Một buổi tối, sau khi cơm chiều, Thủ-Huy, Thúy-Thúy, Thủ-Độ cùng ngồi đàm đạo về tình hình Mông-cổ, Đại-Kim, Đại-Việt. Được vài câu thì Thủ-Độ cáo mệt xin lui. Thủ-Độ đi rồi, Thúy-Thúy nắm lấy tay Thủ-Huy nói bằng giọng tha thiết:
- Anh ạ! Em muốn hỏi anh một chuyện, mong anh nói thực vơí em.
Thủ-Huy ngồi nhỏm dậy, nhìn vào khuôn mặt thanh tú của người vợ... Công thấy bóng mình in sâu trong đôi mắt đen, sáng long lanh của Thúy-Thúy. Công hôn phớt lên má người vợ rồi hỏi:
- Em có điều gì thắc mắc?
- Mấy tháng nay, em thấy dường như Thủ-Độ có điều gì bất như ý, mà nó không thổ lộ với em. Không biết nó có thổ lộ vơí anh không?
- Không! Từ lúc nó trở lại Mông-cổ đến giờ đã hơn một năm, mà có bao giờ nó rảnh rỗi đâu! Suốt ngày hết luyện quân, dẫn quân tập trận giả, lại giải quyết những vấn đề lặt vặt. Cha con chỉ gặp nhau vào bữa cơm chiều mà thôi. Anh cho rằng nó mệt mỏi nên không chú ý. Em thấy nó có cử chỉ gì bất mãn với em ? Với anh hay vơí hai đứa em nó chăng ?
- Chết thực! Anh vô tâm đến thế là cùng. Anh không để ý sao? Trán nó luôn nhăn lại, mắt mơ màng nhìn ra xa, thỉnh thoảng lại thở dài. Bất mãn với anh, với em thì có thể. Còn đối với hai đứa em, tuy cùng cha khác mẹ, mà nó yêu thương em vô bờ bến. Anh không thấy ư ? Mỗi khi về nhà, mà không thấy hai em, là nó sa sầm mặt xuống. Vậy thì cái thất thường của nó không do gia đình.
- Ừ nhỉ!
- Để em cho gọi Thủ-Độ ra đây, rồi chúng mình cùng hỏi con, xem tại sao.
Nàng ban lệnh cho một tỳ nữ:
- Người vào gọi Thủ-Độ ra cho ta.
Thủ-Độ trong tư thái bơ phờ, hai tay dắt hai người em bước ra:
- Mẹ gọi con?
Thúy-Thúy nắm tay Thủ-Độ, kéo Hầu ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh. Nàng ngắm người con chồng, mà nàng yêu thương như con đẻ, rồi hỏi :
- Các con đang làm gì đấy ?
Như-Lan nhanh miệng :
- Anh ấy đang kể chuyện Phù-Đổng Thiên-vương cho bọn con nghe.
- Hai con kiếm chỗ khác chơi, mẹ có chuyện muốn bàn với anh.
Thủ-Minh, Như-Lan vâng dạ rồi lui ra vườn chơi. Thúy-Thúy vuốt tóc Thủ-Độ :
- Mẹ thấy dường như hồi này con không được vui lòng. Con ạ! Bố yêu thương con thế nào, mẹ yêu thương con thế nào, thì con biết rồi đó. Mẹ thấy con không vui, mẹ lo lắng lắm. Vậy nguyên do nào khiến cho con buồn, rồi đi đến bơ phờ, mệt mỏi như vậy?
Thủ-Độ im lặng không trả lời.
Thấy Thủ-Huy định lên tiếng, Thúy-Thúy nháy mắt, ngụ ý bảo để cho em hỏi con. Nàng vuốt tóc Thủ-Độ lần nữa:
- Con hiện là một tướng trẻ nhất được chỉ huy binh đoàn. Bốn năm vạn người dưới quyền con. Nay mai, Thành-cát Tư-hãn mang quân đánh Kim, thì binh đoàn của con sẽ đi tiên phong. Như vậy thần chí của con phải cực kỳ sáng suốt. Nay con bơ phờ thế này...
Thủ-Độ đưa mắt nhìn cha, rồi Hầu lắc đầu, tỏ ý không muốn nói. Thấy thái độ của con, Thủ-Huy chợt nhớ lại chuyện cũ: Chỉ vì Công sợ mẹ quá, không dám thố lộ chuyện tình vơí Thụy-Hương, để rồi xẩy ra những biến động rung chuyển sơn hà. Công vỗ vai con:
- Này con ơi! Hồi ở trong nước, chắc con có nghe bác Trần Lý thuật lại phương pháp dạy con, dạy cháu của Cụ (ông cố) chứ? Khi Cụ dạy các cháu, cụ cho các cháu nói năng tự do. Vì vậy khoảng cách ông cháu không xa. Ông hiểu cháu. Cháu hiểu ông. Nay, tuy mẹ Thúy-Thúy đẻ cho bố một em trai, một em gái. Nhưng bố vẫn yêu thương con như xưa. Con có gì không vui, tại sao không nói với bố?
Thủ-Độ bừng tỉnh, Hầu ngồi ngay ngắn lại:
- Con có nhiều điều muốn bàn với bố, với mẹ. Nhưng... vấn đề quá lớn lao...
- Có phải chuyện con với Kim-Dung không?
- Thưa bố không!
Thủ-Huy chưng hửng:
- Thế thì???
- Chuyện con cầm quân Mông-cổ đánh Trung-nguyên.
- À! Bố cũng đang có những cái bất nhẫn về việc này. Nhưng bố chưa nói ra. Vậy con thử nói xem ý con có giống ý bố không?
