Sau khi lễ lăng xong, Mỹ-Vân nói lớn: - Bây giờ chúng ta hãy quỳ gối trước cột đá thề, để làm lễ quốc thệ. Thủ-Độ hô: - Tất cả quỳ xuống. Mọi người xuống gối. - Lễ tám lễ. Mọi người cùng lễ. Thủ-Độ khấn: Bọn chúng con gồm 21 người. Nam có, nữ có. Chúng con từ bốn phương tụ lại. Nay vận nước đang suy vi. Trong triều vua thì hôn ám, quan lại thì nhũng lạm tham ô. Dân chúng đói không cơm ăn, rét không áo mặc, người người gối lên nhau mà chết. Hôm nay, chúng con cùng nguyện trước anh linh Quốc-tổ, Quốc-mẫu: - Một là, chúng con nguyện hy sinh cho sự nghiệp bốn nghìn năm của Quốc-tổ, đem hết tâm huyết ra bảo vệ giang sơn của Quốc-tổ, Quốc-mẫu để lại. Hai là, sống chết với công nghiệp của các vị anh hùng đã dầy công xây dựng. Ba là, xả thân cho kẻ cùng khổ, quyết quét sạch bọn vua chúa, quan lại như chồn, như cáo ngồi trên đầu dân, làm cho dân lầm than. Bốn là, chúng con làm việc gì, cũng luôn nghĩ rằng do dân, vì dân, cho dân, thương yêu dân như ruột thịt. Bất cứ ai trong chúng con trái lời thề, thì sẽ chết dưới muôn ngàn đao kiếm. Thủ-Độ hô lớn: - Đứng dậy! Chúng ta vừa thề trước Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Bây giờ ta phân chia lãnh thổ cho các em. Mỗi em về vùng trấn nhậm của mình, quy tụ bọn thiếu niên cùng khổ, vô sở bất chí lại. Trước hết giúp cho chúng thoát khỏi cơn đói. Rồi tùy theo phương tiện, dạy văn, luyện võ cho chúng. Tất cả mô phỏng theo phương cách ta đã làm ở Thăng-long. Trước hết ta là Đại-hãn, Trần-thị Kim-Dung là phó Đại-hãn. Phan Mỹ-Vân là Khả-hãn trung ương. Thăng-long do Khả-hãn Nhất-Anh. Kinh-Bắc do Khã-hãn Nhất-Hào. Hồng-châu do Khã-hãn Nhị-Anh. Đăng-châu đo Khả-hãn Nhị-Hào... Thủ-Độ nói nhỏ: - Ngay khi về Thăng-long, ta sẽ trao vàng, bạc cho các em, các em dùng vàng đó vào việc này. Chợt nhớ ra một việc : - Bốn tháng trước Cửu-hào đã trúng tuyển trong kỳ thi võ sơ tuyển của các trấn. Sau lại trúng tuyển kỳ thi tại Binh-bộ rồi phải không ? Vậy các em nhớ đến tháng tám phải về Thăng-long thi đình. Nếu như cả chín em cùng trúng tuyển Tiến-sĩ, sẽ được huấn luyện một thời gian, rồi bổ vào các chức võ quan. Như vậy, sau này chúng ta khởi sự thì đã có 9 đội quân trong tay. Ông từ đã làm cỗ xong. Ông nói: - Mời các vị thụ lộc đức vua. Bọn trẻ cùng ngồi vào chiếu, tay cầm đũa: - Nào chúng ta...ăn. Ăn uống xong cả bọn từ biệt ban thủ từ, lên xe ra về. Khi đi vì có lễ vật, nên mỗi xe phải chở đến năm người. Bây giờ lễ vật không còn, Mỹ-Vân đi chiếc xe dẫn đầu. Còn Thủ-Độ vơí Kim-Dung đi chiếc xe cuối cùng. Xe vừa ra khỏi khu vực đền thì có hai chiếc xe đang đi ngược chiều. Đường hẹp, nên tất cả xe đều phải chạy chậm lại. Khi hai đoàn xe giao nhau, Thủ-Độ nhận ra trên chiếc xe đi đầu có ba người, thì một người là gã Đinh Hồng. Nó hô: - Kẻ thù trước mặt. Cúi đầu xuống. Nhưng đã trễ, hai đoàn xe đang giao nhau. Đinh Hồng cũng đã nhận diện được bọn Thủ-Độ. Y hơi bỡ ngỡ, chưa kịp phản ứng thì hai đoàn xe đã xa nhau hơn mười trượng. Thủ-Độ thúc phu xe: - Chạy mau. Bọn phu xe ra roi cho ngựa phi nước đại. Kim-Dung quay đầu nhìn lại sau, nàng la lên: - Bọn chúng đang trở đầu xe. Hai đoàn xe, một chạy, một đuổi rầm rập trên đường. Nhưng đoàn xe của Thủ-Độ là xe chở thuê, ngựa gầy yếu, chạy không mau. Trong khi ngựa của bọn Đinh Hồng là ngựa chiến, chạy như bay. Không đầy một khắc y đã đuổi gần kịp Thủ-Độ. Kim-Dung hô: - Đại ca! Dùng tên bắn ngựa của chúng. Thủ-Độ chợt nhớ ra, nó lắp tên, dương cung. Mũi tên xé gió bay đi. Trúng giữa trán con ngựa của chiếc xe dẫn đầu. Con ngựa đau quá ngã vật xuống, làm chiếc xe lộn đi một vòng. Ba gã họ Đinh tung mình lên cao, rồi dùng khinh công đuổi theo. Cả ba cùng nắm lấy thành xe Thủ-Độ ghì chặt. Con ngựa bị sức nặng kéo mạnh, nó hí lên một tiếng rồi đứng lại. Kim-Dung, Thủ-Độ tung mình lên cao, đáp xuống bên đường. Mỹ-Vân cùng bọn Khả-hãn đã đứng sau Kim-Dung, Thủ-Độ. Phía Đinh Hồng, ba người đi trên chiếc xe thứ nhì trang phục thị vệ cũng đã xuống xe. Gã Đinh Hồng cười gằn: - Phen này mi có chạy đằng trời. Kim-Dung tỏ ra bình tĩnh: - Kính chào Đinh tam tiên sinh. Thế nào? Tiên sinh vẫn mạnh chứ? Nàng chỉ vào gã quần áo đen: - Vị này chắc đại danh là Đinh Huyền tiên sinh, nức danh thần kiếm vùng Giang-Nam đây. Đinh Huyền thấy một cô bé xinh đẹp mà cũng biết danh mình, y hài lòng: - Đúng vậy. Kim-Dung chỉ gã áo xanh: - Còn vị này, chắc là Đinh Thanh, danh trấn Hoa-Nam, được tặng danh hiệu Trường-giang thần quyền hẳn ? Đinh Hồng nóng nảy: - Hôm nay thì ông nội mi sẽ bóp chết bọn mi. Nói dứt y ra chiêu hổ trảo chụp Thủ-Độ; Thủ-Độ trầm người tránh khỏi, tay nó phát một chiêu trong Hoa-sơn đỡ. Bộp một tiếng, Thủ-Độ cảm thấy cánh tay đau buốt tới xương. Chụp hụt, Đinh Hồng phát một chiêu chưởng, chưởng chưa ra hết, mà bọn Khả-hãn đã cảm thấy ngộp thở. Thủ-Độ lại phát một chiêu Hoa-sơn chưởng mà nó học lén của Thụy-Hương... chống lại. Hai chưởng đụng nhau, binh một tiếng. Thủ-Độ bật lui liền ba bước mới đứng vững. Đứng ngoài lược trận, Đinh Huyền ủa một tiếng, tỏ vẻ kinh ngạc. Y quát lớn: - Ngừng tay ! Y hỏi Thủ-Độ: - Người là đệ tử của cao nhân nào trong phái Hoa-sơn? Vốn đã biết, giữa sứ đoàn với Thụy-Hương có sự xung đột. Vì Thụy-Hương thì muốn bảo vệ ngôi vua cho con. Trong khi sứ đoàn nhận hối lộ của họ Đàm, muốn đưa họ Đàm lên làm vua Đại-Việt. Thủ-Độ đổ dầu vào đám cháy này: - Tôi là đệ tử của Công-chúa tiên tử Vương Thụy-Hương. Đinh Hồng bật lên tiếng kêu đầy kinh ngạc: - À thì ra thế. Rồi y phát chiêu tấn công Thủ-Độ bằng tất cả bình sinh công lực. Thủ-Độ có cơ may luyện được nội công âm nhu, rồi tổng hợp âm dương, nội công nó rất cao. Nhưng về ngoại công nó chỉ có bộ Đông-a chưởng nhập môn, với bộ Hoa-sơn chưởng mà nó học trộm của Thụy-Hương. Bây giờ nó phải đối chọi với một đại cao thủ đầy kinh nghiệm, thành ra nó chỉ biết chống đỡ. Đấu được hơn ba chục chiêu, nó đã có chút kinh nghiệm, trong năm chiêu, nó bắt đầu phản công được một chiêu. Quay lại, nó thấy Kim-Dung, Mỹ-Vân cùng bọn Khả-hãn đã bị Đinh Huyền, Đinh Thanh đánh ngã, điểm huyệt để ngồi bên đường. Trong lúc phân tâm, nó bị trúng một chưởng, ngã lăn lông lốc. Đinh Hồng điểm huyệt nó. Đinh Huyền bảo ba tên thị vệ: - Đây là bọn trộm bảo vật của sứ đoàn. Các người hãy trói chúng lại, rồi giải về Thăng-long cho ta. Một viên thị vệ ngửa hai tay lên trời tỏ ý chúng không có dây. Đinh Hồng xuất một nén bạc, ra lệnh: - Phía sau kia vài dặm có chợ. Người đến đó mua dây cho ta. Ba viên thị vệ lên xe đi liền. Đinh Hồng ướm tay lên đầu Thủ-Độ rồi hỏi: - Lỏi con, nếu ta nhả nội lực, thì cái gì sẽ xẩy ra mi có biết không? - Biết chứ! Cái đầu ta sẽ vỡ ra, dĩ nhiên ta chết. - Vậy mi phải trả lời cho ta mấy câu hỏi. - !?!?!? - Mi tên gì? - Tôi họ Đàm, tên Độ, cháu của Đàm hậu. - Nam-thiên tiên tử vốn là người Tống. Chúng ta là sứ thần Tống. Hà cớ bà lại sai bọn mi bắt ta, tra khảo để biết tin tức? - Sư phụ bảo : Người hiện là Thái-hậu, nhà vua là con của người. Thế mà sứ đoàn lại nhận vàng của họ Đàm để tâu lên Tống Thiên-tử cho Đàm Thì-Phụng làm vua. Nên người sai chúng tôi bắt tiên sinh, điều tra sự thực. - Cái vụ tên Đoàn Thượng trộm vàng ngọc ở cung Triều-dương, mi có biết không? - Có, Đoàn chỉ là Thiên-lôi mà thôi. Y làm theo lệnh của Thái-úy Đàm Thì-Phụng, chứ đạo cô không biết gì ! - Vô lý, Đàm đang nhờ cậy chúng ta, tại sao Đàm lại phản chúng ta ! Thủ-Độ làm bộ cười rộ : - Đàm dốc túi dâng cho sứ đoàn. Nhưng y tiếc của... - Như thế thì cái vụ con quỷ ba đầu hoành hành bấy lâu ở Thăng-long là người của Đàm à ? - Điều này, những người thân phận nhỏ bé như tôi không được biết. Thấy đã lâu, mà ba tên thị vệ chưa về, Đinh Huyền sốt ruột nói với Đinh Thanh: - Sao chúng đi lâu thế. Nhị đệ thử tìm chúng xem ? Đinh Thanh lấy xe ngựa ra đi. Đinh Hồng hỏi Thủ-Độ về nội tình cung Ngọc-lan, nội tình Gia-thụy ngũ-anh, Lĩnh-Nam ngũ hổ. Nó cứ thực tình kể hết. Thời gian qua khoảng hơn khắc, vẫn chưa thấy Đinh Thanh về. Đinh Huyền sốt ruột: - Không lẽ có biến cố gì? Để ta đi xem. Y lấy chiếc xe của bọn Thủ-Độ, ra lệnh cho phu xe lên đường. Đinh Hồng chờ hơn hai khắc cũng không thấy hai sư huynh với bọn thị vệ trở về, lòng y rối như tơ vò, đứng ngồi không yên. Y phóng mắt nhìn về cuối đường, có một chiếc xe ngựa đang bon bon chạy tới. Người đánh xe là một thiếu niên phong lưu tiêu sái. Phía sau là một thiếu phụ và một thiếu niên khác. Thiếu phụ có nhan sắc cực kỳ diễm lệ, nhưng đôi mắt phát ra tia hàn quang oai nghiêm. Còn thiếu niên thì dáng người bệ vệ, mắt hổ, đầu rồng, toàn người tỏa ra nét quyền quý. Mới nhìn thấy xe, Thủ-Độ đã nhận ra thiếu phụ là thân mẫu của Kim-Dung. Còn hai thiếu niên, thì người đánh xe là Trần Tự-Khánh, người ngồi sau là Trần Thừa...anh con bác của nó, mà nó đã gặp ở quán Bích-động mấy năm trước. Chiếc xe tới chỗ bọn Thủ-Độ thì ngừng lại. Tự-Khánh tung mình xuống ngựa chỉ bọn Thủ-Độ hỏi Đinh Hồng: - Phải chăng người điểm huyệt đám thiếu niên này? - Đúng vậy! Ta có việc của ta, người có việc của người. Người không nên can thiệp vào việc của ta mà mang họa. Tự-Khánh không nói, không rằng, roi ngựa vung lên nhanh không thể tưởng tượng nổi. Bọn Thủ-Độ đã được giải huyệt. Đinh Hồng quát lên một tiếng phát chưởng tấn công Tự-Khánh. Tự-Khánh cười nhạt tung roi lên không, rồi phát chiêu đỡ. Bùng một tiếng, Đinh Hồng cảm thấy trời long đất lở, tai y phát ra tiếng vo vo không ngừng. Y phải bật lui ba bước mới giữ được thăng bằng. Tự-Khánh chĩa ngón tay phóng đến véo một tiếng. Đinh Hồng đã bị điểm huyệt. Tự-Khánh coi như không có Đinh Hồng, chàng cầm roi chỉ vào mặt Kim-Dung: - Con bé này! Dám bỏ Thăng-long lên đây, làm các anh phải tìm khắp nơi! Kim-Dung chù mỏ ra : - Ai bảo anh Thừa mắng em chi ! - Hứ ! Con lỏi tì này thì cái gì cũng có lý. Nói rồi chàng vung roi ngựa. Chiếc roi quấn lấy Kim-Dung. Tự-Khánh chuyển động tay một cái, Kim-Dung bay lên trên không, rồi rơi xuống ghế sau chiếc xe, giống như nàng tự ngồi xuống vậy. Thủ-Độ tiến tới trước thiếu phụ cung tay: - Tiểu bối xin tham kiến phu nhân. Đa tạ phu nhân đã cứu mệnh cháu năm trước. Thiếu phụ mỉm cười: - Ta còn chưa cảm ơn cháu đã xây bến đò cho nhà ta đấy. Những việc làm của cháu, ta theo dõi rất kỹ. Ta không ngờ họ Đàm toàn những người không ra gì, mà lại sinh ra một thiếu niên chí khí bao la như cháu. Hà! Bang Lĩnh-Nam của cháu lớn quá rồi, lại có kỷ cương, người người hành động trong chủ đạo tộc Việt: Vì hy sinh cho sự nghiệp bốn nghìn năm của Quốc-tổ. Sống chết vơí công lao của anh hùng đã xây dựng đất nước. Xả thân cho kẻ cùng khổ. Thương yêu dân chúng như chân tay. Hay thực! Bà chỉ Tự-Thừa, Tự-Khánh: - Ta thấy việc làm của cháu như mở ra một con đường mới cho chủ đạo của tộc Việt. Vì vậy, ta nhắn với anh chị Phòng-Phong rằng ta sẽ gửi Tự-Thừa, Tự-Khánh về giúp cháu. Nghe thiếu phụ nói, Thủ-Độ trấn động tâm tư. Nó than thầm: - Ái dà! Bà này là Tô Phương-Lan, vợ của bác Lý ta đây. Như thế thì Kim-Dung là chị con ông bác của ta. Thực hỏng bét. Mỹ-Vân đã đến trước thiếu phụ hành lễ: - Đệ tử tham kiến sư bá. Thiếu phụ nắm tay Mỹ-Vân: - Cháu được Đàm Độ cứu thoát, ẩn thân ở Tây-hồ thủy-xá. Ta biết hết, ngầm báo cho bố cháu. Tuy vậy bố cháu cũng cứ bắt vạ Đàm hoàng hậu, cho đến nay cũng chưa thôi. Bà bảo Thủ-Độ: - Thôi chúng ta về Thăng-long. Bà hất hàm ra lệnh cho Tự-Khánh. Tự-Khánh lấy dây trói hai chân Đinh Hồng, rồi treo ngược lên một cành cây. Tự-Thừa bảo Thủ-Độ với Mỹ-Vân: - Đàm huynh, Phan sư muội đi cùng xe với chúng ta cho vui. Đoàn xe lên đường trở về Thăng-long. Dọc đường bàTrần Lý vuốt tóc Thủ-Độ: - Anh chị Phòng-Phong, cũng như anh chị Tô Trung-Từ đều nói rằng cha mẹ cháu là người của phái Đông-a. Nhưng vì một lẽ khổ tâm riêng cháu không muốn nêu tên bố mẹ cháu ra. Ta cũng không muốn cật vấn cháu làm gì. Ví dù bố mẹ cháu không phải là người phái Đông-a, thì với những việc cháu đã làm, chúng ta cũng coi cháu như đệ tử bản phái. Thấy bà Trần Lý dịu dàng, tình cảm chân thật, Thủ-Độ định thú thực thân phận. Nhưng nó chợt nhận ra rằng nếu nó thú nhận, thì việc nó với Kim-Dung sẽ tan ra mây khói, nên nó lại thôi. Xe đi được một quãng, Thủ-Độ thấy dân chúng tụ tập bên đường rất đông đang xem năm người bị treo lủng lẳng trên một cành cây. Đó là ba tên thị vệ, Đinh Huyền, Đinh Thanh. Bất giác Thủ-Độ đưa mắt nhìn Tự-Khánh. Tự-Khánh cười gật đầu. - Người bán thịt chó, thì treo ngược chó thui. Còn ta, ta treo ngược bọn chó Ngô cho thiên hạ xem. Tự-Thừa đưa con mắt hiền từ nhìn Thủ-Độ: - Độ này, Độ đã so tuổi kết anh em với Kim-Dung. Độ lại nhỏ tuổi hơn ta với Khánh. Chúng ta là người cùng môn phái, vậy thì Độ với ta có cái tình anh em thực sự. Từ nay chúng ta đối xử với nhau như tình ruột thịt. Thủ-Độ cảm động rưng rưng nước mắt: - Lúc nào em cũng là em của hai anh. Thủ-Độ thấy bề ngoài thì Tự-Thừa uy nghi, ai nhìn cũng phải sợ. Thế nhưng nó thấy người anh họ này lại đầy tình cảm, nói năng cực nhu nhã. - Em mồ côi mẹ từ nhỏ, lại xa cha, nên trong khi hành xử có rất nhiều khiếm khuyết, mong hai anh dạy dỗ cho. - Ông bà, bố mẹ theo dõi những việc em làm, các người thấy em hành xử rất giống một người trong nhà ta...Nay người đó ở ngàn trùng cách biệt! - Thưa anh, người đó là ai vậy? - Là chú ruột của anh, tên Thủ-Huy. Thủ-Độ giật bắn người lên: - À! Hai giọt nước mắt rơi lăn tăn trên gò má bà Trần Lý. Kim-Dung càu nhàu: - Cái anh Thừa này! Anh nhắc đến chú hai, làm mẹ buồn. Bắt đền anh đấy. Bà Trần Lý lau nước mắt: - Nghĩ cũng lạ, mẹ lớn hơn chú hai có mấy tuổi, mà không hiểu sao, mẹ có cảm tưởng như mẹ là mẹ của chú ấy vậy. Hồi chú ấy làm quan cao thực phẩm, vậy mà mẹ mắng gì chú ấy cũng không cãi. Cho nên bà nội nói rằng mẹ không phải là chị dâu, mà là mẹ của chú ấy. Hà! Không biết bao giờ chị em gặp nhau. Bà nói với Thủ-Độ: - Bác về Thăng-long cùng Thừa, Khánh, Dung chỉ với mục đích điều tra một việc tối quan trọng. Việc này phi cháu, không ai giúp bác được cả. - Thưa bác việc gì ạ? - Chú Thủ-Huy sai người về nhờ hai bác điều tra một việc: Nguyên vợ chú ấy là công chúa Đoan-Nghi với đứa con trai tên Thủ-Độ, tuân chỉ nhà vua triệu hồi, nên bỏ Mông-cổ về Đại-Việt đã 7 năm. Cho đến nay cũng không có tin tức gì. Chúng ta đã hỏi hai vương Kiến-khang, Kiến-bình thì được trả lời rằng triều đình không biết công chúa với chú hai ở đâu, thì sao có việc triệu hồi ? Ông nội đã sai cậu mợ Trung-Từ Bảo-Bảo điều tra hơn năm qua mà không ra manh mối. Hai người may