậu ban chỉ:
- Lập tức đóng chặt các cửa thành. Cho thị vệ canh gác các cung điện, cùng Hoàng-thành, rồi mời các quan vào thiết triều khẩn cấp.
Giờ Tý ngày 12, các quan tề tựu đầy đủ tại điện Uy-viễn. Kiến-gia hoàng đế với Kiến-vũ hoàng hậu tới.
Lễ nghi tất.
Nhà vua loan báo với các quan về việc Thái-úy Trần Tự-Khánh đột ngột từ trần, rồi ban chỉ thay thế nhân sự như sau:
- Trần Thừa được phong: Kiểm-hiệu Thái-sư, Bình-chương quân quốc trọng sự, Phụ-quốc Thái-úy, tước Trung-hòa vương.
- Phùng Tá-Chu được phong: Hiệp-tán Thái-bảo, Thượng-thư tả bộc xạ 0, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, Chiêu-văn quan đại học sĩ, Giám-tu quốc sử, Đại Đô-đốc, Long-biên quốc công.
- Phạm Kính-Ân được phong: Dao-thụ Thái-phó, Thượng-thư hữu bộc xạ (Tể tướng), Đồng Bình-chương sự, Thượng-thư lệnh, Đông-triều qốc công.
- Tô Trung-Từ được phong: Đặc-tiến Thiếu-sư, Tham-tri chính sự 0, Binh-bộ thượng thư, Phụ-quốc đại tướng quân, Càn-nguyên điện đại học sĩ, Sơn-Nam quốc công.
- Trần Thủ-Độ được phong: Phiêu-kỵ thượng tướng quân, Tổng-lĩnh Thiên-tử binh, Long-thành Tiết-độ sứ, Tổng-lĩnh thị vệ, kiêm quản Khu-mật viện, Uy-viễn đại học sĩ, Tiên-yên quốc công.
- Phan Lân được phong: Vũ-kỵ thượng tướng quân, Khu-mật viện sứ, Kinh-Bắc tiết độ sứ, Tổng-lĩnh Kỵ-binh, Ngưu-binh, Hồng-châu quốc công.
Niên hiệu Kiến-gia thứ 14 0.
Bệnh tình nhà vua càng thêm trầm trọng. Các Ngự-y đều bó tay. Giữa lúc đó thì con quỷ ba đầu lại xuất hiện tại Đông-cung, là nơi của Thái-tử ở. Nhưng từ ngày Long-Sảm lên ngôi vua thì Đông-cung bỏ hoang. Lần khác, trong khi Kiến-vũ hoàng hậu đang thính chính tại triều thì nó xuất hiện giữa ban ngày tại cung Long-thụy nhát nhà vua. Nhà vua sợ quá, ngất đi đến nửa ngày mới tỉnh.
Sang tháng 10, bệnh nhà vua trở thành nguy ngập. Tôn thất, triều đình hội lại nghị sự tâu xin lập Thái-tử. Sau khi bàn với Hoàng-hậu trong hai ngày, nhà vua quyết định lập công chúa Chiêu-Thánh làm Thái-tử. Khi chiếu chỉ ban ra, bị hoàng tộc phản đối dữ dội. Vì họ muốn nhà vua chọn một thiếu niên thông minh trong hàng tôn thất, đem vào cung nuôi dạy, rồi lập làm Thái-tử. Ngược lại, các đại thần thì rửng rưng trước biến cố này. Vì từ lâu rồi, trong tâm tư của họ, thì triều Lý không còn nữa. Việc cai trị hoàn toàn do Trung-hòa vương Trần Thừa cùng các quan làm. Mấy năm qua quốc gia vô sự, dân sống an vui, học phong thịnh, mùa màng trúng.
Giữa tháng 10, bệnh nhà vua biến đổi. Suốt ngày hò hét, chạy nhảy như trẻ con. Từ sáng đến tối, không múa hát thì lại ngủ li bì. Tôn thất, hoàng tộc cho rằng nhà vua bị ma trêu, quỷ ám. Họ nghĩ đến con quỷ ba đầu, là hồn ma của Thái-tử Long-Xưởng trả cái thù vua Cao-tông chiếm mất ngôi. Họ còn tin rằng, việc Long-Xưởng với vợ, con, gia thuộc bị cướp giết cả nhà là do vua Cao-tông với Chiêu-Thiên thái hậu đã ra tay. Nên bây giờ con quỷ ba đầu nhập vào nhà vua, để trả thù. Họ mời sư Chân-Minh, trị sự chùa Chân-giáo vào Đông-cung cũ, nay bỏ hoang ; làm chay, giải oan cho mấy trăm người chết liền 49 ngày.
