Tuy võ công Nguyễn Dư cao thâm, nhưng bản lĩnh thiếu nữ vẫn trội hơn y một bậc. Thái-giám Đỗ Quảng đứng ngoài, thấy vậy thì rút kiếm nhảy vào trợ chiến. Bản lĩnh thiếu nữ tuy cao, nhưng tay không phải đấu với hai người. Không đầy hai chục chiêu nàng tỏ ra luống cuống. Thình lình nàng đánh liền ba chưởng như vũ bão, Đỗ Quảng, Nguyễn Dư tránh dạt ra. Nàng tung mình chạy. Nhưng chưa ra khỏi cổng, nãng vấp phải viên đá ngã lộn đi. Đỗ Quảng, Nguyễn Dư cùng điểm huyệt nàng rồi bồng nàng vào phòng viên phó sứ đặt lên giường. Nguyễn Dư nói với tên thị vệ : - Đại nhân. Đối với con sư tử cái này thì điểm huyệt e không ổn. Ta phải trói y thị lại. Tên thị vệ lấy hai cái dây lưng của viên phó sứ treo trên tường trói thiếu nữ lại. Đỗ Quảng dặn viên thị vệ : - Đây là món quà quý nhất Thăng-long Hoàng-hậu truyền tặng cho phó sứ đại nhân. Người mong phó sứ đại nhân giữ mà hưởng. Nếu ngài thấy tốt, thì cứ mang về Trung-nguyên. Tên thị vệ khép cửa lại rồi tiễn Nguyễn Dư ra về. Còn y, lại cầm đao ngồi trên chiếc bệ ở cổng, tiếp tục nhiệm vụ canh gác. Thủ-Độ nghĩ thầm : - Thì ra cái vụ dâng gái cho Tống là do Hoàng-hậu chủ trương. Bây giờ, ta phải lấy hết vàng ngọc của bọn sứ đoàn...rồi cứu thiếu nữ một thể. Nó vào trong cung. Không gặp ai. Nó lên phòng dành cho chánh sứ. Cửa phòng khóa rất chắc. Nó vận âm kình rồi phóng một chiêu vào ổ khóa. Cánh cửa chỗ ổ khóa bị vỡ liền. Nó đẩy cửa. Trong phòng có ngọn đèn dầu leo loét, ba cái tráp bằng gỗ trắc, bọc bạc đặt chồng lên nhau. Nó lại phóng một chiêu âm chưởng. Chỗ khóa tráp bị vỡ ra. Trong tráp chỉ có thư tín, sách vở, cùng đồ dùng văn phòng tứ bảo. Tiếp tục nó phóng âm chưởng vào hai cái còn lại, trong cũng không có vàng ngọc gì cả. Thất vọng nó nhìn quanh, trong góc phòng có chiếc hòm (rương) khá lớn, nó đẩy thử, thấy chỉ hơi di chuyển. Nó lại phóng âm chưởng, rồi mở ra. Mắt nó lóa lên, vì trong hòm đầy ngọc, vàng, bạc. Nó nhắc thử thấy không nặng lắm. Nó vác cả chiếc hòm lên vai. Ra khỏi cửa, nó nghĩ : - Đây là phòng của tên chánh sứ. Bây giờ ta sang phòng tên phó sứ cứu thiếu nữ. Thấy phòng tên phó sứ không khóa, nó đẩy thử. Cánh cửa mở ra. Thiếu nữ vừa trông thấy nó, nàng rú lên. Nó vội điểm vào huyệt Á-môn của nàng. Chân tay nàng run bần bật. Nó nói sẽ vào tai : - Trẫm là Vô-thượng Chí-tôn Đại-thánh hoàng đế đây. Người phải im lặng. Trẫm sẽ cứu người thoát khỏi cái tai nạn này. Trong phòng có một cái hòm lớn với hai cái tráp. Nó mở cái hòm, trong toàn y phục. Nó lại mở cái tráp. Trong tráp có một số vàng ngọc. Nó đem tất cả đổ vào trong cái hòm của viên chánh sứ. Nó nói với thiếu nữ : - Ta cứu nàng ra khỏi đây. Thiếu nữ gật đầu. Nó cởi trói, rồi vác cái hòm với nàng lên vai. Thiếu nữ đã bớt sợ. Nhưng chân tay vẫn còn run. Một vai