Thủ-Độ đứng lên quan sát một lượt xung quanh nhà, khi biết chắc không có ai, Hầu mới nói:
- Thưa bố! Từ mấy nghìn năm nay, chiến tranh giữa các bộ tộc vùng Thảo-nguyên này vẫn diễn ra như sau: Hai bên xua toàn lực đánh nhau. Bên thắng bắt tất cả đàn ông bên bại làm nô lệ. Bắt gái đẹp về chia nhau làm tỳ thiếp. Bao nhiêu gia súc, tài vật cướp sạch, rồi đốt hết doanh trại. Sau đó rút đi. Đàn ông bên bại, may mắn trốn được, thì trở về quy tụ người lại, tiếp tục cuộc sống, chờ ngày trả thù.
Thủ-Huy hiểu ý con:
- Ý con nói, họ không có văn minh như tộc Hoa, tộc Việt. Đối với tộc Hoa, tộc Việt, sau khi chiến tranh, bên thắng cai trị bên bại có hơi hà khắc. Nhưng không có việc cướp phá, hãm hiếp ?
- Vâng ! Gần đây, nhờ bố giúp, Thành-cát Tư-hãn ra lệnh bỏ lối chiến tranh tàn khốc, duy trì an ninh các vùng mới chiếm được. Ông đã sát nhập các nước Nãi-man, Khắc-liệt, Ong-gút, Thát-đát vào lãnh thổ Mông-cổ, thành ra không có cảnh chém cho cùng, giết cho tuyệt... Còn như mấy lần đánh Tây-Hạ, quân mình tiến đến đâu, người thì giết tuyệt, của thì cướp hết, nhà cửa đốt sạch. Người ta nói : Vó ngựa Mông-cổ đi tới đâu, ngọn cỏ cũng không còn. Tàn ác qúa ! Dã man quá. Lần này Mông-cổ đánh Kim, như Tư-hãn nói trong buổi họp mật, chỉ vơí hai ý. Một là ra oai, cho người Hoa không còn tự hào cái mẽ con trời nữa. Hai là cướp phá thỏa thích. Có phải thế không?
- Đúng như con nghĩ. Chính bố cũng muốn Thành-cát Tư-hãn ra quân. Cuộc ra quân đối với bố là đánh đổ cái ông con trời trong chủ đạo của tộc Hoa, đập tan cái mặc cảm tự hạ mình là Di, Địch, Nhung, Man. Con thấy không? Khi bố với Thái-tử Long-Xưởng cầm quyền nghiêng nước, mà cũng không diệt được cái ý nghĩ hèn hạ, tự coi mình là Man, phải cúi đầu tuân phục bọn Tống. Nếu bây giờ Mông-cổ đánh được Kim, được Tống, cai trị Trung-nguyên, thì từ nay, mãi mãi cái ông trời con trong lòng tộc Hoa, cái hèn hạ nghĩ mình là man mọi của các sắc dân xung quanh sẽ hết.
- Con thì con không nghĩ xa như bố. Con chỉ thấy cái thảm thiết của dân Trung-quốc sắp phải chịu. Con nghĩ, cảnh chém giết, cướp bóc đối với dân lều trại, thì không thảm khốc cho lắm. Vì chỉ cần vài ngày sau, họ sẽ có lều trại mới. Còn Trung-nguyên, dân chúng sống định cư, lầu đài, dinh thự, của cải súc tích. Nếu như quân Mông-cổ tràn vào đốt phá, thì biết bao giờ họ mới tái dựng lại được? Người Trung-hoa sống trong nhà đã quen. Nếu bây giờ Mông-cổ bắt đàn ông theo làm nô lệ, đàn bà làm tỳ thiếp... làm sao họ sống nổi cảnh lều trại ? Con e chỉ trong vòng mười ngày họ sẽ chết hết. Về phụ nữ, thì phụ nữ Mông-cổ có chồng, bị quân thù bắt về làm tỳ thiếp, hãm hiếp... họ có thể thản nhiên sống với người đàn ông mới. Còn phụ nữ Trung-hoa, khi đàn bà bị hiếp, bị bắt làm tỳ thiếp, họ sẽ tự tử. Vì vậy con thấy mình giúp Mông-cổ là giúp kẻ tàn bạo. Cho nên con phân vân không ít.
Thủ-Huy nói sẽ:
- Ý nghĩ của con khác với bố. Vì con không ở vào hoàn cảnh của bố. Lúc đầu, bị đuổi khỏi Đại-Việt, lòng bố phẫn uất, mà đem hết tài năng giúp Mông-cổ, chỉ vơí ý định giúp họ lập quốc. Giúp họ thoát khỏi cảnh tương tàn. Giúp họ thoát ra khỏi vòng kiềm chế của Kim, của Tống. Không ngờ bây giờ họ mạnh quá, bố lại muốn mượn họ diệt ông trời con trong chủ đạo tộc Hoa. Vậy thì thế này: Ta giúp Mông-cổ thắng Kim, đạt mục đích về chủ đạo rồi thì thôi. Bố cầm quyền quân sư, con cầm quyền tiên phong, ta tìm cách khuyên Tư-hãn tránh cảnh cướp phá Trung-nguyên. Nếu được thì ta ở. Còn như họ không nghe, thì ta chẳng còn lý do gì mà không tìm cách rời khỏi nơi này.
Công nhìn vợ:
- Nhưng này Thúy-Thúy, Thủ-Độ! Ta phải kín lắm, bằng không thì chết không có đất mà chôn.