Thế nhưng bệnh nhà vua không thuyên giảm.
Biết bệnh mình không khỏi được nữa, nhà vua bàn với Kiến-vũ hoàng hậu, rồi ban chỉ truyền ngôi cho Thái-tử Chiêu-Thánh. Còn ngài thì đi tu ở chùa Chân-giáo trong thành. Thái-tử lên ngôi, lấy niên hiệu là Thiên-chương hữu đạo nguyên niên, quần thần tôn hiệu là Chiêu-Hoàng. Tân quân ban chỉ đại xá thiên hạ, tôn phụ hoàng làm Thái-thượng hoàng, tôn Hoàng-hậu Kiến-vũ làm Linh-từ Kiến-vũ hoàng thái hậu. Vì tân quân còn nhỏ tuổi, triều đình thể theo lệ có từ hồi vua Cao-tông, chọn Tứ-trụ đại thần nhiếp chính. Đó là:
Đệ nhất là Thái-sư Trần Thừa, lĩnh Bình-chương quân quốc trọng sự, thống bách quan, bình thứ chính (Tức chỉ huy tất cả các quan, cai trị trăm họ).
Đệ nhị là Hiệp-tán Thái-bảo Phùng Tá-Chu, lĩnh quyền Tể-tướng.
Đệ tam là Dao-thụ Thái-phó Phạm Kính-Ân, lĩnh quyền phó Tể-tướng, nhiếp các bộ Hộ, Lễ, Công.
Đệ tứ là Đặc-tiến Thiếu-sư Tô Trung-Từ lĩnh quyền phó tể tướng lĩnh các bộ Binh, Hình, Lại.
Kiến-vũ thái hậu buông rèm thính chính.
Thăng các quan lên một bậc.
Sau khi Thượng-hoàng thọ giới tỳ kheo với sư Chân-Minh, lấy đạo hiệu là Huệ-Quang. Thái-hậu với Trung-Hòa vương Trần Thừa làm phụ chính. Về chính sự, nhân sự nhất thiết giữ nguyên.
Tổng-lĩnh thị vệ Trần Thủ-Độ được lệnh chỉ hộ tống Thượng-hoàng rời Hoàng-thành ra chùa Chân-giáo. Có ba thái giám cũng thọ giới, theo hầu ngài. Lạ lùng thay, từ lúc ra chùa Chân-giáo, bệnh tình Thượng-hoàng giảm mau lẹ. Ngài không còn hò hét, ca hát nữa. Suốt ngày ngài ngồi trên bồ đoàn nhập thiền.
Ghi chú của thuật giả
Đoạn này, gia phả của con cháu Trần Ích-Tắc chép rất chi tiết. Xin nhắc lại, Chiêu-quốc vương Trần Ích-Tắc là con của công chúa Thuận-Thiên, tức là cháu ngoại của vua Huệ-tông. Cho nên trong gia phả con cháu vương chép về nhà vua bằng giọng văn cực kỳ kính trọng. Tạm lược dịch một đoạn :
Trung-vũ đại vương 0 thân đánh xe đưa đại sư Huệ-Quang 0 ra chùa Chân-giáo. Giáp-sĩ hai hàng, nghi trượng rực rỡ đi hai bên. Hòa-thượng Chân-Minh đón ở cổng chùa, nói rằng :
- Đại phàm đã vào chốn Không-môn thì những gì của trần tục như vua quan, giầu nghèo, già trẻ không còn nữa. Nay Thượng-hoàng bỏ ngôi báu, tìm lẽ giải thoát, mà còn dùng báu xa, nghi trượng, thì sao thoát khỏi trầm luân ? Bây giờ thì nào là Kiến-gia thiên tử, nào là triều đình, nào là Hoàng-thành nào là Long-an, Long-thụy, đều trở thành không cả. Lẽ vô thường là thế đó.