vác thiếu nữ, một vai vác cái hòm, Thủ-Độ ra khỏi cung Triều-dương. Vì hòm nặng quá, lại thêm thiếu nữ, Thủ-Độ không thể nhảy qua hàng rào, nó vọt mình ra cổng sau. Tên thị vệ gác cổng từng nghe nói về con quỷ ba đầu, bây giờ thấy hình dáng Thủ-Độ, y kinh hoàng hét lên bằng tiếng Trung-quốc : - Quỷ ! Quỷ ba đầu. Rồi vung đao chém Thủ-Độ. Thủ-Độ tung thiếu nữ lên cao, tay phóng một chưởng, thanh đao của y vuột khỏi tay bay lên không. Nó bắt lấy đao, dùng cán điểm vào huyệt Đản-trung của y. Tên thị vệ mê man, ngã lăn xuống đất. Vừa lúc đó thiếu nữ rơi xuống. Nó vác nàng lên vai, vọt mình khỏi cung. Thủ-Độ vừa ra khỏi cung Triều-dương, thì một bóng đen đáp nhẹ nhàng trước mặt nó như chim. Có tiếng nói : - Mi là ai mà giả ma, giả quỷ, nhát người ? Hôm nay mi bị ta khám phá ra tung tích rồi. Bóng đen xuất một chiêu kiếm xả vào người Thủ-Độ. Nhận ra đó là một chiêu Hoa-sơn kiếm rất tinh diệu. Thủ-Độ ném cái hòm xuống bụi cây bên đường, tung thiếu nữ xuống bụi cỏ, rồi vọt mình lên cao tránh khỏi. Bóng đen phi thân theo, chĩa kiếm lên cao định chặt chân nó. Nó vội xả xuống một chưởng, đẩy thanh kếm sang một bên. Có tiếng ai đó : - Công lực cao thâm lắm ! Người khen không phải là bóng đen. Giọng nữ còn trẻ, rất quen thuộc. Trong nhất thời Thủ-Độ không nhận ra tiếng ai. Bóng đen lại tung vào người Thủ-Độ liền mười chiêu kiếm. Để dấu thân phận, Thủ-Độ dùng Hoa-sơn chưởng pháp chống lại. Tuy công lực cao thâm, nhưng đây là lần đầu tiên xử dụng, nên Thủ-Độ chỉ tránh né. Có tiếng ai đó nhắc : - Hoa-sơn chưởng là chưởng dương cương, mà dùng nội công âm nhu thì không có uy lực. Thủ-Độ tỉnh ngộ, nó vận toàn dương kình. Chỉ năm chiêu thanh kiếm trên tay người kia bị văng lên không. Nó bắt lấy kiếm, phóng tới điểm huyệt y. Bấy giờ nó mới nhận ra bóng đen là Đoàn Thượng, một trong Gia-thụy ngũ anh. Nó cầm thanh kiếm của y ném vào trong cung Triều-dương. Khi nó quay lại, tìm người nhắc nhở trợ giúp nó, thì không thấy đâu. Nó vác cái hòm, với thiếu nữ vào sau chùa Quán-sứ, ném mặt nạ, hai cái đầu giả vào trong, rồi trở về Tây-hồ thủy-xá. Vào trong phòng, đóng cửa lại, nó đặt thiếu nữ lên giường, định mở hòm ra kiểm kê xem trong đó có những gì. Chợt thấy trên nóc hòm, ai đó đã dán một mảnh giấy, nét chữ giống nét chữ trên mảnh giấy của người mượn xôi, chim sẻ hôm trước. « Vàng ngọc này là vàng ngọc của Đại-Việt. Không thể xử dụng vào việc riêng tư. Bằng không thì chẳng hóa ra quân trộm cắp vặt ư ? ». Nó nghĩ thầm : - Trước sau ta làm sáu vụ, thì bốn bị cao nhân theo dõi. Cao nhân lấy chim sẻ với xôi và cao nhân hôm nay là một. Còn cặp cao nhân ta gặp ở Văn-miếu, cao nhân đem Thùy-Dương từ đền thờ vua Trưng về Tây-hồ thủy-trang là ai ? Họ là ba nhóm người khác nhau, hay cùng là một ? Biết đâu cái hôm ta làm ma tại nhà Đặng Vũ với dinh An-phủ sứ Hồng-châu không bị theo dõi? Nó giải huyệt cho thiếu nữ, rồi hỏi : - Cô nương ! Phải chăng cô nương là con của đô thống Phan Lân ? Biết Thủ-Độ không phải là quỷ ba đầu, thiếu nữ hết sợ : - Đúng vậy ! Tiểu huynh đệ, cảm ơn người đã cứu ta. Ta tên là Phan Mỹ-Vân, sao người biết tên cha ta ? Thủ-Độ tủm tỉm cười không trả lời. Thiếu nữ càng truy : - Bấy lâu nay Thăng-long muốn nổ tung ra vì chuyện con quỷ ba đầu hiện hình, hóa phép hành hiệp cứu người. Ai cũng phục, ví con quỷ này có hành vi như Côi-sơn song ưng. Ta cũng tin là thực. Ban nãy thấy người, ta sợ thiếu điều chết khiếp. Nào ngờ người là một thiếu niên. Tiểu huynh đệ, tuổi người còn trẻ, mà công lực lại cao thâm khôn lường. Ta thấy người xử dụng võ công Hoa-sơn, nhưng căn bản lại là võ công Đông-A nhà ta. Vậy sư phụ của người là ai ? - Tôi không có sư phụ. Tôi học võ với bố mẹ tôi. Bố tôi là người có thân phận to lớn. Nhưng tôi sớm phải xa người từ nhỏ. Còn mẹ tôi ư ? Người thuộc phái Mê-linh. Mẹ tôi bị người ta phục kích, dùng loạn tên bắn chết. Bố mẹ tôi thường nhắc đến sư đệ của người, mà người rất sủng ái tên là Phan Lân. Không ngờ hôm nay chúng ta là con lại có dịp gặp nhau. - Vậy thì chúng ta là người cùng nhà ! Nếu phụ thân tôi là sư đệ của song thân huynh đệ, thì huynh đệ lớn vai hơn tôi. Tôi phải gọi là sư huynh. Thế song thân của tiểu sư huynh đại danh là gì ? - Vì một lẽ riêng, tôi phải dấu thân phận, để truy lùng tung tích kẻ giết mẹ tôi, nên tôi không thể nói tên hai thân ra được. Nói rồi nó nói lơ mơ : - Mẹ nó là người trong hoàng tộc, bị người ta dùng loạn tên bắn chết. Nhà vua đem nó vào Hoàng-thành nuôi... Còn đoạn sau nó thuật hết sự thực. Mỹ-Vân vái Thủ-Độ ba vái : - Tiểu muội xin tham kiến sư huynh. Thủ-Độ đáp lễ : - Bây giờ ta đưa sư muội về nhà. Mỹ-Vân cảm động : - Cảm ơn tiểu sư huynh đã cứu muội ra. Tuy nhiên việc bắt muội dâng cho tên phó sứ là chủ trương của Hoàng-hậu, muội không thể về nhà được nữa. - Vậy thì muội có thể ở lại đây với chúng ta. - Chúng ta là những ai ? - Ta là một, với mười tám đứa đều là ăn mày, ta đem về nuôi dạy. - Mười chín đứa chứ sao là mười tám ? - Không, chỉ có mười tám thôi. - Vậy tiểu sư huynh không kể con bé Mỹ-Vân này à ? - Ừ nhỉ ! Mỹ-Vân nhìn cái hòm đựng châu báu, nàng hỏi : - Tiểu sư huynh. Từ hôm sư huynh làm quỷ đến giờ, từ vua cho tới các quan đều tin rằng đó là hồn oan Thái-tử Long-Xưởng. Tuy vậy có nhiều võ lâm cao thủ không tin. Ho ra sức truy lùng. Coi chừng họ khám phá ra tung tích sư huynh đấy. - Có ! Có nhiều người biết hành tung của ta. Rồi nó thuật lại bốn lần làm quỷ đều bị cao nhân khám phá ra. Mỹ-Vân nheo mắt mỉm cười, dưới ánh sáng ngọn đèn, nàng đẹp thực huyền ảo : - Để