Dù sao Thúy-Thúy cũng là người Hoa, ở cạnh chồng, nàng biết Mông-cổ sắp tràn vào tàn sát quê hương, nàng lo lắng không cùng, song chưa dám nói ra. Bây giờ được dịp nàng phát biểu ý kiến :
- Chủ đạo của tộc Hoa, tộc Việt là sao cho dân Hoa, Việt yêu thương nhau. Thế nhưng, chúng ta bị những kẻ ác cố tình gây ra cảnh tương tàn Hoa-Việt. Những kẻ đó thực đáng kết tội, nhưng cũng còn tha thứ được. Đây, người Mông-cổ đánh Kim thì tại sao không tiến quân vào vùng tộc Nữ-chân, mà lại nhập Quan-nội, cướp phá, chém giết người Hoa ! Như vậy cuộc ra quân này, chỉ có mục đích ăn cướp mà thôi. Con nó luận đúng. Anh luận càng đúng hơn. Không biết với uy tín, tài trí của anh, có cản được lớp sóng cướp bóc trong tâm trí người Mông-cổ không ?
- Khó! Khó ! Nhưng anh sẽ cố gắng.
Thúy-Thúy hôn phớt lên tóc Thủ-Độ :
- Đối với mọi người thì mẹ Đoan-Nghi qua đời rồi. Nhưng đối với mẹ thì mẹ Đoan-Nghi vẫn còn sống trong con. Mẹ Đoan-Nghi để lại trong con cái lòng nhân từ, hiếm có trên thế gian.
Thấy chồng đăm chiêu suy nghĩ, Thúy-Thúy hỏi :
- Anh nghĩ gì vậy ?
- Anh muốn rời Mông-cổ ra đi. Nhưng đi đâu ? Với hoàn cảnh của anh, anh không thể về Đại-Việt được. Anh mà về thì lại phải đem tài trí ra giúp cái triều đình thối tha ư ? Phải ra luồn vào cúi với mấy con đàn bà ngu xuẩn ư ?
- Có một nơi anh rất thích, tại sao chúng ta không đến đó cư ngụ ?
- ! ? ! ! ?
- Vùng Tương-giang, hồ Động-đình. Đó chẳng là đất linh của tộc Việt ư ?
- Thế nhưng chúng ta về đó sống, liệu Tống có tha tội cho em không ? Họ có để em yên không ?
- Xưa khác, nay khác. Xưa Đại-Việt mạnh, Tống muốn chiếm Đại-Việt mà đưa em sang. Nay Đại-Việt quá hỗn loạn, Tống lại cũng quá yếu rồi...
- Em luận đúng !
Thế rồi hơn năm sau, Thành-cát Tư-hãn hội quân tại bờ sông Tây-bình (Kéroulène). Tất cả Lôi-kị, quân của các Đại-hãn đều tề tựu. Thành-cát Tư-hãn hiệu triệu quân sĩ :
« Từ mấy nghìn năm qua, người Hán tự nhận là con trời. Các dân xung quanh đều là man, mọi. Dân phương Nam bị gọi là Man. Dân phương Đông bị gọi là Di. Dân phương Tây bị gọi là Nhung. Dân phương Bắc chúng ta bị gọi là Địch, là rợ. Rồi chúng bắt các nước phải cúi đầu quy phục, nhận sắc phong, tiến cống. Riêng vùng Thảo-nguyên chúng ta, chúng gọi là Hung-nô. Biết bao lần chúng đem quân lên đánh giết. Xưa ! Các tiên đế nhà ta từng bị chúng bắt giết, từng bị chúng làm nhục.
Bây giờ, binh lực chúng ta hùng mạnh, chúng ta phải tiến quân xuống Nam, bắt cái bọn tự xưng là con trời phải quỳ gối, phải quy hàng. Tài vật, lương thực, gia súc, ta muốn thì đoạt lấy. Bản thân chúng, vợ con chúng, ta muốn chém thì chém, ta muốn giết thì giết... »
Tướng sĩ reo hò vang khắp núi rừng.
Nhưng lời hiệu triệu đó như mũi dao đâm vào tim Thủ-Huy, Thủ-Độ, Thúy-Thúy. Ba người nhìn nhau, không ai nói lên lời.
Thành-cát Tư-hãn định rõ kế hoạch :
" Đại quân vượt qua sa mạc Gobi thì chia làm hai cánh.
Cánh phương Đông với binh đoàn của Bác Nhĩ Truật, Tốc Bất Đài, Mộc Hoa Lê, Xích Lão Ôn, Gia Luật Mễ, Lý Long-Tùng, Biên Gô Đài, Cát Xa, Tê Mô Gu. Cánh này do Bác Nhĩ Truật chỉ huy, sẽ vượt qua Vạn-lý Trường-thành, rồi tiến thẳng xuống Yên-kinh.
Cánh phương Tây gồm binh đoàn của Triết Biệt, Bác Nhĩ Hốt, Dược Sơ Đài, Bác Khô La ; bốn vương tử Truật Xích, Oa Khoát Đài, Sát Hợp Đài, Đà Lôi, và phò mã Đô Gu Sa. Cánh này do chính Thành-cát Tư-hãn chỉ huy, vượt Vạn-lý Trường-thành, chiếm Sơn-tây rồi tiến về phía Yên-kinh bắt tay với cánh phương Đông, cùng đánh chiếm Yên-kinh.
Binh đoàn Phương Đông của Thủ-Độ lĩnh nhiệm vụ đi tiên phong".
Từ sông Tây-bình, chín binh đoàn Lôi-kỵ của Cửu đại sơn điêu, với chín binh đoàn thân binh của Cửu đại thiết lang rầm rộ lên đường.