Rồi dẫn Huệ-Quang vào tăng phòng chỉ có cái bồ đoàn bằng rơm, giảng yếu chỉ kinh Kim-cương. Huệ-Quang thọ lĩnh rất mau. Chỉ sau một tuần, Huệ-Quang trở thành trầm mặc, không còn la hét, ca hát nữa.
Hơn tháng sau, Trung-vũ đại vương vâng chỉ ra chùa thăm Huệ-Quang, thì thấy ngài đang xuất thần đứng tần ngần dưới gốc cây chép bài sấm khắc trên thân (Xem hồi 33). Vương hỏi :
- Có hiểu không ?
- Tối nghĩa quá. Ta không hiểu được.
Bèn giảng :
- Thiên-đia huyền hoàng là trời đất này ảo diệu vô cùng, khó ai biết trước. Cương la mênh mang, là lưới trời lồng lộng. Kẻ nào làm ác, thì trước sau gì cũng mắc lưới trời. Dĩ oán báo đức, là lấy oán hận mà báo ân đức. Thập bát tử thành. Chữ thập, chữ bát, chữ tử là chữ lý đấy. Họ Lý đã lấy oán báo đáp lại kẻ có ơn với mình.
Hỏi :
- Thế còn các câu sau ?
- Tự tìm hiểu lấy.
Sư Chân-Minh thuật chuyện cũ : Gần hai chục năm trước, Trung-vũ đại vương bị 5 người đánh đến chết đi sống lại, sau thoát được, từng ngất đi dưới gốc cây này. Huệ-Quang tỉnh ngộ, nhớ lại rằng chính mình cùng bọn Phạm Bỉnh-Du, Đoàn Thượng đã đánh Trần Thủ-Độ. (Ngài) nhìn Vương, rồi cúi đầu xuống không nói gì. Vương nói với Huệ-Quang :
- Trước kia đã gây nghiệp, thì không thể nào tránh khỏi quả. Hãy liệu mà trả đi chứ ?
Thời gian Chiêu-Hoàng làm vua rất ngắn. ĐVSKTT chép như sau:
Ất Dậu, Thiên-chương Hữu-đạo thứ nhì (DL.1225), từ tháng 12 về sau là niên hiệu Kiến-trung nguyên niên đời vua Trần Thái-tông, bên Trung-nguyên là niên hiệu Bảo-khánh nguyên niên đời Tống Lý-tông.
Mùa Đông tháng 10, ban chiếu tuyển con em đại thần sung vào các chức sắc trong nội cung: Sáu đội lính thị vệ, Chi-hậu (chức văn quan trong cung), Nội nhân thị nội (Chức hầu cận trong cung), ngày đêm thay phiên chầu hầu. Điện-tiền chỉ huy sứ Trần Thủ-Độ coi giữ mọi việc trong Hoàng-thành và Kinh-thành.Cháu gọi Trần Thủ-Độ bằng chú là Trần Bất-Cập làm Cận-thị thư lục chi hậu (Bí thư riêng trong cung). Trần Thiêm làm Chi ứng cục. Trần Cảnh làm Chính-thủ 0.
Cảnh lúc ấy mới tám tuổi,chực hầu ở bên ngoài. Một hôm phải bưng nước rửa, nhân thế vào hầu bên trong.Chiêu-hoàng trông thấy, lấy làm ưa. Mỗi khi chơi đêm, cho gọi Cảnh đến cùng chơi, thấy Cảnh ở chỗ tối thì thân đến trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng lên bóng. Có một hôm Cảnh bưng nước đứng hầu, Chiêu-Hoàng rửa mặt lấy tay vốc nước té ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu. Đến khi Cảnh bưng khăn trầu, thì lấy khăn ném cho Cảnh. Cảnh không dám nói gì, về ngầm nói với Thủ-Độ. Thủ-Độ nói: "Nếu được như thế thì họ nhà ta thành hoàng tộc hay diệt tộc đấy". Lại một hôm, Chiêu-Hoàng lấy khăn trầu ném cho Cảnh. Cảnh lạy rồi nói: "Bệ hạ có tha tội cho thần không?Thần xin vâng mệnh".Chiêu-hoàng cười và nói: "Tha tội cho người chứ! Nay người đã khôn rồi đó". Cảnh về nói với Thủ-Độ. Thủ-Độ sợ việc tiết lộ thì bị giết cả nhà. Bấy giờ mới đem gia thuộc thân thích vào trong Hoàng-thành. Lại truyền đóng cửa thành, các cửa cung, sai người canh giữ. Các quan muốn vào chầu không vào được.Thủ-Độ báo với các quan:"Bệ-hạ có chồng rồi". Các quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu.