mắn gặp cháu, được cháu tiết lộ cho biết mưu đồ của Tống trong việc dùng Thụy-Hương diệt các võ phái. Hiện cháu sống ở trong Hoàng-thành, may ra cháu giúp chúng ta tìm ra manh mối vụ án công chúa Đoan-Nghi. Thủ-Độ đưa mắt nhìn bà Trần Lý, nó nghĩ thầm: - Hôm trước Kim-Dung muốn ta đưa vào Hoàng-thành chơi, chắc cũng chỉ muốn điều tra vụ án mẹ ta. Rồi lúc thẩm vấn tên Đinh Hồng, thì Kim-Dung, Mỹ-Vân đều không có mặt. Bằng không thì tung tích ta bị lộ rồi. Bây giờ ta phải làm sao cho bà bác này ngừng điều tra, bằng không bà tìm ra tung tích ta thì hỏng bét. Nghĩ vậy nó nói: - Thưa bác, vụ này dù nhà vua, dù Khu-mật viện cũng không ai biết đầy đủ bằng cháu. Bác không cần điều tra nữa. Sau ngày rằm tháng tám, thi võ xong, cháu hứa sẽ trình với bác vụ này thực đầy đủ. Chiều hôm ấy, đoàn xe về tới Thăng-long. Lập tức Thủ-Độ tổ chức buổi họp các Khả-hãn bang Lĩnh-Nam. Nó mời bàTrần Lý ngồi chủ tọa, Tự-Thừa, Tự-Khánh cùng tham dự. Nó đem vàng phân chia cho các Khả-hãn. Sau khi dặn dò chi tiết những việc phải làm, rồi ngày hôm sau chia tay. Bà Trần Lý kinh ngạc vô cùng khi thấy nó còn nhỏ tuổi, mà điều khiển buổi họp rất nhịp nhàng, nào ban lệnh, nào phân tích nhiệm vụ, nào dặn dò phương cách đối phó mỗi khi có biến cố như một thượng thư. Bà đâu biết, nó từng ngồi bên cạnh bố, bên cạnh Thành-cát Tư-hãn xem hai người điều động tướng sĩ đã quen. Điều làm bà kinh ngạc nhất là không biết nó dạy bọn Khả-hãn từ bao giờ, mà bọn này có một kiến thức rất rộng về việc tổ chức thiếu niên thành đội ngũ, huấn luyện xung phong, hãm trận. Nay nó sai bọn Khả-hãn đi các nơi làm công việc đó. Nếu cứ trình độ này, chỉ ba tháng sau, dưới tay nó đã có hàng chục vạn thiếu niên dân dã thiện chiến. Sau khi giảng giải cho bọn Khả-hãn xong, Thủ-Độ hỏi bà Trần Lý với Tự-Thừa, Tự-Khánh : - Con xin nghe lời dạy dỗ của bác và các anh. Tự-Thừa đưa mắt nhìn các Khả-hãn một lượt rồi nói bằng giọng đầm ấm : - Anh có ba điều khuyên em. - Em xin nghe. - Điều thứ nhất : Em lập ra bang Lĩnh-Nam. Lúc đầu chỉ có mấy người. Công việc không làm bao. Bây giờ bang trở thành quá lớn. Mai này lớn không thua gì một nước nhỏ. Em phải tổ chức hệ thống điều khiển lại, phân chia nhiệm vụ như một môn phái. Có như vậy em mới bớt bận rộn, tâm tư thảnh thơi, mà quyết những việc lớn. Thủ-Độ như một người mù được mở mắt, nó hỏi ngược lại Trần Thừa: - Theo như minh kiến của anh, thì phải tổ chức như thế nào? - Trên cao nhất có Bang-trưởng. Phụ tá cho Bang- trưởng có Tả, Hữu hộ pháp. Tả hộ pháp coi về đối nội như thưởng phạt, bổ nhiệm, huấn luyện, kết nạp, lương thực, tài chánh. Còn Hữu hộ pháp coi về đối ngoại như giao thiệp với các môn phái, với hương đảng, với triều đình. Nhất là giúp đỡ dân như lời thề ở đền Hùng. Dưới nữa có Lục thiện nhân, mỗi người phụ trách một việc như Lục-bộ của triều đình, tạm gọi là vụ: Binh-vụ, Lại-vụ, Hộ-vụ, Hình-vụ, Công-vụ, Lễ-vụ. Về lãnh thổ thì mỗi trấn, châu, phủ, huyện có một người đảm trách như một An-phủ sứ, Tuyên-vũ sứ, hiện em đặt tên là Khả-hãn rồi thì cứ để nguyên.. Thủ-Độ suy nghĩ một lúc rồi quyết định: - Em muốn mời anh Tự-Khánh làm Tả hộ pháp. Kim-Dung làm Hữu hộ pháp. Mỹ-Vân coi Hộ-vụ, Phan Thùy-Dương coi Công-vụ. Nó nhìn Trần Thừa: - Còn anh! Em muốn tôn anh làm Nguyên-sư của cả bang. Bà Trần Lý nắm tay Thủ-Độ: - Cứ tạm như vậy đi. Trong tương lai, con sẽ gặp nhiều thiếu niên có khí tiết, ta sẽ sắp xếp lại nhân sự sau. Trần Thừa tiếp: - Các Khả-hãn của em có cái ưu điểm bậc nhất vô nhị là xuất thân cùng khổ. Rồi được học văn, luyện võ, thấm nhuần lòng yêu nước. Nhưng chúng ta chỉ có mười tám người e không đủ cho toàn quốc ! Bây giờ em nên tìm trong bọn Tiểu-hãn, tuyển chọn lấy trăm người, đem về đây huấn luyện thêm, rồi thăng lên Khả-hãn. Thủ-Độ chắp tay: - Đa tạ Nguyên-sư. Trần Thừa tiếp: - Điều thứ nhì : Trước đây, tại các xã, thiếu niên tuổi từ mười ba trở lên được gọi là Hoàng-nam. Chúng được huấn luyện quân sự, xung phong hãm trận, dùng để giữ an ninh cho xã. Khi nước có sự, thì Hoàng-nam phụ trách giữ đất. Còn Thiên-tử binh thì lưu động đánh giặc. Khi Đạo-cô Thụy-Hương về ẩn trong Hoàng-cung, bà ta muốn phá nát hệ thống phòng thủ Đại-Việt, nên ép nhà vua ban chỉ giải tán Thiên-tử binh, Ngưu-binh, Kỵ-binh, Hoàng-Nam. Trong mỗi xã chỉ chọn hai người làm Tuần-đinh để sai khiến mà thôi. Bây giờ các Khả-hãn về địa phương ngoài việc chính là quy tụ thiếu niên nghèo khổ lại nuôi dậy, tổ chức thành đội ngũ. Ta cũng nên thu dụng các thiếu niên trong các xã rồi tổ chức đội ngũ huấn luyện họ luôn. Nghĩa là họ sẽ giúp hương đảng giữ an ninh. Nhưng họ là người của ta. Ta có thể điều động họ sang các xã khác. Thủ-Độ lại chắp tay: - Đa tạ Nguyên-sư. - Điều thứ ba, ta tạm tổ chức các đoàn, đội như sau : Mười người là một thập, trăm người