muội luận xem có đúng không nghe. Cao nhân lấy xôi, chim sẻ trên lưng sư huynh với cao nhân dán giấy trên hòm châu báu này là hai người còn trẻ. Ban nãy, muội nghe cao nhân này nhắc sư huynh, mách sư huynh cách thắng tên Đoàn Thượng là giọng nữ, còn rất trẻ. Khi họ đi, muội nghe rõ bước chân một nam, một nữ. Xét kỹ trong võ lâm, những người còn trẻ mà võ công cao đến trình độ này không nhiều. Ta cứ thư thả sẽ tìm ra. Còn hai cao nhân dẫn dụ sư huynh ra Văn-miếu thì muội biết là ai rồi. - ? ? ? - Họ là hai trong Lĩnh-Nam bát tiên ! - Nghĩa là ? - Trong hai chục năm qua, khắp vùng Quảng-Đông, Quảng-Tây, Hồ-Nam bên Trung-quốc ; trên đất Đại-Việt, Chiêm thành, có vị bốn nam tử cùng với bốn phu nhân nức danh trong việc ban ân đức cho dân chúng. Bốn cặp này lại nhân từ vô bờ bến. Dân chúng gọi tám vị là Lĩnh-Nam bát tiên. - Có phải là Hồng-lĩnh ngũ đại phu với phu nhân là Vỵ-xuyên ngũ tiên không ? - Không ! Mười vị này, tuy năm bà hành hiệp giúp đời, năm ông ra tay cứu nhân độ thế, nhưng so với tám vị kia thì ân đức các vị trải ra chỉ bằng hạt cát so với trái núi. - Chà ! Sư muội cho ta biết được không ? - Người thứ nhất là sư bá Trần Lý với phu nhân Tô Phương-Lan. Sư bá Trần Lý là con trai trưởng của chưởng môn phái Đông-A Trần Tự-Hấp. - À ! Ta đã nghe nói nhiều. - Ngay từ nhỏ, sư bá với vợ đã tụ tập các thiếu niên ngang tuổi phá hoang làm ruộng, cấp cho dân nghèo phiêu bạt không tấc đất cắm dùi. Cho đến nay, khắp một giải Thiên-trường, hầu hết dân chúng đều do ân đức của người mà trở thành khá giả. Dân chúng tôn sư bá làm Thần-nông sứ. Gì chứ việc này, Thủ-Độ thường nghe bố mẹ nó nhắc đến hoài. - Thế còn vị thứ nhì. - Vị thứ nhì là sư bá Trần Thủ-huy, em ruột sư bá Trần Lý. - Ấy à ! - Sao, sư huynh có nghe biết đệ nhị sư bá à ! - Tôi có nghe song không biết sự thực ra sao ? - Sư bá là phò mã của vua Anh-tông, kết hôn với công chúa Đoan-Nghi. Thời gian người cầm quyền, trong làm cho nước giầu, dân mạnh. Ngoài làm cho Chiêm mến, Tống sợ, phải công nhận quốc danh của ta. Hiện giờ sư bá đang săn thú ở Mông-cổ. - Thế còn người thứ ba ? - Người thứ ba chính là người đã dẫn dụ sư huynh ra Văn-miếu. Người họ Tô tên Trung-Từ, là anh vợ của bác Lý. Thủ-Độ từng nghe bố mẹ nói về Tô Trung-Từ với Nhạc Bảo-Bảo. Nó suýt xoa : - Hôm gặp ông bà, tôi cứ hỏi rằng sao trên thế gian lại có người đẹp đến thế. Thì ra bà là Bảo-Bảo, giai nhân Hàng-châu. - Sư huynh đã biết tiếng Tô sư bá rồi à ? - Biết chứ, người được dân chúng tôn là Khai-hoang sứ. - Đúng vậy ! Gần đây sư bá đi khắp đất nước, nơi nào người cũng quy tụ dân nghèo, giúp họ khai hoang, vì vậy ân đức của người rất rộng. - Còn vị thứ tư ? - Vị thứ tư là sư bá Phùng Tá-Chu với phu nhân là sư bá Kim-Ngân. - Có phải hai vị được tôn