Ngày 21 tháng 10, các quan vào chầu lạy mừng. Chiêu-Hoàng xuống chiếu rằng:
"Từ xưa, nước Nam Việt đã có đế vương trị thiên hạ. Duy triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, có cả bốn biển, các tiên thánh truyền nối trên hai trăm năm. Chỉ vì Thượng-hoàng có bệnh, không người nối dõi, thế nước nghiêng suy, sai trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi. Từ xưa đến giờ chưa từng có việc ấy. Khốn nỗi, trẫm là nữ chúa, tài đức không đủ, giặc cướp nổi lên như ong, làm sao mà giữ nổi ngôi báu nặng nề? Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm đấng hiền lương quân tử để cùng giúp chính sự, đêm ngày khẩn khoản đến thế là cùng cực rồi.
Kinh Thi có câu:
Quân tử hảo cầu,
Cầu chi bất đắc.
Ngụ mị tư phục,
Du tai du tai.
(Quân tử tìm bạn, cầu mãi không được, thức ngủ không nguôi, buồn thay, buồn thay).
Nay trẫm suy đi, tính lại một mình, duy có Trần Cảnh văn chất đầy đủ, thực là thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất thần văn thánh võ, dù Hán Cao-tổ, Đường Thái-tông cũng không hơn được. Sớm hôm nghĩ kỹ từ lâu, xem nên nhường ngôi báu, để thỏa lòng trời, cho xứng lòng trẫm, mong đồng lòng hết sức, cùng giúp vận nước, hưởng phúc thái bình. Vậy bố cáo thiên hạ, mọi người đều biết".
Tháng 12 ngày 11, Mậu Dần, Chiêu-Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên-an, ngự trên sập báu. Các quan mặc triều phục vào chầu, lạy ở dưới sân. Chiêu-Hoàng trút bỏ ngự bào, mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế. Đổi niên hiệu là Kiến-trung nguyên niên, đại xá thiên hạ, xưng là Thiện-Hoàng (Hoàng đế được nhường ngôi), sau đổi là Văn-Hoàng. Bầy tôi dâng tôn hiệu là :
Khải vận, lập cực, chí nhân, chương hiếu hoàng đế.
Phong Trần Thủ-Độ làm Quốc-thượng phụ, nắm giữ mọi việc trị nước.
Thủ-Độ nói: "Hiện nay giặc cướp đều nổi, họa loạn ngày tăng. Đoàn Thượng giữ mạn Đông, Nguyễn Nộn giữ mạn Bắc. Các châu Quảng-oai, Đại-viễn cũng chưa dẹp yên. Triều Lý suy yếu, thế nước chông chênh, nữ chúa Chiêu-Hoàng không gánh vác nổi, mới ủy thác cho Nhị-lang (Trần Cảnh là con trai thứ nhì Trần Thừa. Con cả là Trần Liễu). Nhưng Nhị-lang chưa am hiểu việc nước, chính sự nhiều chỗ thiếu sót, mà vận nước mới mở, lòng dân chưa an, mối họa thực không nhỏ. Ta tuy là chú, mà học thức không nhiều, còn phải rong ruổi Đông,Tây để dẹp giặc cướp. Không gì bằng tôn thánh phụ làm Thượng-hoàng tạm coi việc nước. Một hai năm sau, thiên hạ nhất thống, lại giao quyền cho Nhị-lang". Các quan đều cho là phải, mời Thánh-phụ Trần Thừa nhiếp chính.
0.
Ghi chú của thuật giả
Qua bộ Anh hùng Đông-a,, độc giả biết rõ ràng nhờ đâu, do đâu, làm thế nào, mà họ Trần được thiên hạ; chứ không đơn thuần nhờ nhan sắc.