là một bách. Không nên, và không thể tổ chức thành nghìn người thành đơn vị. Như vậy lớn quá, bọn mặt dơi, tai chuột sẽ bàn ra, nói vào, không lợi... Trong thời gian ở đây, ta sẽ giúp em làm những việc này. Bọn Khả-hãn lên đường được hơn tháng, thì chúng báo cáo về rằng mỗi đứa tổ chức được mười đoàn thiếu niên thôn dã, mười đoàn thiếu niên nghèo khổ. Hương đảng đều vui lòng, vì không còn nạn thiếu niên lêu lổng phá phách. Ngược lại, họ có đội thiếu niên có học, giỏi võ, giúp tuần đinh canh phòng làng xã. Cứ như vậy, tới tháng bẩy, thì mỗi Khả-hãn đã có hơn trăm đội thiếu niên dưới tay. Bang Lĩnh-Nam trở thành một bang lớn. Thế mà triều đình không ai biết gì. Trong thời gian ấy, thì bà Trần Lý với các con ở trên con thuyền tại bến sông. Hàng ngày bà hoặc Tự-Thừa, Tự-Khánh đến Tây-hồ thủy xá dạy võ cho Thủ-Độ, Mỹ-Vân cùng huấn luyện bọn Tiểu-hãn từ các nơi gửi về. Thủ-Độ nhận thấy, ngay từ hôm đầu gặp nhau, Mỹ-Vân với Tự-Khánh luôn quấn quýt bên nhau. Mỗi lời nói của Tự-Khánh đối với Mỹ-Vân đều ngọt ngào. Nó biết những gì sắp xẩy ra giữa hai người. Nó luôn tìm dịp cho hai người đi chung với nhau bằng cách sai Mỹ-Vân đi kiểm tra, hướng dẫn, dạy võ các Khả-hãn tại các trấn, các huyện. Vì vậy, riết rồi các Khả-hãn coi Tự-Khánh như một Đại-hãn thứ nhì. Một hôm Tự-Thừa bảo Thủ-Độ: - Cứ như bác Phòng-Phong nói, em luyện được cả nội công âm nhu của Mê-linh lẫn nội công dương cương của phái Đông-a. Cho nên hiện công lực em cao vô cùng. Nhưng em không biết vận dụng, thành ra giống một người ngồi bên kho thóc mà không biết xay thành gạo, đành chết đói. Chính vì thế, nên hôm em đấu một chưởng với Đinh Hồng, mà chỉ ngang nhau. Giá như em biết vận khi phát lực thì chỉ một chiêu y đã táng mạng rồi. Vậy bây giờ anh giảng cho em về Thập-nhị kinh mạch, cùng Kỳ-kinh bát mạch. Sau đó lại dạy em dẫn khí theo vòng Tiểu-chu thiên, Đại-chu thiên, thì...công lực anh cũng thua em xa. Tự-Thừa chỉ một cây soan to bằng bắp chân : - Em vận khí rồi phát chưởng đánh vào cây soan kia xem nào ? Thủ-Độ hít hơi, vận khí phát chiêu Phong-ba hợp bích hướng cây soan. Binh một tiếng cây soan rung động, nghiêng ngả. - Đấy ! Em không biết phát lực, thành ra cây soan chỉ rung động mà thôi. Nếu như em biết phát lực, thì cây soan kia gẫy ngay. Bây giờ anh dậy em hệ thống kinh mạch trước. Tự-Thừa lấy ra ba trục vải trên vẽ đồ hình kinh mạch, rồi giảng : « Trong cơ thể con người gồm ngũ tạng là tâm, can, tỳ, phế, thận, ngoài ra còn tâm bào. Lục phủ là vị, đởm, đại trường, tiểu trường, tam tiêu, bàng quang. Cộng chung là mười hai cơ phận. Mỗi cơ phận có một đường kinh thông với cơ thể, thịt, xương, đem khí của tạng phụ nuôi thân thể. Vì vậy trong cơ thể có mười hai đường kinh, chia ra sáu kinh tay, sáu kinh chân. Sáu kinh tay cũng như sáu kinh chân, đều chia làm ba kinh âm, ba kinh dương. Ngoài ra còn Kỳ-kinh bát mạch là Đốc-mạch, Nhâm-mạch, Âm-kiêu, Âm-duy, Dương-kiêu, Dương-duy, Xung-mạch, Đới-mạch ». Rồi chàng dạyThủ-Độ vận khí theo kinh mạch. Bắt đầu bằng Thủ Thái-âm phế kinh, sang Thủ Dương-minh đại trường kinh, Túc Dương-minh vị kinh....Cuối cùng là Túc Khuyết-âm can kinh. Vốn thông minh, Tự-Thừa chỉ giảng một lần, Thủ-Độ đã thuộc ngay. Chỉ không đầy một ngày Thủ-Độ đã có thể vận khí khắp Thập nhị chính kinh và Kỳ-kinh bát mạch. Bấy giờ Tự-Thừa mới dạy nó phát lực. Thủ-Độ thấy lực mình tuôn ra mãnh liệt vô cùng. Tự-Thừa chỉ cây soan : - Em thử phát chiêu Phong-ba hợp bích xem nào. Thủ-Độ xoạc cẳng vận khí rồi phát chiêu. Ầm một tiếng, cây soan bị gẫy làm hai từ từ đổ uống. Nó kinh ngạc, há miệng ra không nói lên lời. Tự-Thừa chỉ gốc soan : - Em quan sát chỗ gẫy xem có gì lạ không ? Nó chạy lại nhìn : Chỗ chưởng đánh vào cắt bằng phẳng như búa chém. Còn những thớ gỗ bên trong cong queo như vỏ bào. Nó ngơ ngác không hiểu. Tự-Thừa giải thích : - Cắt gốc soan như búa chặt là do nội lực dương cương. Còn làm cho các thớ gỗ cong queo là âm kình. Anh chỉ luyện thành nội công dương cương. Nếu anh phát lực, thì chỉ cắt đứt gốc soan thôi, chứ không làm cho các thớ gỗ nát ra như vậy. Em thử nghĩ xem, nếu chưởng vừa rồi đánh trúng một người, thì tạng phủ sẽ nát ra mà chết. Từ hôm đó, bà Trần Lý, Tự-Thừa dồn hết tâm huyết luyện võ cho Thủ-Độ. Nhờ có nội lực cao, nên bất cứ quyền, chưởng gì, nó chỉ luyện qua là thành công ngay. Cuối cùng bà nói : - Con đã học trộm được bộ chưởng trấn môn của phái Hoa-sơn. Bộ này nguyên xuất từ bộ Vô-Trung kinh, đặt trên căn bản biến hóa Dịch-lý, cực kỳ ảo diệu mang tên Hoa-sơn thần chưởng. Có thể nói, trong võ công Đại-Việt, chỉ có Long-biên kiếm pháp, Phục-ngưu thần chưởng, Mục-ngưu thiền chưởng và Đông-a chưởng pháp là có thể so sánh. Hiện Công-chúa Tiên-tử Thụy-Hương muốn dùng võ công Hoa-sơn, cùng võ công mà thị học được của Đông-a, rồi