làm Hải-hà sứ không ? Hiện hai vị ở đâu ? - Phùng sư bá hiện là Tổng-trấn Bắc-cương. Phùng sư bá là người chế ra các loại thuyền lớn, có thể ra khơi đánh cá.Nhờ sư bá, mà dân đánh cá sống sung túc, no đủ. Thủ-Độ trở về thực tại : - Như vậy, chỉ còn người đàn bà đem Thùy-Vân từ đền thờ vua Trưng về đây là chúng ta chưa biết là ai mà thôi. Mỹ-Vân chỉ cái hòm châu báu : - Sư huynh định cất ở đâu? Dùng vào việc gì ? Thủ-Độ đáp không suy nghĩ: - Hiện giờ vua thì hôn ám, chỉ biết xây dựng cung điện cho cao rộng, quanh năm suốt tháng sống với cung nga. Dân chúng quá đói khổ, giặc cướp nổi lên khắp nơi. Tôi định dùng số vàng bạc này làm hai việc. Một lập những trang khắp Đại-Việt, tụ tập bọn thiếu niên ăn mày lại, dậy dỗ cho chúng thành người. Hai là, ta thu dụng các thiếu niên còn trẻ, dạy văn, luyện võ cho họ, rồi tổ chức thành những đội bảo vệ làng xã. Mỹ-Vân mở to mắt nhìn Thủ-Độ : - Chí sư huynh lớn quá. Liệu ta có làm nổi không ? - Vua Đinh Tiên-hoàng chỉ là đứa trẻ mồ côi chăn trâu. Tổ Trần Tự-Viễn của phái Đông-A xuất thân là một chú thợ săn. Linh-Nhân hoàng thái hậu là một cô gái quê. Thế mà các vị ấy làm lên những chuyện kinh thiên động địa. Tại sao ta không theo gương các ngài ? Dù ta không tạo được huân nghiệp to lớn, thì cũng không hổ là con cháu các ngài. - Sư huynh ! Triều đình nghe tin cung Triều-dương bị quỷ ba đầu cướp châu báu; muội e, nhà vua sẽ sai thị vệ đi xét từng nhà. Ta nên cất số vàng bạc này đi chỗ khác. - Bây giờ ta nên cất ở đâu ? Mỹ-Vân dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai Thủ-Độ : - Hành động của sư huynh bị người ta theo dõi. Những người này là người tốt thì không sao. Còn như họ là người của triều đình, của Tống, thì cái gì sẽ xẩy ra ? Họ ở trong bóng tối, sư huynh ở ngoài sáng, làm sao mà đề phòng ? Số vàng ngọc này vốn của Đại-Việt. Nếu sư huynh để ở đây, lỡ ra quan quân tới khám thì đầu sư huynh với bọn Thập-bát Tây-hồ khó mà bảo toàn. Biết đâu, người theo dõi sư huynh không lấy trộm ? Muội khuyên sư huynh nên làm như vậy... như vậy... Thủ-Độ tỉnh ngộ. Nó vác hòm châu báu ra phía sau chuồng ngựa, lấy móng, cùng Mỹ-Vân đào lỗ chôn xuống, rồi trở về phòng. Nó chỉ cho Mỹ-Vân nằm trên giường, còn nó thì nằm dài trên cái phản. Hai người tắt đèn đi ngủ. Nằm khoảng hai chục tiếng đập tim, nó ngồi bên cửa sổ cùng Mỹ-Vân phóng mắt qua kẽ cửa quan sát. Không phải chờ lâu, có hai bóng đen từ trên cây khế buông mình xuống, lại chỗ nó chôn hòm châu báu quan sát qua loa, rồi bỏ đi. Chỉ chờ có thế, Mỹ-Vân với nó ngồi dậy, nhìn nhau mỉm cười. Nó khen : - Mưu kế sư muội thâm thực. Nó lấy cái hòm quần áo của mình, cùng Mỹ-Vân bỏ vào trong mươi viên gạch, rồi đào cái hòm châu báu lên, bỏ cái hòm chứa gạch xuống. Nó vác cái hòm châu báu