Binh đoàn Phương Đông do Thủ-Độ chỉ huy đi tiên phong. Trước hết là Vạn-phu Tế-tác do A-lý Hải-nha chỉ huy. Vạn-phu này kiểm soát từng bụi cỏ, hốc đá, từng khóm cây, quyết không để cho một tên trinh sát địch phát hiện. Sau tơí Vạn-phu Lôi-tiễn, Vạn-phu Lôi-kỵ.
Đại binh rầm rộ tiến sau.
Trên 20 vạn quân vượt qua sa mạc Gobi, dần dần tới Vạn-lý trường thành, mà binh tướng biên phòng của Kim không biết gì. Khi quân vượt qua sa mạc, tất cả nghỉ ba ngày, cho người ngựa lấy lại sức rồi chia làm hai cánh lên đường.
Binh đoàn Phương Đông của Thủ-Độ còn cách Vạn-lý Trường-thành 50 dặm, thì đóng trong khu rừng. Vừa an dinh hạ trại xong, đã thấy mã khoái Phi-tiễn tới trao cho Thủ-Độ một lệnh hành quân, với ba nhiệm vụ:
" Nhiệm vụ thứ nhất.Thình lình xuất hiện, vượt Vạn-lý Trường-thành, tiến xuống Nam. Khi đến nửa đường đi Yên-kinh thì ngừng lại. Trên đường tiến quân, gặp bất cứ đạo binh nào, phải đánh bằng tất cả sức mạnh. Mục đích gây kinh hoàng cho dân chúng Yên-kinh.
Nhiệm vụ thứ nhì. Kim sẽ điều các đạo binh đóng ở Đông, Nam Yên-kinh lên cứu viện. Đánh một trận lớn, phá tan đạo tiên phong của Kim, rồi rút ra ngoài Vạn-lý Trường-thành chờ lệnh mới.
Nhiệm vụ thứ ba. Cho binh sĩ tự do đốt, phá, cướp. Mục đích làm làm Kim tưởng rằng cuộc tiến quân của ta chẳng qua cũng giống như bọn Ong-gút, Thát-đát trước đây, sau khi cướp phá lại trở lại Thảo-nguyên.
Sẽ có lệnh tiếp".
Thủ-Độ họp ba Vạn-phu trưởng lại, nghị kế. Sau khi đọc lệnh hành quân của Thành-cát Tư-hãn xong, Thủ-Độ nói:
- Nhiệm vụ của chúng ta là như thế đó. Vùng mục tiêu của chúng ta, kể từ phía Đông tơí Trương-gia khẩu dài trên một nghìn dặm. Tin tức của Khu-mật viện cho biết, ba cửa khẩu Trương-gia, Xích-thành, Hậu-thành là nơi dễ đánh nhất.
Hầu hỏi A-lý Hải-nha, Vạn-phu trưởng Tế-tác:
- Trước khi khởi binh, tôi đã yêu cầu Ngũ-đệ sai Tế-tác giả làm thương nhân nghiên cứu việc phòng thủ của Kim. Vậy Ngũ-đệ cho biết thêm chi tiết tình hình ba cửa khẩu này.
A-lý Hải-nha trình bầy:
- Kim không biết tý gì về những chuẩn bị của ta. Phía sau ba khu vực này có hai đạo quân, đóng làm ba nơi. Ban ngày thì cứ một giờ lại có toán tuần tiễu trên mặt thành. Còn ban đêm, thì chỉ có binh gác trên các đài ở cửa khẩu mà thôi, chứ không đi tuần. Trước mỗi cửa, có một bãi đất bằng phẳng rất rộng, có thể tập trung được hai ba vạn người. Phía trong cổng cũng thế. Ngay sau bãi đất phía trong, là con đường rộng rãi, có thể phi một lúc năm, sáu ngựa đi hàng ngang. Nếu tiếp tục đi về Nam, không còn quân phòng thủ. Mãi tới thị trấn Bôi-lai, nằm giữa đường đi Yên-kinh mới có quân đóng. Tóm lại ta chỉ cần vượt 200 dặm, thì tới Yên-kinh. Phía Đông Yên-kinh mới có 10 đạo quân đồn trú.
Thủ-Độ ban lệnh:
- Ngột-lương Hợp-thai phụ trách đánh cửa Trương-gia. Bạt-Đô phụ trách đánh cửa Xích-thành. A-lý Hải-nha phụ trách đánh cửa Hậu-thành. Ngay bây giờ ban lệnh cho binh sĩ, mỗi người phải lấy túi đựng quần áo của mình, chứa đầy đất. Đúng giờ Tý, phi ngựa như bay, thình lình xuất hiện. Khi đến cổng thành thì ném túi xuống. Khi đội cuối cùng ném túi xong thì dàn ra sẵn, hễ thấy quân trên thành nhô đầu lên thì bắn. Còn lại, thì mang đoản đao, bỏ ngựa, leo lên mặt thành, rồi đánh tỏa ra hai bên, mở cửa thành cho Lôi-kỵ tiến vào. Vào trong, lập tức tấn công, tiêu diệt các đội quân đóng ở đấy.
Bạt Đô hỏi :
- Sau khi vào trong quan ải rồi, thì chúng tôi làm gì ?
- Tiến xuống phía Nam, đánh chiếm các đồn, ải thành trì. Nhưng chỉ tiến tới Bôi-lai thì ngừng lại.
Đêm đó...