khai sáng một môn phái mới. Cho nên thị truyền võ công trấn môn Hoa-sơn cho bọn Lĩnh-Nam ngũ hổ tướng, cho bọn Gia-thụy ngũ-anh. Đạo cô tham vọng quá lớn. Ý định của thị đã lộ rõ, là muốn làm suy yếu các môn phái Đại-Việt. Một mặt thị bắt nhà vua ban chỉ cấm các môn phái thu đệ tử. Một mặt thị ta cho Lĩnh-Nam ngũ hổ mở trường dạy võ. Như thế trong các kỳ thi này, chỉ có để tử của thị trúng tuyển, được bổ làm quan, thì dân chúng sẽ bỏ hết các môn phái mà theo học các trường của thị...Song thân của chồng ta biết thế. Người nghiên cứu ra một pho võ công, chỉ với mục đích khắc chế pho võ công trấn môn của Hoa-sơn. Bộ chưởng này có tên Lôi-giáng Hoa-nhạc. Hôm nay ta dạy con, để khi nào con gặp đối thủ xử dụng võ công ấy, đem ra đối phó, thì chỉ một hai chiêu là khiến đối thủ mất căn bản ngay. Bà gọi Kim-Dung : - Bây giờ con dùng Hoa-sơn thần chưởng, Kim-Dung dùng Lôi-giáng Hoa-nhạc đấu với nhau xem, con sẽ thấy rõ. Hai người đứng đối diện. Tự-Thừa hô : - Xuất chiêu ! Kim-Dung chắp hai tay vào nhau, đẩy về trước. Đó là chiêu mở đầu của các đệ tử Đông-a, để tỏ lễ phép với đối thủ. Thủ-Độ đã biết chiêu này. Nó cũng nghiêng mình ra chiêu Ngũ-sơn nhật mộ của Hoa-sơn để đáp lễ. Hai chiêu vừa dứt, thì Thủ-Độ xuất chiêu Sơn-cao hạc minh, chân từ quẻ Càn phương Hỏa-địa-tấn bước sang quẻ Cấn phương Phong-sơn-tiệm, tay trái xỉa về trước, tay phải vòng từ sau lên. Kim-Dung bước xéo lùi lại, ra chiêu Lôi-hỏa thạch sa. Tay trái xỉa vào nách phải Thủ-Độ, tay trái dáng từ trên xuống. Kình lực của Thủ-Độ bị tuyệt, chân loạng choạng suýt ngã. Kinh hoảng, Thủ Độ lại xuất chiêu Nam-nhạc trấn thiên, chân từ quẻ Cấn phương Sơn-trạch-tồn bước sang cung Đoài, phương Thủy-sơn-kiển. Kim-Dung lại ra chiêu Ngũ-sơn đảo địa. Kình lực Thủ-Độ bị mất, người bật tung về sau. Cứ như vậy, hai người đấu với nhau đủ 36 chiêu, Thủ-Độï đều bị đánh bại. - Ngừng tay ! Tự-Thừa giảng cho Thủ-Độ : - Em thấy không ! Cứ mỗi chiêu em đánh ra, đều bị mất căn bản. Đây là giữa em với Kim-Dung luyện tập với nhau. Giả như đấu thực, thì chỉ một chiêu, em mất căn bản, Kim-Dung đánh liền hai chiêu, thì liệu tính mệnh em có còn không ? Thế rồi bà Tự-Hấp giảng yếu quyết vận khí, biến hóa, phát chiêu, cùng phương vị di chuyển, sau đó mới dạy các chiêu thức. Trong hai ngày, thì Thủ-Độ đã thành thuộc. Bà Trần Lý ra lệnh cho Tự-Khánh xử dụng Hoa-sơn thần chưởng. Còn Thủ-Độ xử dụng Lôi-giáng Hoa-nhạc. Lạ lùng thay, từ công lực, cho đến võ công, Tự-Khánh bỏ xa Thủ-Độ, thế mà cứ mỗi chiêu nó đánh ra y như là Tự-Khánh luống cuống. Học xong Lôi-giáng Hoa-nhạc, Thủ-Độ nghĩ thầm : - Trước đây ông cố mình là Tự-Kinh đã chế ra bộ Thiên-la thập bát thức khắc chế hầu hết nguyên tắc căn bản của võ công Trung-nguyên. Bây giờ ông nội mình nhân thấy bộ Hoa-sơn thần chưởng kỳ diệu, mà sáng chế ra bộ Lôi-giang Hoa-nhạc để khắc chế. Giòng họ mình thực siêu việt. Đã vậy, trong kỳ thi võ này, đứng giữa đài mình phải nói rõ thân thế ra trước thiên hạ, để vinh danh tổ tiên. Trước khi từ biệt về Thiên-trường, bà Trần Lý dặn Thủ-Độ : - Bây giờ con đã lớn. Võ công cao, lại là Đại-hãn, là Bang-trưởng một bang lớn nhất Đại-Việt. Con đã giúp cho hàng chục vạn người nghèo có nhà ở, có cơm ăn. Các Khả-hãn của con đã tổ chức được hàng mấy trăm đoàn thiếu niên bảo vệ hương thôn, có khả năng chiến đấu hơn cả Thiên-tử binh. Dân chúngï nhớ ơn, nhân tâm quy phục. Dù con bảo họ nhảy vào lửa, vào nước họ cũng làm. Uy tín con rất lớn. Mỗi hành động con phải đẳn đo sao cho đúng với đạo lý người quân tử. Ta để Thừa, Khánh, Dung, Vân ở lại giúp con. Con đã cho Cửu-hào ghi danh ứng tuyển trong kỳ thi võ này rồi phải không ? - Vâng con cho mỗi đừa ứng thí ở một trấn, một huyện khác nhau. Trong kỳ sơ tuyển địa phương, chúng đều trúng cách cả. Hôm trước, về thi phúc tuyển ở Binh-bộ, chúng cũng đậu hết. Ngày rằm này, chúng đều vào đình thí. - Dường như con bị bắt buộc dự thi thì phải ? - Vâng ! Vì con thuộc Ngoại-thích, nên không phải qua cuộc sơ tuyển. Ý con không muốn thi, nhưng vì con họ...Đàm, thuộc ngoại thích, cho nên Nam-thiên tiên tử bắt con phải dự. Con được biết, Hoàng-hậu tưởng bản lĩnh con thấp kém, vì Phạm Bỉnh-Di tâu rằng con chỉ tập có mấy tháng rồi bỏ. Bà muốn mượn kỳ thi võ này, để dùng bọn Gia-thụy ngũ anh giết con trên đài, mà không ai bàn tán gì đươc. Bây giờ nếu con dự thi, thì người bị giết không phải là con, mà là chúng nó. - Con ạ ! Ta biết con thù hận triều Lý. Con muốn lật đổ triều Lý, lập một triều khác lên thay. Nhưng con ơi ! Con làm như vậy, e trong nước sẽ xẩy ra một thời kỳ rối ren, loạn lạc, dân chúng khổ lắm. Ta nghĩ sao bằng con dự thi, chiếm chức Trạng-nguyên, rồi làm quan võ trong triều. Ngoài trấn, thì bọn Cửu-hào cầm quân. Khắp các phủ huyện, bọn Khả-hãn, bọn Tiểu-hãn nắm lực lượng thanh thiếu niên. Bấy giờ con sẽ dùng các sức mạnh đó ép triều đình cải tổ, sao cho dân giầu, nước mạnh, có phải hơn không ? Thủ-Độ tỉnh ngộ : - Con xin nghe lời dậy của bác. - Thể lệ dự thi ra sao? - Đầu tiên sĩ tử ghi tên ở các cả các trấn, các huyện. Họ phải qua một cuộc thi văn, đấu võ, để lọc bớt đi những người vô tài. Những người này được đưa về Thăng-long. Binh-bộ lại thi tuyển một lần nữa, lấy 72 người. 