vào nhà, rồi mở ra cùng Mỹ-Vân kiểm điểm. Số vàng là 200 thoi, còn lại không biết bao nhiêu bích ngọc, hồng ngọc, kim cương. Lại có cả năm cái hộp bằng bạc trong đựng sâm Cao-ly. Mỹ-Vân thắc mắc: - Tiểu sư huynh! Tất cả vàng, cũng như ngọc đều đựng trong hộp bạc, bên ngoài khắc biểu hiệu của Đại-Việt là hình con rồng cuộn khúc, cạnh con chim âu đang bay. Những vàng ngọc này chắc là của công khố Đại-Việt. Vậy tại sao lại có năm hộp bạc đựng sâm, ba hộp vàng đựng ngọc, trên khắc hình mặt trời với con chim ưng? Sâm, ngọc này ở đâu, mà tên sứ Tống có? Câu hỏi của Mỹ-Vân làm Thủ-Độ giật bắn người lên. Nó trả lời trong khi tay run run: - Hình chim ưng bay ngang mặt trời là biểu hiệu của Thành-cát Tư-hãn. - Thành-cát Tư-hãn là ai? - Là vua nước Mông-cổ. - Nước Mông-cổ ở đâu? - Ở phía Bắc Trung-quốc. Dân ta chỉ biết có Tống. Triều đình phải cúi đầu chịu nhục trước Tống. Trong khi đó Tống phải xưng thần tiến cống Kim. Mà Kim thì sợ Mông-cổ như sợ cọp. Mỹ-Vân thấy sắc thái kỳ dị của Thủ-Độ, nàng nghĩ thầm: - Vị tiểu sư huynh này, dọc ngang coi trời bằng vung. Thế sao khi nói tới Mông-cổ lại run run cảm động? Ta phải hỏi cho rõ mới được. Nàng chỉ vào mấy hộp sâm, ngọc hỏi Thủ-Độ: - Sư huynh! Tại sao sư huynh thấy mấy hộp này lại súc động quá đáng? - Tại vì, nó là những món mà Thành-cát Tư-hãn tặng cho song thân huynh. Khi mẫu thân huynh bị sát hại, thì những món này bị người ta lấy mất. Tại sao bây giờ nó lại ở đây? Ai đã đem những vật này dâng cho Tống? Mấy năm nay, huynh khổ công truy lùng sát nhân đã ám toán mẫu thân huynh, mà không ra tung tích. Bây giờ đã có ánh sáng rồi đây. Cái kẻ đã dâng ngọc, sâm cho Tống là chính phạm trong vụ này. Thủ-Độ mở mấy hộp ngọc ra. Nó thấy thiếu hai món quan trọng. Món thứ nhất là viên hồng ngọc lớn bằng quả trứng gà. Đó là viên ngọc mà Mông-cổ tịch thu được trong trận đánh kinh đô Khắc-liệt. Thành-cát Tư-hãn sai khắc hình con chim ưng, biểu hiệu của phái Đông-A lên trên, tặng cho Thủ-Huy. Món thứ nhì là một chuỗi ngọc kim cương 360 hạt, mà Đại-hãn Diệt-xích-ngột dùng để chuộc mạng y với vợ con. Thành-cát Tư-hãn tặng cho Đoan-Nghi, ngay sau trận đầu Thủ-Huy Đoan-Nghi cứu ông. - Em có thể giúp sư huynh tìm ra thủ phạm hại bá mẫu! - Nói thử! - Chúng ta mạo hiểm tìm cách bắt tên chánh sứ, dùng cực hình tra khảo, thì y khai ra những thứ này, ai đã trao cho y! - Liệu ta có làm được việc này không? - Tại sao không? Tên phó sứ là một võ lâm cao thủ. Còn chánh sứ chỉ là tên quan văn trói gà không chặt... Nếu không bắt được chánh phó sứ, thì ta bắt một trong bốn tên bồi sứ cũng đủ. - Bồi sứ là gì vậy ? - Là người nắm tất cả những cơ mật trong sứ đoàn, làm quân sư cho chánh sứ. Nhưng... nghe đâu võ công bốn tên bồi sứ cao thâm lắm thì phải. Mỹ-Vân