Các đoàn kỵ binh của Thủ-Độ chiếm các cửa khẩu Trương-gia, Xích-thành, Hậu-thành dễ dàng. Cả binh đoàn Phương Đông vượt Vạn-lý Trường-thành tiến vào đất Kim. Hai vạn quân trú phòng của Kim thấy quân Mông-cổ thình lình xuất hiện, như thiên tướng từ trời nhảy xuống, thì kinh hoàng; chưa kịp dàn trận đã bị đánh tan.
Chiếm xong ba cửa khẩu Vạn-lý Trường-thành, Thủ-Độ cho binh đoàn Phương Đông tiến xuống phía Nam. Hơn vạn kỵ binh sức mạnh như thác đổ, phi như gió. Quân trú phòng Bôi-lai vừa được tin báo Vạn-lý Trường-thành thất thủ, chưa kịp tập hợp, thì thị trấn đã bị tràn ngập.
Thủ-Độ cho quân ngừng lại.
Binh sĩ Mông-cổ là những kỵ mã vùng hoang sơ, họ chưa từng thấy thành thị nhà cửa san sát, người đông lúc nhúc như đất Trung-nguyên bao giờ. Khi vừa lọt vào trong Trường-thành, chiếm được vùng nào, là họ phóng hỏa đốt sạch nhà cửa, tàn phá các đền chùa, miếu mạo. Khi chiếm được một làng, một thành, họ bắt tất cả đàn ông làm nô lệ khuân vác những gì họ cướp được. Đàn bà thì họ lựa lấy những người trẻ đẹp, chia nhau hãm hiếp, hoặc làm tỳ thiếp. Còn lại họ giết tuyệt.
Cũng có những làng, những thị trấn, họ giết sạch không để sót một mạng, rồi đốt rụi. Của cải, gia súc họ cướp lấy mang đi. Khi họ qua vùng nào, họ tàn phá, chỉ còn lại những nền nhà, những bức tường cháy đen, xác người nằm ngổn ngang.
Tin này đưa về Yên-kinh vào giờ Tý. Kim chúa kinh hãi, vội thiết triều ngay trong đêm để đối phó vơí bọn Hung-nô, bọn rợ Thát-đát, phải giết chúng không còn một mạng, để tự hậu chúng không dám xâm phạm Trung-nguyên.
Triều đình cử quan Phụ-quốc Thái-úy Hồ Sa Hổ làm chánh tướng. Phiêu-kỵ thượng tướng quân Cao Chi làm phó tướng, ngay ngày hôm sau tức tốc lên đường.
Nhưng suốt đêm đó và ngày hôm sau, dân chúng kinh thành náo loạn mấy lần. Người người, nhà nhà bồng bế nhau chạy về quê. Cũng may, binh đoàn Phương Đông chưa tiến về Yên-kinh, mà đóng trại ở Bôi-lai nghỉ ngơi, cướp phá, hãm hiếp.
Dù có chỉ dụ khẩn cấp, nhưng mãi hai hôm sau, Hồ Sa Hổ mới điều 10 đạo binh đóng ở phía Đông Yên-kinh và ra lệnh cho Cao Chi dẫn 10 đạo binh đóng ở phía Nam Yên-kinh lên đường chinh tiễu Hung-nô.
Cả một vùng đất phía Bắc Yên-kinh rung động vì cuộc chuyển binh. Năm ngày sau, các đạo quân Kim tới
Bôi-lai, thì Thủ-Độ cho rút quân về địa phận Vạn-lý Trường-thành, rồi họp chư tướng ban lệnh:
- Bọn Kim trúng kế chúng ra rồi. Bây giờ chúng ta rút lui ra ngoài Vạn-lý Trường-thành để đe dọa Yên-kinh thường trực. Yên-kinh bị đe dọa, tất Hồ Sa Hổ dốc hết 20 đạo quân của chúng lên đây. Phía sau chúng, Yên-kinh bỏ trống. Cánh quân của Thành-cát Tư-hãn sẽ từ Sơn-Tây tiến xuống công hãm Yên-kinh dễ dàng. Tuy vậy đêm nay, chúng ta cần đánh một trận phủ đầu cho chúng biết mặt anh hùng Thảo-nguyên. Rồi ngày mai mới chính thức dàn trận khai chiến.
Hốt Tất Liệt góp ý:
- Tuy lệnh của phụ hoàng là như vậy. Nhưng khi tình thế biến đổi, nhị đệ có thể đánh tràn xuống Yên-kinh, thì nhị đệ cứ làm.
Thủ-Độ nghĩ thầm:
- Đại ca của ta thực là người mẫn tiệp. Sau này mà y lên ngôi, thay thế ông nội, thì Mông-cổ sẽ mạnh hơn nữa. Ta phải tìm cách thuyết phục y, chiếm lấy Trung-nguyên mà cai trị, hơn là cướp cho hết, giết cho tuyệt.
Các tướng thấy Hốt Tất Liệt với Thủ-Độ gắn bó với nhau như tay phải với tay trái, họ tin tưởng, cùng nhau im lặng nghe Thủ-Độ điều quân:
- Hồ Sa Hổ xuất thân là Hoạn-quan. Y có tài cầm quân. Võ công y rất cao. Biết y vốn thuộc giòng giống của Liêu trước đây, nhưng y là một tướng tài trí bậc nhất nên Kim chúa phải dùng y. Kim chúa trao toàn quyền cho y. Bây giờ xin Vạn-phu trưởng A-lý Hải-nha trình bầy tình hình Kim.