Từ xưa, khi nghe nói Trần gia dĩ nhan sắc đắc thiên hạ, người ta cứ cho rằng nhờ Linh-từ Kiến-vũ hoàng thái hậu, nhũ danh Trần Kim-Dung có nhan sắc, làm vợ vua Lý Huệ-tông, rồi họ Trần được ngôi vua. Nhan sắc đây không hẳn chỉ một mình Linh-từ thái hậu, mà nhờ Trần Cảnh đẹp trai, được Chiêu-Hoàng cưới làm chồng, rồi được truyền ngôi vua. Chỉ độc giả Anh hùng Đông-a mới biết rõ uyên nguyên mà thôi.
Ngôi vua từ họ Lý sang họ Trần, là một biến cố cực kỳ vĩ đại. Nếu biến cố này xẩy ra ở Trung-quốc, ít ra các sử gia cũng chép hàng trăm trang. Thế nhưng dù ĐVSKTT, dù VSL, dù KĐVSTGCM, cũng cũng chỉ chép không quá một trang. Xét kỹ biến cố này, ta thấy đây là một vở kịch dàn cảnh có lớp lang.
Thứ nhất, Từ trước đến giờ các sử gia thường tin vào mấy giòng trên đây của ĐVSKTT mà cho rằng cuộc hôn nhân Trần Cảnh Chiêu-Hoàng, cũng như việc truyền ngôi do Trần Thủ-Độ xếp đặt. Tôi thấy hoàn toàn vô lý. Bởi Linh-từ Kiến-vũ hoàng thái hậu là mẹ của Chiêu-Hoàng, buông rèm thính chính. Nói khác đi, là bà làm vua. Trần Thừa là cha Trần Cảnh làm Thái-sư Bình-chương quân quốc trọng sự, phụ chính ở ngoài. Trong khi Thủ-Độ chỉ là Điện-tiền chỉ-huy sứ. Nếu không có lệnh của Thái-hậu, của Trần Thừa, liệu Thủ-Độ có dám làm không?
Thứ nhì. Vua Lý Huệ-tông có hai công chúa. Công chúa Thuận-Thiên năm trước mới chín tuổi, đã hạ giá với con trưởng Trần Thừa là Trần Liễu. Bây giờ Chiêu-Hoàng mới tám tuổi, đã...lấy Trần Cảnh. Cuộc hôn nhân xếp đặt rõ ràng: Xưa nay, những con trai muốn vào hầu trong cung làm thái giám thì một là sinh ra...cái ấy teo như quả ớt, hoặc ái nam, ái nữ. Hai là phải tĩnh thân, làm cho thân thể trong sạch, tức cắt...cái nớ đi. Thế mà người cầm quyền phụ chính là Thái-sư Trần Thừa lại cho tuyển toàn bọn đực đẹp trai đem vào cung. Rồi Linh-từ Kiến-vũ thái hậu, làm chúa hậu cung cũng chấp thuận. Như thế rõ ràng hai vị muốn cho lửa của các cậu con cháu họ Trần, gần rơm Chiêu-Hoàng, hỏi sao không bùng cháy?
Thứ ba, việc triều thần tôn Điện-tiền chỉ huy sứ, phò mã Lý Công-Uẩn lên ngôi vua trước đó 216 năm, được coi là có chính nghĩa. Thì nay, cuộc hôn nhân Trần Cảnh Chiêu-Hoàng đưa đến việc nhường ngôi, còn có chính nghĩa hơn nhiều, vì có Linh-từ Kiến-vũ thái hậu chủ trương bên trong; bên ngoài chính nữ chúa ban chiếu nhường ngôi. Sau đó nữ chúa được phong hoàng hậu.
Ở đây, thuật giả xin giải thích một vài uẩn khúc, để độc giả trẻ tuổi ở hải ngoại hiểu thêm. Tại sao Chiêu-Hoàng vốc nước té vào mặt Trần Cảnh, ném khăn cho Trần Cảnh, mà Thủ-Độ lại sợ bị giết cả nhà? Bởi theo quan niệm cổ, khi Chiêu-Hoàng vốc nước vào người Cảnh, có nghĩa: Ta đem nước cho người. Ném khăn, có nghĩa ta bằng lòng làm vợ người. Theo ngu ý thuật giả, thì dù mới lên tám, Trần Cảnh Chiêu-Hoàng cũng có thể tò mò...thử lửa với nhau. Ngày nay, các thiếu niên năm sáu tuổi từng làm đám cưới giả. Biết đâu, Thủ-Độ không dạy Trần Cảnh...rằng trong lúc Chiêu-Hoàng âu yếm giả, thì...làm thực.
