Triệt Triệt Đô hỏi viên quan phụ trách chữa ngựa: - Vô lý, rõ ràng hôm qua, ngựa chúng ta đang bệnh, y chữa khỏi mà ? - Mưu bọn Việt rất sâu. Chúng chữa độc cho ngựa ta là chữa thực, khiến ta tin. Rồi y cho thêm thuốc độc, để khi ngựa ta ra trận, thuốc ngấm. Cũng may, ngựa của ta ngã trên đất mình. Giá như ngựa ta đang xung sát mà bị thuốc phát tác, thì chết hết ! Triệt Triệt Đô sai Kỵ-mã phi tiễn báo cáo tình hình với Ngột-lương Hợp-thai, rồi quyết định : - Dù bị thiệt hại Lôi-kỵ, nhưng ta vẫn không chịu thua bọn Nam-man. Y ra lệnh cho năm Bách-phu Lôi-kỵ đi trước, bốn Vạn-phu quân Đại-lý dàn hàng từ từ tiến sau. Tới trước trận Việt, y cho quân dừng lại, rồi cùng các Thiên-phu trưởng, có võ sĩ hộ vệ, tiến lên: - Vân-ma đại tướng quân của Thiên-quốc Mông-cổ, muốn nói chuyện với vua An-Nam. Vèo, vèo, vèo Ba Lôi-tiễn vọt lên trời rồi nổ như ba tiếng sấm, tỏa thành hình ba con rồng. Cửa trận Việt mở ra. Nguyên-Phong hoàng đế cỡi ngựa khoan thai tiến trước. Bên trái là Vũ-kỵ thượng tướng quân Lê Tần, Đô-thống Trần Biên, bên phải là Đô-thống Nguyễn Tha, Nguyễn Thời. Đô-thống Thời chính là gã mũ đỏ đã trêu ghẹo y ban nãøy. Phía sau, một đội Kỵ-mã mười người. Một đội Ngưu-binh, toàn trẻ con, viên đội trưởng chính là Dã Tượng và con Hĩm Còi. Một đội nữ binh, chính là bọn nữ binh trên thuyền tung lưới bắt võ sĩ trên sông. Một đoàn Thị-vệ hơn 3 trăm người, viên trưởng đoàn chính là thầy lang Đỗ Thanh, bên cạnh ông có cây cờ soái : Đại-Việt Vũ-vệ thượng tướng quân Đỗ Thanh. Tổng-lĩnh Thị-vệ. Triệt Triệt Đô, Hòa Khâm uất khí lên cổ. Đỗ Thanh chỉ nhà vua nói lớn: - Đại-Việt hoàng đế là vị này. Tướng quân muốn nói gì thì nói đi. Triệt Triệt Đô giận quá, hàm răng đánh vào nhau lộp cộp, nói không ra lời. Y nghiến răng hướng gã Trịnh Ngọc hất hàm. Gã Trịnh Ngọc nói lớn: - Thiên-quốc Mông-cổ đã thu gồm tất cả các nước dưới gầm trời này. Về phương Tây, hơn hai chục nước đều cúi đầu tuân phục. Về phương Đông, nào Kim, nào Liêu, nào Tống, nào Tây-hạ, nào Thổ-phồn, nào Đại-Lý, nào Cao-ly cũng phải theo gió đầu hàng. Binh hùng có đến mấy trăm vạn, chỉ núi, núi tan; chỉ biển, biển cạn. Nay người thân chinh Nam phương. Quân như hổ, như beo hơn trăm vạn, dàn ra tại biên giới. Nghĩ tình trước đây Phiêu-kỵ đại tướng quân Lý Long-Phi, Phụ-quốc Thái-úy Trần Thủ-Huy cùng công chúa Đoan-Nghi, từng giúp Thiên-quốc. Từng là khai quốc công thần. Vì vậy người sai Thái-sư Ngột-lương Hợp-thai mang 20 vạn quân, sang kinh lược An-Nam. Thái-sư nghĩ tình kết nghĩa huynh đệ với Đại-tướng quân Trần Thủ-Độ, mà không nỡ đem quân tàn sát nước người. Thái-sư sai sứ sang chiêu dụ, nói lời hay, lẽ phải cho các người nghe. Thế mà các người dám giam sứ giả. Vì vậy Thái-sư mới quyết định tiến quân. Nay ta đi tiên phong, trước hỏi cho ra lẽ, rồi mới trừng phạt sau. Vậy chúa tôi nước người hãy trả lời đi. Một đại thần, mình hạc xương mai, thủng thỉnh rời khỏi trận Việt, cạnh ông, một