A-lý Hải-nha đứng lên:
- Quân số của Kim từ Yên-kinh tới Vạn-lý Trường-thành có 20 vạn. Nghĩa là đông gấp mười của ta. Mười đạo phía Đông do Hồ Sa Hổ chỉ huy đã tơí. Y cho đóng quân xung quanh Bôi-lai. Ý định chờ mười đạo binh của Cao Chi tới, rồi mới xuất trận. Trong mười đạo binh, y cho đóng làm năm khu mang tên khu đệ nhất, nhị, tam, tứ, ngũ...khác nhau. Khu đệ nhất gần ta nhất. Doanh trại rất chắc. Trang bị, lương thực đầy đủ.
Thủ-Độ mỉm cười:
- Binh pháp của Kim cũng như Tống là binh pháp Tôn-Ngô. Khi quân di chuyển từ xa mới tới, người ngựa mệt mỏi. Y sẽ đề phòng ta cướp trại. Phương pháp đề phòng đó như sau: Rút quân khỏi một số trại, nhưng đèn đuốc vẫn để nguyên. Dùng cung thủ mai phục chờ đợi. Khi ta cướp trại đánh tràn vào, thì cung thủ sẽ tiêu diệt.
Các tướng cùng bật cười:
- Đề phòng kiểu đó, thì ta nuốt chúng như rắn nuốt ếch!
- Biết vậy, nên ta cứ cướp trại, cho chúng thấy rằng binh pháp của Tôn-Ngô vô dụng với ta. Ta không cướp tất cả các trại, mà chỉ cướp trại gần ta nhất. Vậy: Vạn-phu Lôi-tiễn sẽ do Vạn-phu Tế-tác hộ tống, khi trời vừa tối, âm thầm di chuyển tới gần khu đệ nhất. Đúng giờ Tý mới khai hỏa. Sau khi trại Kim bốc cháy, thì Vạn-phu Tế-tác đánh vào. Chỉ đánh chớp nhoáng rồi rút lui. Còn Vạn-phu Lôi-kỵ sẽ ẩn tại ngoài Vạn-lý Trường-thành, nghỉ ngơi, để mai tham chiến.
Cút Đa Sen hỏi:
- Nếu như quân Kim từ khu đệ nhị, đệ tam... xuất trại cứu viện khu đệ nhất thì sao?
- Từ khu đệ nhị, đệ tam muốn tới khu đệ nhất, ít ra phải hai giờ. Trong khi đó, chỉ trong một giờ, Vạn-phu Tế-tác đã tràn ngập khu đệ nhất, và rút lui rồi.
Ra lệnh xong, Thủ-Độ cùng Vạn-phu Lôi-kỵ thủng thỉnh rút về Vạn-lý Trường-thành.
Khi đi, mỗi kỵ mã Mông-cổ chỉ một người một ngựa. Bây giờ trở về, mỗi chú lính có hàng chục nô lệ, vác những gì cướp được. Chỉ nguyên Vạn-phu Lôi-kỵ của Mông-cổ thôi, mà đã dẫn theo hàng chục vạn tù binh. Trên vai những người tù này đều gánh vác chiến lợi phẩm : Từ ngọc, ngà, châu báu cho tới những đồ mỹ nghệ. Tù binh cũng dắt theo đàn gia súc đếm không hết. Tuy phía hậu quân không xa làm bao, ở đó có vợ, con của binh tướng, nhưng mỗi chú lính Mông-cổ cũng bắt theo một hai phụ nữ Hán xinh đẹp, để giải trí. Binh sĩ phải chọn những phụ nữ trẻ đẹp nhất nộp cho các chúa tướng.
An dinh hạ trại trong, Thủ-Độ sai ngựa Phi-tiễn báo cáo cho bản doanh của Thành-cát Tư-hãn, Bác Nhĩ Truật biết diễn các trận đánh từ lúc vượt Vạn-lý Trường-thành.
Mọi việc xong xuôi, Thảo-nguyên ngũ điêu họp nhau trong một căn lều thống soái, cùng uống rượu theo dõi mặt trận. Một Bách-phu trưởng dẫn vào nộp cho Thủ-Độ gần trăm phụ nữ. Liếc nhìn qua, Hầu phải công nhận đó là những thiếu nữ nhan sắc hiếm có. Họ đều được tắm rửa, trang điểm sạch sẽ, để hầu hạ các chúa tướng. Bề ngoài họ tươi cười, nhưng họ không dấu được nét kinh hãi, đau khổ. Bọn Hốt Tất Liệt, mỗi người chọn lấy ba bốn mỹ nhân. Bạt-Đô chọn cho Thủ-Độ hai thiếu nữ đẹp nhất. Thủ-Độ cảm thấy trong miệng đăng đắng. Hầu nghĩ thầm :
- Những phụ nữ này, kẻ có chồng, người có tình quân. Thế mà, bỗng dưng phải làm đồ giải trí cho những người xa lạ. Thực đáng thương. Ta không thể nhắm mắt hưởng thụ trên cái đau khổ của kẻ khác. Chuyện trai gái chỉ có ý nghĩa, khi cả hai bên đều yêu nhau. Về tình yêu, ta chỉ có Kim-Dung. Ta không thể làm theo người Mông-cổ.
Bọn Hốt Tất Liệt vừa uống rượu, vừa ăn thịt. Tay mỗi người ôm một thiếu nữ chiến lợi phẩm vào lòng. Còn hai thiếu nữ của Thủ-Độ, Hầu liếc nhìn, một người mặc quần áo xanh, một người mặc quần áo hồng. Tuổi của hai khoảng mười lăm, mười sáu. Hầu hỏi nàng mặc áo xanh bằng tiếng Trung-quốc:
- Nàng tên gì? Bao nhiêu tuổi? Bố mẹ là ai?