72 ngươì này sẽ vào đình thí. Đấy là thành phần dân dã. Còn phàm con cháu các quan, văn từ chức Thị-lang, võ từ cấp Đô-thống, hoặc thuộc ngoại thích (họ phía các bà vợ vua), Hoàng tộc, thì ghi danh ở quan Tổng-trấn Thăng-long. Quan Tổng-trấn cho tuyển lấy 72 người, rồi được vào đình thí ngay. - Các môn thi ra sao ? - Trước hết là thi lực. Mỗi thí sinh phải dùng hai tay cử một khúc gỗ 200 cân (100kg), đi một vòng sân. Ai không làm được như vậy thì bị đánh trượt. Thứ nhì là ngồi trên mình ngựa vừa phi vừa bắn tên. Ai bắn trung từ đến 10 mũi thì trúng cách. Cuối cùng các sĩ tử đấu võ với nhau. - Võ đài đình thí ở đâu? - Đặt tại giữa sân viện Giảng-võ. - Tổ chức cũng khá gọi là chu đáo đấy. Vậy đình thì sẽ diễn ra như thế nào? - Chia 72 người thành 36 cặp, các thí sinh đấu với nhau, lọc lấy 18 người cho đỗ Tiến sĩ. Ba người đỗ đầu là Trạng-nguyên, Bảng-nhãn, Thám-hoa. Đấy là các sĩ tử dân dã. Còn các sĩ tử quyền qúy thì 18 Tiến-sĩ, lại chia làm ba toán, tuyển lấy ba người. Cuối cùng ba người này đấu với nhau để phân biệt Trạng-nguyên, Bảng-nhãn, Thám-hoa. - Như thế có hai loại Tiến-sĩ. Trạng-nguyên, Bảng-nhãn, Thám-hoa cũng có hai loại. Một loại thuộc giới quyền quý, và một loại thuộc giới dân dã. - Vâng. Kim-Dung cười: - Này Đại-hãn! Tại sao Đại-hãn cố đoạt lấy ngôi Trạng-nguyên cho thiên hạ nể vì? - Huynh không thích! Nhưng người ta bắt huynh phải ứng thi, dường như với mục đích mượn võ đài giết huynh mà không ai dị nghị được. Nay nghe bác dạy, huynh quyết đoạt chức Trạng-nguyên, rồi sẽ cầm quân... Bà Trần Lý ân cần dặn Thủ-Độ: - Ta biết từ trước đến giờ, vì con cần dấu thân phận, nên dường như con không dám dùng tên họ thực, con lại cũng chuyên xử dụng võ công Hoa-sơn. Bây giờ thân phận con không nhỏ nữa, con cứ đường đường chính chính, nói với anh hùng thiên hạ tên họ của mình, rồi xử dụng võ công Đông-a. Đó là lối hành xử quang minh lỗi lạc...Sau ngày tuyển võ rằm tháng tám, dù con có trúng tuyển hay không, cũng không cần thiết. Con phải về Thiên-trường thuật cho chúng ta nghe tất cả những gì liên quan đến công chúa Đoan-Nghi và con của người. - Vâng! - Tự-Khánh, Mỹ-Vân hiện đang đi các trấn cố vấn, dạy võ, kiểm tra công việc làm của các Khả-hãn chưa về. Bây giờ ta dẫn Tự-Thừa đi Đông-triều mấy ngày. Vậy ở nhà con với Kim-Dung, Mỹ-Vân cứ thay nhau luyện võ cho bọn Khả-hãn, vì sắp tới ngày tuyển võ rồi. Chiều hôm ấy, Khả-hãn Nhất-Anh, phụ trách vùng Thăng-long đến báo cho Thủ-Độ một tin quan trọng : - Đại-hãn ! Chúng ta có thể xử tử tên Đàm Thì-Phụng được rồi ! - ! ? ! ? ! ? - Sứ đoàn Tống lên đường đi Chiêm. Thái-úy Đàm Thì-Phụng sai toàn bộ gia tướng, đội thân binh theo hộ tống. Trong dinh chỉ còn khoảng mươi võ sĩ canh phòng mà thôi. Hôm nay nhà y có giỗ. Thủ-Độ nhảy phắt lên : - Mạng tên này cùng rồi. Đêm nay là đêm chúng ta trả mối thù đau đớn đứt ruột ra từ mấy năm nay. Nó cùng Mỹ-Vân, Kim-Dung mở tấm bản đồ dinh Thái-úy ra nghiên cứu từng chi tiết. Mỹ-Vân đề nghị : - Trưa mai nhà Thì-Phụng có giỗ, sau khi giỗ, tất gia nhân mệt mỏi, lăn ra ngủ, thì chúng ta đột nhậïp vào mới dễ. Đại-ca định giết hết bọn chúng, hay chỉ giết mình tên Đàm Thì-Phụng ? - Ta không giết hồ đồ như vậy, trước hết ta tra khảo y, vợ con y đã. Sau đó ta làm một bài cáo tri tố hết tội lỗi y rồi hẹn trong vòng ba tháng, triều đình không trị tội y, ta mới ra tay. Chiều hôm ấy, Kim-Dung, Thủ-Độ lại ngao du trên hồ Tây. Sau thời gian gần nhau, hai trẻ đã yêu nhau mặn nồng, nhưng cả hai vẫn giữ được trong sạch. Kim-Dung hỏi Thủ-Độ : - Đại-ca ! Từ khi gặp mẹ em, dường như Đại-ca có điều gì lo lắng, mà Đại-ca dấu kín. Hôm nay, chỉ có hai đứa chúng ta. Đại-ca có thể cho em biết được không ? Thủ-Độ thở dài : - Anh sợ một ngày kia, chúng mình sẽ phải xa nhau. - Bố mẹ em là những đại tôn sư võ học, tính tình phóng khoáng. Em tin rằng chúng ta sẽ được toại nguyện. Tuy nghe Kim-Dung nói vậy, nhưng Thủ-Độ cũng không khuây được, vì cái bức tường hai người là con chú, con bác ruột. Kim-Dung cam kết : - Dù bất cứ hoàn cảnh nào, nhất định chúng ta cũng không bỏ nhau. Giả như bố mẹ có bắt em lấy chồng thì tuy ở vơí chồng, nhưng em vẫn dành hết cho anh. Thế rồi hai người thả neo trên hồ, chuyện trò. Phàm chuyện trai gái mới yêu nhau, thì chẳng chuyện gì ra chuyện gì cả. Nhưng không bao giờ hết. Hai trẻ ôm nhau qua đêm. Trời sáng, Kim-Dung chèo thuyền về Tây-hồ Thủy-xá, vừa bước lên bờ, đã thấy Khả-hãn Thăng-long là Nhất-Anh, Khả-hãn Gia-lâm là Nhất-Hào đang ngồi chờ. Trên gương mặt hai người hiện ra nét nghiêm trọng. Thủ-Độ hỏi : - Cái gì đã xẩy ra ? Nhất-Anh thưa : - Đêm qua, con quỷ ba đầu hiện lên trong dinh Thái-úy Đàm Thì-Phụng. Thủ-Độ, Kim-Dung cùng bá hốc mồm ra : - Quỷ ba đầu ? - Vâng. - Con quỷ này đã làm gì ? Nhất-Hào đáp : - Nó giết sạch trâu, bò, lừa, ngựa, gà, vịt chó, mèo. Còn gia nhân, gia tướng thì không biết nó giết bằng cách gì, cơ thể nạn nhân không có vết thương, người chết lạnh như băng. - Ái chà ! Thủ-Độ than : - Như vậy sát nhân dùng Huyền-âm nội lực rồi ! Còn tên Đàm Thì-Phụng ? - Đàm với bẩy bà vợ, ba con trai, chín con dâu, mười hai đứa cháu đều bị khoét hai mắt, chọc thủng hai tai, cắt lưỡi, cắt gân chân tay. Con quỷ hành sự xong, còn băng bó cho nạn nhân khỏi chết. Sau đó con quỷ còn đi dán 12 tờ cáo tri khắp Thăng-long. - Tờ cáo tri nói gì ? Nhất-Anh chìa ra tờ giấy : - Em có mang về được một tờ. Kim-Dung cầm lấy đọc : Tam đầu quỷ Long-thành cáo tri với nhân sĩ, võ lâm. Tên Đàm Thì-Phụng, xuất thân là một đô thống, tài không, đức không. Nhờ con gái tiến cung, mà được lên hàng tướng quân, được phong chức tước. Rồi dần dần leo lên tới chức Phụ-quốc Thái-úy. Than ôi ! Từ ngày đức Thần-tông băng, Đại-Việt ta phải chịu liên tiếp cái nạn gà mái gáy. Mỗi khi một bà Thái-hậu lên cầm quyền, thì lại có nạn giết hại tôn thất. Triều Lý lập lên đã trên hai trăm năm, chỉ vì cái nạn ngoại thích tàn sát, mà nay số đinh không quá vài trăm. Hỏi trong lịch sử cổ kim Hoa, Việt, có triều đại nào mà Hoàng-thân, Quốc-thích bị giết nhiều như vậy không ? Hơn mười năm nay, trong cung thì Đàm hậu lộng quyền, bên ngoài thì Đàm Dĩ-Mông, Dàm Thì-Phụng cùng phe đang chuyên quyền. Nhà vua sớm nhận thấy cái nguy họ Đàm, nên đã sai sứ sang Mông-cổ thỉnh Phò-mã Thái-úy Trần Thủ-Huy cùng công chúa Đoan-Nghi về để chỉnh đốn lại kỷ cương, lập lại thịnh thời của cá vị tiên đế. Công chúa với con trai vừa về đến Đại-Việt, thì tên Đàm Thì-Phụng, Đàm Dĩ-Mông sai gia nhân phục kích, dùng loạn tên bắn chết. Đứa con trai còn thơ bị kinh hoàng quá hóa điên, phải lưu lạc đầu đường xó chợ. Mới đây, họ Đàm dị tâm, sai sứ sang đút lót với các đại thần Tống, tâu rằng nhà vua bị điên, không thể cầm quyên. Giòng họ Lý không còn ai, xin phong cho Thì-Phụng làm An-Nam quốc vương. Vì vậy, nay ta giết cả nhà tên Đàm Thì-Phụng. Treo án tên Đàm Dĩ-Mông. Nếu y còn manh tâm cướp ngôi, thì sẽ giết cả nhà, kể cả chó mèo trâu bò gà vịt. Nay cáo tri. Long-thành tam đầu quỷ. Nghe đọc xong, Thủ-Độ thẫn thờ người ra, nó nghĩ thầm : - Không biết ai đã giả danh ta làm việc này? Hà ! Ai mà biết bí ẩn của vụ án sát hại mẹ ta ? Ta chưa kịp ra tay, y đã ra tay trước ? Kim-Dung cầm tờ giấy, tay nàng run lên bần bật. Thủ-Độ kinh hãi hỏi: - Dung! Có gì lạ không? - Không những lạ, mà còn trời rung, đất chuyển nữa. Loạn to đến nơi rồi! - Anh không hiểu! Kim-Dung giảng giải: - Anh không hiểu là phải. Công chúa Đoan-Nghi cùng người con mất tích, gia đình em điều tra mãi không ra manh mối. Bây giờ không biết ai giả làm con quỷ ba đầu giết cả nhà Thái-úy Đàm Thì-Phụng, rồi cáo tri rằng họ Đàm đã ám toán công chúa. Có hai vấn đề được đặt ra là: Một thế lực nào đó, chơi xấu. Họ muốn hạ thế lực họ Đàm, họ giả quỷ ba đầu, giết Thì-Phụng. Họ tố tụi Đàm hại công chúa, gây cho phái Đông-a bị chạm tự ái, sẽ ra tay tru diệt họ Đàm. Ngược lại triều đình cũng nghi con quỷ ba đầu là người phái Đông-a, giết Thì-Phụng. Toàn gia một Quốc-trượng lĩnh Phụ-quốc thái-úy bị giết, nhất định triều đình sẽ phải đem quân về Thiên-trường, làm cỏ phái Đông-a! Hoặc giả, những điều cáo tri đúng sự thực, thì đây là một loại Ưng-sơn song hiệp, đã giả danh đại ca. Kim-Dung ngừng lại suy nghĩ, rồi tiếp: - Anh nói với mẹ rằng, anh biết vụ này rất tường tận. Vậy, lời cáo tri của kẻ giả quỷ ba đầu đúng hay sai? - Đúng hoàn toàn. Nhưng không hẳn bọn Đàm Thì-Phụng, Đàm Dĩ-Mông, chủ động, mà chúng tuân theo mật chỉ của Tống. Kim-Dung nhảy phắt lên: - Vậy thì kẻ giả quỷ ba đầu không có ý gắp lửa bỏ bàn tay. Dĩ nhiên họ không phải là người xấu. Họ là đại gia hành hiệp. - Anh phải điều tra xem ai giả danh anh. Kim-Dung ! Liệu việc này có do anh Thừa, anh Khánh làm không ? - Mẹ cũng như hai anh ấy còn chưa biết công chúa Đoan-Nghi ở đâu ? Lại càng không biết người bị giết, thì sao có thể là hai anh ấy ra tay ? Vả hai anh ấy cực kỳ thống hận triều Lý, hai anh ấy muốn dung dưỡng tên Đàm Thì-Phụng cho dân chúng phẫn uất để triều Lý mau xụp đổ, đời nào hai anh ấy giết tên Thì-Phụng nhỉ ! Vụ án Đàm Thì-Phụng làm trấn động toàn quốc. Phe đảng họ Đàm kinh hồn táng đởm. Nhà vua nhân đó, phong Kiến-khang vương Long-Ích làm Thái-úy phụ quốc thay thế Thì-Phụng.