dũng sĩ cầm cây cờ có hàng chữ: " Quy-đức thượng tướng quân, Vũ-sơn hầu. Thái-tử thiếu bảo, Hiệp biện đại học sĩ, Lễ bộ tham tri. Tạ Quốc-Ninh". Tạ Quốc-Ninh hướng Triệt Triệt Đô, ông nói bằng tiếng Mông-cổ: - Vân-ma đại tướng quân! Xin đại tướng quân cho biết, nếu không có phò mã Trần Thủ-Huy với công chúa Đoan-Nghi của thiểm quốc, thì liệu Thiên-quốc Mông-cổ có còn tồn tại không? Ví như còn tồn tại thì có được như ngày nay không? Hay cũng chỉ là một bộ tộc, chịu nhục nhã dưới quyền con cháu Tang Côn? Thời Thành-cát Tư-hãn còn tại thế, người luôn nhắc nhở chư tướng phải nhớ ơn Đại-Việt. Vậy mà, bây giờ Đại-Việt muốn được yên ổn, con cháu Tư-Hãn không chịu, nhất định đem quân chiếm đất, rồi bắt quân sĩ, tráng đinh đi tiên phong đánh Tống. Đó là cách báo ơn ư? Hầu cất cao giọng: - Nước tôi tuy nhỏ, dân tôi tuy thưa, nhưng chúng tôi cương quyết không để ai muốn bắt làm tôi, làm mọi gì cũng được. Xưa kia, thời vua Thái-tông, thời vua Thần-tông nhà Tống, từng sai Hầu Nhân-Bảo, Tôn Toàn-Hưng, Quách Quỳ, Triệu Tiết, mang binh hùng tướng mạnh sang đánh nước tôi. Kết quả ra sao, thì tướng quân đã biết rồi. Trong khi Tạ Quốc-Ninh nói thì phía sau nhà vua, Vũ-vệ thượng tướng quân Đỗ Thanh, bọn Dã Tượng, Hĩm Còi, đội nữ binh, méo miệng cười trêu Triệt Triệt Đô. Y nổi cáu: - Từ khi binh trời nhập biên, các người toàn một thứ hèn nhát, bầy trò ma, trò quỷ, như chó chuyên cắn trộm. Các người có là anh hùng, thì hãy cùng chúng ta trực diện giao chiến. Tạ Quốc-Ninh cười lớn: - Gì chứ đánh nhau thì dễ quá. Dàn trận giao chiến, thì binh tướng chết nhiều. Vậy tôi xin đề nghị: Chúng ta cho quân lùi lại, rồi tướng với tướng đánh nhau. Không biết tướng quân có can đảm không? Bị khích Triệt Triệt Đô nổi cộc: - Được! Ta há sợ các người sao. Các người muốn đấu gì nào? - Bây giờ thế này, chúng ta dùng thuật kỵ mã đấu trận đầu, dùng cung tên đấu trận thứ nhì. Cuối cùng, dùng võ công tranh cao thấp. Trong ba trận, nếu bên nào thắng hai trận thì coi như được cuộc. Bên nào bại hai trận thì coi như thua cuộc. Nghe Quốc-Ninh nói, Triệt Triệt Đô tưởng mình nghe lầm, tưởng mình nằm mơ. Quân Mông-cổ vang danh thế giới về thuật kỵ mã, về tiễn thủ. Thế mà Quốc-Ninh lại đòi đấu hai môn này. Y không dấu được nét vui mừng hiện lên trên mặt: - Thế nhưng bên thắng sẽ được gì? Bên bại sẽ phải làm gì? - Nếu như bên Mông-cổ thắng, thì Đại-Việt phải mở cửa cho quân đại quân vào, phải cung đốn lương thảo, phải chịu binh dịch, theo đi đánh Tống. - Còn như bên Đại-Việt thắng? - Thì xin tướng quân hãy lùi quân về biên giới. Từ nay Mông-cổ, Đại-Việt bang giao trong thế bình đẳng như trước đây. Triệt Triệt Đô tự hào về thuật kỵ mã, về tiễn thủ và tin vào võ công mình. Tuy vậy y cẩn thận hơn: - Tôi không có quyền quyết định lớn như vậy. Tuy nhiên, nếu như bên tôi thua, tôi xin lùi quân về bên kia sông... Nào bây giờ trận đầu, đấu thuật kỵ mã. Vậy thể lệ ra sao? - Chúng tôi là chủ, các