Thiếu nữ áo xanh thấy da Thủ-Độ trắng, phong tư tuyệt vời, nói năng nhu nhã, nàng cho rằng Thủ-Độ là người Hán, làm tướng cho Mông-cổ:
- Tiểu tỳ họ Triệu tên Minh-Minh. Năm nay tiểu tỳ mười sáu tuổi. Cha tiểu tỳ là chức lại nhỏ của huyện. Khi đại binh tới, thì cha tiểu tỳ bị bắt làm nô lệ. Mẹ tiểu tỳ bị hiếp, người không chịu nhục, đã cắn lưỡi chết. Còn tiểu tỳ...bị đưa vào đây.
Thủ-Độ cảm thấy như có con dao đâm vào ngực mình. Hầu nói với Minh-Minh :
- Nàng yên tâm ở bên cạnh ta. Ta hứa giữ cho nàng được tuyết sạch giá trong. Rồi sau này có dịp ta sẽ thả nàng về với gia đình.
Hầu hỏi người con gái áo hồng :
- Còn nàng ?
- Tiểu tỳ họ Chu, tên Diệu Diệu năm nay 17 tuổi. Cha tiểu tỳ là một thầy đồ trong trấn. Khi quân...quân Hung nô tới, chúng đốt trường, giết cha tiểu tỳ. Họ đốt nhà tiểu tỳ rồi quẳng mẹ tiểu tỳ với các em vào nướng thành than. Riêng tiểu tỳ thì bị bắt vào đây.
Thủ Độ nghiến răng, rùng mình :
- Thôi, nàng với Minh Minh cứ yên tâm sống bên nhau. Ta sẽ chu toàn cho nàng như Minh Minh.
Ngột-lương Hợp-thai hỏi Thủ-Độ:
- Nhị ca! Nếu như ngày mai, xuất trận, đánh tan 10 đạo quân của Hồ Sa Hổ, ta có nên thừa thắng tràn về chiếm Yên-kinh không?
- Không! Không nên!
Thủ-Độ khẳng định:
- Muôn ngàn lần không. Hồ Sa Hổ có tới 20 vạn quân. Nếu ta dùng hết sức, thì binh đoàn Phương Đông của ta thắng y không khó. Nhưng ta phải chấp nhận hy sinh nhiều. Bấy giờ ta không đủ sức tiến vào Yên-kinh nữa.
Hốt Tất Liệt rất tinh tế. Y thấy từ lúc ra quân, thế như chẻ tre, thành công rực rỡ, mà mặt Thủ-Độ vẫn phảng phất nét buồn. Y nắm tay Hầu :
- Nhị đệ ! Chúng ta tuy không cùng cha mẹ sinh ra. Nhưng sống chết bên nhau. Nếu nhị đệ có gì không vui, thì cứ nói ra. Chúng ta sẽ giúp nhị đệ.
Thủ-Độ thở dài :
- Đại ca ơi ! Chuyện làm đệ nẫu ruột, nói ra đại ca sẽ bật cười... Đó là chuyện tình, chuyện Kim-Dung ấy mà.
Hốt Tất Liệt cười ha hả :
- Hỡi ơi ! Nhị đệ của ta là người tài trí số một trong các thiếu niên, mà sao lại đắm chìm trong bể tình như vậy ? Này nhị đệ, trong các thiếu nữ con của thân vương, đại thần không thiếu gì người xinh đẹp. Nhị đệ muốn, mai này về Hoa-lâm ta có thể cưới cho nhị đệ vài ba chục cô. Còn như nhị đệ cần người hầu hạ, thì ngay bên cạnh nhị đệ đã có hai giai nhân sẵn sàng dâng hiến. Nếu hai cô này, nhị đệ không thích thì phía sau Trường-thành, con gái người Hán, đẹp như hoa nở, có hàng nghìn, hàng vạn. Nhị đệ thích, thì ta sai quân bắt về cho nhị đệ ít trăm đứa. Việc gì nhị đệ phải âu sầu vì cái cô chị họ Kim-Dung kia ?
Bạt Đô cũng xen vào :
- Nam nhi Mông-cổ chúng ta, ăn ngủ trên mình ngựa. Lấy xung sát vào hàng ngũ địch làm thú tiêu khiển. Sau buổi xung sát, trở về doanh trướng, chúng ta có thể dùng hàng trăm con gái đẹp hầu hạ. Sao nhị ca không làm thế, mà lại ủy mị như trời mùa Đông vậy ?
Thủ-Độ nghĩ thầm :
- Thảm thương thay cho bốn người anh em kết nghĩa của ta. Họ không biết hoa tình yêu là gì cả. Ta có nói họ cũng không hiểu được nào.
Giữa lúc đó có một tiếng nổ rung động không gian. Tiếp theo hàng trăm tiếng nổ khác. Thảo-nguyên ngũ điêu buông gái, buông chung rượu ra ngoài lều, hướng mắt nhìn về phía Nam. Những trái cầu lửa nổ tung trên không gian đang chụp xuống dinh trại Kim. Rồi tiếng ngựa hí, tiếng quân reo vọng lại như hàng vạn lớp sóng thủy triều.
Hốt Tất Liệt cười sảng khoái :
- Nhị đệ ! Chúng ta thành công rồi.
Nửa giờ sau, một mã khoái Phi-tiễn về báo tin :
« Lôi-tiễn nã ba loạt vào doanh đệ nhất của Kim. Toàn doanh biến thành một biển lửa. Quân ta xung phong vào tới hàng rào, bắn ba loạt tên rồi rút ra ».