hỏi : - Bây giờ ta phải cất đám vàng bạc này ở đâu? Thủ-Độ chợt nhớ một câu trong binh pháp Kinh-Nam vương: "Phàm chỗ kín thì ai cũng chú ý. Phàm chỗ hở thì ít ai để ý. Phàm cái chỗ dễ chết, ta có thể tìm được đất sống. Phàm chỗ ai cũng tưởng sẽ sống, lại dễ bị chết". Nó lấy ra mười nén vàng, bỏ vào cái túi, rồi nói: - Sư muội thấy không! Ta sống giữa nanh vuốt hùm, sói là Đông-cung, cung Ngọc-lan, lại yên lành. Bây giờ nếu ta dấu đám châu báu tại đây, e có ngày bị lộ. Cái nơi mà ít ai để ý, người người đi lại, thì không ai ngờ tới. Cái nơi đó là khu vườn sau chùa Chân-giáo. - Thế còn mười nén vàng này? - Hôm trước ông bà Hải-hà-sứ Tô Trung-Từ vỗ vai, rồi hì sư huynh, dụ sư huynh ra Văn-miếu để tìm căn cước. Bây giờ ta làm ngược lại với ông bà. Ta không hì ông bà, mà đường đường chính chính tìm đến ông bà, để ông bà biết ta không trẻ con như ông bà tưởng. - Nghĩa là?!?!?! - Ông bà ấy biết huynh qua ông bà Phòng-Phong, dĩ nhiên ông bà ấy biết chỗ ở cũng như việc làm của ta. Ta đường đường, chính chính sai bọn Anh-Hào đem vàng đến con thuyền của ông bà ấy trên bến Bắc-ngạn, trao số vàng cho ông bà ấy, xin ông bà ấy đứng ra quy tụ bọn thiếu niên nghèo khó ở Kinh-Bắc, đem về nuôi dạy. - Hay! Mỹ-Vân mang cái móng. Thủ-Độ vác hòm bỏ lên chiếc xe ngựa, lấy cỏ đậy lại, rồi hướng chùa Chân-giáo. Hai người âm thầm lẻn vào sau chùa, đào hố chôn ngay cạnh hàng rào, rồi ra về. Trở về nhà, Mỹ-Vân cười : - Ai đó ! Bất kể chính hay tà, theo dõi chúng ta. Thấy chúng ta chôn bảo vật sau nhà, nếu họ đào cái hòm lên mang đi, khi mở ra, chỉ thấy gạch, ắt sẽ nghĩ rằng : À cái thằng nhỏ láu cá. Cũng có thể họ cho rằng chúng ta bị một kẻ thứ ba nhanh tay hơn lấy đi. Họ bị chậm chân. Có một điều tế nhị, nhưng rất quan trọng... - ? ? ? - Việc muội tuân chỉ dụ vào cung chầu hầu Hoàng-hậu, bị đưa đến cung Triều-dương, rồi mất tích, ắt quan quân sẽ phải lùng kiếm khắp nơi. Phụ thân muội với đoàn võ sĩ Côi-sơn đâu có chịu ngồi yên ? Có lẽ phải báo cho phụ thân muội biết rằng muội vẫn bình an. - Huynh nghĩ không nên báo vội. Cứ để sư thúc kiện Hoàng-hậu đòi người. Cứ để cho sư thẩm khóc lóc đòi con. Cứ để đoàn võ sĩ Côi-sơn tìm sư muội. Như vậy triều đình mới không nghi ngờ sư thúc. Sau hơn tháng, ta âm thầm báo với sư thúc, rằng sư muội hiện sống bình an tại một nơi. - Cũng được, kể ra để cho bố mẹ muội lo sợ cho con gái trong hơn tháng, e phạm tội bất hiếu. Đành vậy...Vụ tên Đoàn Thượng bị sư huynh đánh bại, y sẽ cáo với triều đình rằng con quỷ ba đầu là người. Vậy từ nay, ta không thể giả làm quỷ được nữa. - Ngày mai huynh sẽ giới thiệu muội vơí bọn Thập-bát Tây-hồ. Sư muội sẽ thay huynh luyện văn, dạy võ cho chúng. Chợt Mỹ-Vân ái chà một tiếng. Thủ-Độ hỏi : - Gì vậy ? - Muội ở đây, tuy