Sau này, thi sĩ Tản-Đà có làm bài thơ Chiêu-Hoàng lấy chồng như sau:
Quả núi Tiêu-sơn có nhớ công?
Mà em bán nước để mua chồng?
Ấy ai khôn khéo trò gian díu?
Cái nợ huê tình có biết không?
Một gốc mận già thôi cũng phải.
Hai trăm năm lẻ thế là xong.
Hỏi thăm sư cụ chùa Chân-giáo,
Đám cưới nhà ai mũ áo đông?
Trong ĐVSKTT, Ngô Sĩ-Liên đã bình luận về việc này như sau:
"Đến thời Huệ-tông, cái độc hại cho thiên hạ đã ngấm sâu lắm. Trong khi vua không phải là người tài ba, cương nghị. Bề tôi giúp nước thì nhu nhược hèn kém. Muốn chữa cái độc hại quá sâu, thì chẳng thể nào làm nổi. Huống chi vua lại bị chứng hiểm, chữa không khỏi, lại không có con trai nối nghiệp. Thế là đềm nguy vong đã hiện ra rồi. Tương truyền, vua Lý Thái-tổ, mới được thiên hạ, xa giá về Cổ-pháp, ngự chơi ở chùa Phù-đổng, có thần nhân đề thơ ở cột rằng:
Nhất bát công đức thủy,
Tùy duyên hóa thế gian.
Quang quang trùng chiếu chúc,
Một ảnh nhật đăng san.
Nghĩa là:
Một bát nước công đức,(Của Phật).
Theo duyên sinh thế gian,
Sáng rực hai đuốc rọi.
Mặt trời gác núi tàn.
Sư Vạn-Hạnh chép dâng lên. Lý Thái-tổ xem xong nói: "Việc thần nhân thì không thể hiểu được".
Người đời truyền tụng, không ai hiểu nghĩa thơ ấy nói gì. Đến khi nhà Lý mất, mới hiểu thơ ấy là nghiệm. Vì từ Thái-tổ đến Huệ-tông là tám đời. Mà Huệ-tông tên Sảm tức mặt trời gác bóng. Thế thì nhà Lý được vua là tự trời, mà mất cũng là tự trời vậy.
0
Trong hồi thứ nhất, thuật giả đã trình bầy bài sấm Cổ-pháp, đoán trước nhà Trần thay nhà Lý bằng câu :Đông-a nhập địa.
Sau đó nhà Lê lên thay bằng câu: Dị mộc tái sinh.
Thêm bài sấm Chân-giáo đã giải trong hồi 33:
Long sa thử địa,
Ty thằng u hoang.
Rồng rớt xuống chỗ đất này,
bằng sợi tơ thắt cổ, chỉ vua Lý Huệ-tông thắt cổ chết trên cây ấy.
Trong bài sấm trên đây:
Nhất bát công đức thủy,
(một bát nước công đức nhà Phật. Bát còn có nghĩa là tám. Chỉ nhà Lý làm vua được tám đời.)
Tùy duyên hóa thế gian.
(Theo duyên nhà Phật mà biến vào trần gian.)
Quang quang trùng chiếu chúc,
Một ảnh nhật đăng sơn.
Sángrựchailầnđuốcrọi.
Vua Lý Huệ-tông có tên là Hạo-Sảm. Chữ Hạo gồm có chữ Nhật trên chữ Thiên. Chữ Sảm gồm chữ Nhật đặt trên chữ Sơn. Vì tên vua có hai chữ Nhật trên chữ Thiên, nên sấm mới nói: Hai lần đuốc rọi. Triều Lý hết khi mặt trời gác trên núi: Để chỉ chữ Sảm gồm chữ Nhật trên chữ Sơn.
Sấm ký, giáng bút trong quá trình lịch sử Đại-Việt rất nhiều. Quý vị độc giả thích loại văn học thần bí này, xin đọc:
Sấm ký và Giáng bút
với
Việt-Nam 1925-2025.
Của Nam-Thiên,
do Xuân-thu Hoa-kỳ ấn hành 1998.
Địa chỉ liên lạc:
Nam-Thiên.
30 Freeman Rd.
Durack, Qld 4077, Australia.