Hốt Tất Liệt gật gù :
- Bọn chó Kim phen này hết tự cao là con trời. Bốn hiền đệ, chúng ta uống rượu mừng chiến thắng.
Tiệc rượu lại tiếp tục.
Hơn nửa giờ sau, mã khoái Phi-tiễn lại phi ngựa về báo :
« Sau khi nã bốn loạt Lôi-tiễn, toàn đệ nhất doanh bốc cháy. Vạn-phu Tế-tác xung vào trại Kim. Không đầy nửa giờ, đã giết hết địch. Hiện đang rút về hướng Trường-thành ».
Sáng hôm sau, Thủ-Độ lại cho quân vượt Vạn-lý Trường-thành, rồi án binh tại các cửa Trương-gia, Xích-thành, Hậu-thành chờ đợi quân Kim. Đến giờ Ngọ, thân binh dẫn một quân Kim vào yết kiến. Đó là tên quân do Hồ Sa Hổ sai mang chiến thư. Thư vỏn vẹn có mấy chữ :
« Phụ-quốc thái-úy, Tả kim ngô thượng tướng quân, lĩnh Bình Bắc đại nguyên soái triều Đại Kim là Hồ Sa Hổ.
Gửi cho tướng Hung-nô là Trần Thủ-Độ.
Chúa bây là Thiết Mộc Chân đã được Thiên-triều đoái thương phong cho chức Bắc-cường chiêu thảo sứ. Tại sao chúng bay không an phận tôi con, mà dám đem quân phạm cảnh? Nay ta mang quân nghiêng nước đi tiễu trừ. Quân đã dàn trận. Bọn bay có là con người thì hãy cùng ta quyết chiến ».
Thủ-Độ chưa biết phải trả lời ra sao, thì A-lý Hải-nha nói nhỏ vào tai Hốt Tất Liệt. Hốt Tất Liệt bật cười. Y cầm bút vẽ lên bức thư của Hồ Sa Hổ một tên quân Mông-cổ đang tật cò đái. Lại sai quân gọt tóc tên lính đưa thư rồi cho về.
Hốt Tất Liệt hỏi Thủ-Độ :
- Nhị đệ có hiểu ý ta không ?
- Chiến pháp của Thành-cát Tư-hãn là : Bao giờ ta cũng chọn lựa chiến trường, rồi nhử cho địch phải chấp nhận giao tranh. Như thế ta đã được hưởng cái thế địa lợi. Nay Hồ Sa Hổ sai gửi chiến thư. Y định dụ ta tới địa thế có lợi cho y. Đại ca chọc tức y để y phải đem quân đến đánh ta tại địa thế do ta chọn lựa.
- Đúng thế. Nhị đệ dàn trận đi thôi.
Thủ-Huy ra lệnh:
- Chúng ta chọn Trương-gia khẩu làm bãi chiến trường. Phía trong Trương-gia khẩu bốn mươi dặm, có cánh đồng Thảo-ty, địa thế bằng phẳng. Tam đệ Ngột-lương Hợp-thai mang năm Thiên-phu Lôi-kỵ dàn trận tại đây. Hồ Sa Hổ không thấy ta tiến binh, ắt y đem quân đến tấn công. Bấy giờ, tùy tình hình địch, ta sẽ có lệnh sau.
Hầu gọi Bạt Đô:
- Tứ đệ mang năm Thiên-phu Lôi-kỵ phục ở phía trái Trương-gia khẩu. Phải làm như thế...như thế...
Hầu gọi A-lý Hải-nha, Ngột Lạt Su :
- Hai hiền đệ đem bản bộ quân mã đóng ở phía phải Trương-gia khẩu. Phải làm như thế...như thế...
Quả như Thủ-Độ ước tính. Hồ Sa Hổ không nén nổi cơn giận, y bỏ trận thế, tiến lên tái chiếm Vạn-lý Trường-thành. Y đem năm đạo binh dàn thành thế trận tại cánh đồng Thảo-ty, đối diện với trận của Ngột-lương Hợp-thai.
Thủ-Độ, Hốt Tất Liệt đứng trên một ngọn đồi quan sát trận Kim. Hốt Tất Liệt chưa từng học binh pháp Tôn-Ngô.
Y hỏi Thủ-Độ :
- Nhị đệ ! Nhị đệ thấy trận thế của Kim ra sao ?
- Hồ Sa Hổ là một tướng lỗi lạc. Ta không nên coi thường y. Y bầy trận thế kia, nếu là quân Tây-hạ, Liêu, Việt thì không thể nào phá nổi. Y nhử cho đối thủ xung sát mệt mỏi, rồi mở cửa trận tung quân ra truy kích, sẽ nắm chắc phần thắng trong tay. Còn đối với ta thì vô dụng. Tuy lệnh trên băét ta phải rút chạy. Nhưng ta cần đánh một trận để hút hết quân của y lên Vạn-lý Trường-thành, hầu Yên-kinh không còn quân nữa.
Thủ-Độ nói với Hốt Tất Liệt :
- Đại-ca ! Chúng ta cùng xuống đối trận với Hồ Sa Hổ. Y thấy chúng ta còn trẻ, ắt khinh thường. Như vậy ta mới dễ thắng y.
Hai người dùng ngựa, thủng thỉnh đổ đồi. Ba tiếng pháo nổ, trận Kim mở rộng. Một đội giáp sĩ gươm giáo sáng choang tiến ra, dàn thành hình Bát-quái. Dẫn đầu là một võ sĩ cầm cây cờ lớn có chữ :
« Phụ quốc Thái-úy, Tả Kim-ngô thượng tướng quân Hồ ».