khuất khúc, nhưng trước sau gì cũng bị lộ. Vậy sư huynh để muội giả trai cho tiện. Tên sư huynh là Độ vậy muội sẽ dùng tên là Tuyền. Độ là vượt qua, Tuyền là suối. - Phải đấy. Sáng hôm sau, Thủ-Độ gọi Tây-hồ thập bát anh-hào tập trung ở phòng học. Nó giới thiệu Mỹ-Vân là sư muội của nó tên Thanh-Tuyền. Thanh-Tuyền giả trai, vì lý do riêng. Từ nay Thanh-Tuyền sẽ dạy văn, luyện võ cho bọn Thập-bát Tây-hồ. Cả bọn thấy Mỹ-Vân đẹp trai, linh lợi, thì mừng lắm. Nhờ Mỹ-Vân luyện võ hàng ngày, mà bản lĩnh bọn Thập-bát Tây-hồ tiến rất mau. Mỹ-Vân bàn : - Hiện triều đình đang mở khoa thi tuyển võ, ai trúng tuyển sẽ được bổ làm võ tướng. Tại sao sư huynh không cho Cửu-hào ứng thí ? Anh thù hận triều Lý, muốn diệt họ Lý, thì cần phải có quân trong tay. Nếu như Cửu-hào trúng tuyển, được bổ làm võ tướng cầm quân. Bề ngoài chúng là người của triều đình, nhưng bề trong chúng là ngưới của anh. Một ngày kia anh khởi sự, thì anh đã có chín đại tướng với chín đạo quân trong tay. Thủ-Độ tỉnh ngộ : - Sư huynh nghe lời muội. Phải đấy, tuy nhiên phải luyện văn cùng giảng binh pháp cho chúng, khi ứng thí mới có thể trúng tuyển. Tháng sau,Thủ-Độ cùng Mỹ-Vân gọi Ngũ-Anh, Ngũ-Hào vào phòng riêng, chỉ cái túi mười nén vàng, rồi hỏi: - Khu vực của hai em là bến Bắc-ngạn. Vậy hai em có biết nơi neo con thuyền của Hải-hà sứ không? Hai đứa lắc đầu. Thủ-Độ nhăn mặt : - Dở quá! Ta đã bảo, trong khu vực trách nhiệm của các em, có thêm một con chó, một con mèo, các em cũng phải biết. Thế mà con thuyền của một cặp vợ chồng danh nhân neo ở đó từ mấy tháng nay, mà các em không biết. Sổ toẹt. Hai đứa gãi tai: - Xin anh cho em biết con thuyền đó hình dạng ra sao, thì bọn em mới tìm ra chứ? Mỹ-Vân cười: - Con thuyền đó kéo hai lá cờ. Lá thứ nhất mầu xanh, trên có hình con chim ưng vỗ cánh. Đó là biểu hiệu của phái Đông-A. Lá thứ nhì, vẽ hình một nông dân dắt trâu, vác cầy. Đó là biểu hiệu của Khai-hoang sứ. Ngũ-Hào bật cười: - Em biết rồi. Con thuyền đó đến đậu trên bến Tương-Dung, bên cạnh con thuyền của người đẹp mà Đại-hãn bảo rằng đó là thuyền của người thân. Con thuyền ấy đến bến vào ngày mùng bẩy tháng tư, giờ Mùi. Trên thuyền có một cặp nam nữ, trung niên. Nam thì to lớn như Hộ-pháp, mỗi lời nói ra đều làm cho người nghe cười. Nữ thì đẹp tuyệt thế, bà rất nghiêm nghị. Ngũ-Anh xen vào: - Ông ấy sợ vợ quá sợ cọp. Mỗi khi ông tía lia, bà lên tiếng, là ông im ngay. Tùy tùng của ông bà có mười cặp đệ tử. Họ đều là vợ chồng. Cái đặc biệt của những người trên con thuyền này là họ : Họ mang thực phẩm theo như gà, vịt, lợn chứ không mua ở chợ. Còn tôm cá, thì họ quăng lưới bắt lấy. Họ chỉ mua rau đậu thôi. Thế rồi Ngũ-Anh, Ngũ-Hào trình bầy hoạt động của những người trên con thuyền, không thiếu chi tiết nào.