vị là khách. Người Việt chúng tôi vốn hiếu khách, vậy xin đấu theo thể lệ Mông-cổ. Triệt Triệt Đô lại kinh ngạc tự hỏi: - Tại sao cái gì của Mông-cổ, tụi này cũng biết vậy kìa? Nguyên tắc đấu thuật kỵ mã của Mông-cổ có ba phần. Phần thứ nhất là kỵ mã điều khiển sao cho ngựa dựng đứng lên. Ngựa của ai đứng được lâu thì coi như người ấy thắng. Thứ nhì là phi ngựa không yên, chẳng cương, rồi cho ngựa lồng. Hễ ai ngã trước là thua cuộc. Thứ ba, là cả hai cùng phi ngựa, sải bước trên một quãng đường. Ngựa của ai chạy tơí đích trước thì thắng cuộc. Triệt Triệt Đô gọi Hòa Khâm: - Người hãy ra dạy cho bọn Nam-man bài học về thuật kỵ mã của vùng Thảo-nguyên. Hòa Khâm giật cương, ngựa của y cất cao vó trước, gần như dựng thẳng đứng, rồi hý lên ba tiếng. Vũ-kỵ thượng tướng quân Lê Tần chỉ Đô-thống Nguyễn Thời: - Đô-thống hãy ra cùng Thiên-phu trưởng Hòa Khâm so tài. Trái với Hòa Khâm, chưa đấu đã biểu diễn, Thời thúc chân vào bụng ngựa. Con ngựa thủng thẳng bước ra. Hai ngựa, hai tướng đối diện nhau. Triệt Triệt Đô cầm dùi đánh một tiếng trống. Cả hai đối thủ cùng giật cương. Hai ngựa cùng cất cao vó trước, đứng dựng lên. Quân sĩ hai bên cùng reo hò trợ oai. Một khắc trôi qua. Ngựa cả hai bên đều mệt, hai chân sau bắt đầu run run. Nguyễn Thời liếc nhìn ngựa của Hòa Khâm, bất giác chàng cảm phục : - Tên này quả thực có tài cỡi ngựa. Vì mông y đặt đúng vào chỗ đầu khớp xương hai chân sau. Với chỗ này, khiến cho ngựa đứng, lấy được thăng bằng, và ít mỏi mệt. Lại một khắc trôi qua. Ngựa cả hai bên bắt đầu lắc lư. Thời sẽ để bàn tay vào hai mông ngựa, rồi vận công dồn chân khí sang. Con ngựa đang mệt mỏi, bỗng đưng một nguồn nội lực hùng mạnh dồn vào hai chân. Bao nhiêu cái mệt mỏi biến hết. Nó vui mừng, hý lên một tiếng lớn. Trong khi ngựa của Hòa Khâm mệt quá, phải hạ hai vó trước xuống. Tướng Lê Tần nói : - Cuộc đấu thuật kỵ mã phần một kết thúc. Bên Đại-Việt thắng. Bây giờ hai bên đổi ngựa, đấu phần thứ nhì là cỡi ngựa không yên cương, rồi cho ngựa lồng. Hai bên cùng thúc ngựa ra. Lần này chính Nguyên-Phong hoàng đế đánh một tiếng trống. Cả hai cùng thúc chân vào bụng ngựa. Ngựa lồng lên, nghiêng phải, nghiêng trái, khuỵu vó trước, hất vó sau. Quân sĩ, chiêng trống hai bên cùng thúc vang trời. Nhưng dù ngựa nghiêng ngả thế nào chăng nữa hai kỵ mã vẫn ngồi rất vững trên lưng chúng. Cơ chừng này, không biết bao giờ mới phân thắng bại? Nguyễn Thời là một võ sư, chàng nghĩ được một kế. Lợi dụng lúc Hòa Khâm bị tung lên, chàng chĩa ngón tay phóng một chỉ vào mông ngựa của y. Con ngựa đau quá, hý lên, rồi vọt về trước. Thế là Hòa Khâm rơi xuống đất như trái mít rụng. Lê Tần cười ha hả : - Trong ba cách đấu, bên Đại-Việt thắng hai. Vậy cách thứ ba không cần đấu nữa. Bây giờ hai bên đấu tiễn thủ. Bên Đại-Việt cử Đô-thống Nguyễn Tha. Vậy không biết bên Mông-cổ, vị nào ra tứ giáo ? Triệt Triệt Đô gọi Sung Di : - Tôi xin cử Thiên-phu trưởng Sung Di ! Đệ nhất tiễn thủ Mông-cổ đấu với bên Đại-Việt. Thể lệ đấu tiễn thủ của Mông-cổ rất khủng khiếp : Bên thắng thì sống, bên bại phải chết. Chứ không thể nhân nhượng. Mỗi bên một cây cung với ba mũi tên. Cả hai cùng cỡi ngựa, không mặc áo giáp, đứng đối diện, cách nhau hai trăm trượng (400m), rồi phi ngựa xông lại phía đối thủ, dương cung bắn nhau. Hai bên gò cương, nhìn nhau. Sung Di nạp tên vào cung sẵn, còn Nguyễn Tha một tay cầm cung, một tay cầm tên. Triệt Triệt Đô đánh một tiếng trống, Sung Di thúc ngựa vọt tới. Trong khi Nguyễn Tha giật cương cho ngựa chạy vòng tròn. Khi hai ngựa cách nhau hai mươi trượng, Sung Di buông tên. Mũi tên xé gió hướng lưng Nguyễn Tha. Nguyễn Tha chờ cho tên sắp tới lưng, thì vòng tay ra sau bắt lấy. Quân sĩ hai bên reo hò vang dội. Sung Di gò ngựa đứng lại. Y nói : - Người không dám đấu với ta, mà bỏ chạy như vậy thì không phải là anh hùng. Nguyễn Tha cười lớn : - Được rồi ! Bây giờ ta không chạy, cũng không tránh. Ta mà tránh hay chạy thì coi như thua. Quân, tướng hai bên cùng kinh ngạc về lời hứa của Nguyễn Tha. Sung Di rút tên, dương cung. Véo một tiếng, tên hướng giữa mặt Nguyễn Tha bay tới. Giữ đúng lời hứa, Tha ngồi im trên mình ngựa đợi cho tên của Sung Di bay đi rồi, chàng mới buông tên. Mũi tên xé gió bay tới, trúng giữa mũi tên của Sung Di, chẻ làm hai, rồi cùng rơi xuống. Quân sĩ hai bên reo hò, hồi hộp. Sung Di lại buông tên. Lần này Nguyễn Tha ngồi im trên mình ngựa. Mũi tên hướng giữa mặt chàng. Thấy chàng không tránh né, người người đều nghiến răng kinh hãi. Nguyễn Tha há miệng ra, mũi tên trúng giữa miệng chàng. Chàng cắn mạnh, chuôi mũi tên con rung rung không ngớt. Quân cả hai bên cùng rú lên kinh hãi đến tột độ. Nguyễn Tha gọi Sung Di : - Bây giờ đến lượt ta bắn người đây. Chàng buông tên. Mũi tên hướng giữa mặt Sung Di bay tới. Y né người tránh thoát. Nhưng choang một tiếng, đầu y nhức nhối cực kỳ khó chịu. Thì ra Nguyễn Tha đã bắn môt lúc hai mũi, một mũi trúng cái mũ đồng trên đầu y. Sung Di kinh hãi, y phi ngựa chạy vòng vòng. Nguyễn Tha phi ngựa đuổi theo, chàng nói lớn : - Lần đầu ta tha cho nhà ngươi. Bây giờ ta bắn đứt giây cương của nhà ngươi đây này. Mũi tên xé gió bay đến, phựt một tiếng, giây cương bị tiện đứt. Con ngựa không cương, nó nhảy lung tung. Nguyễn Tha lại hô lớn : - Ta bắn trúng mông ngựa người đây. Chàng buông tên, mũi tên bay tới trúng mông ngựa của Sung Di, con ngựa lồng lên, thì mũi thứ nhì trúng giữa lưng y. Sung Di ngã lộn xuống đất. Triệt Triệt Đô thấy cuộc thi, bên mình bị bại, y cầm cờ phất lên. Quân Mông-cổ ào ào xung vào trận Đại-Việt. Nguyên-Phong hoàng đế, lùi vào trong trận. Cửa trận mở ra, Ngưu-binh, Kỵ-binh, Tượng-binh cùng lao vào vòng chiến. Trên trời, Lôi-tiễn chụp xuống đầu quân Mông-cổ. Cuộc chiến cực kỳ khốc liệt. Một bên là những chiến sĩ từng tung hoành từ Đông sang Tây, từ Nam ra Bắc. Một bên là những chiến sĩ ngút lửa lòng yêu nước, giữ nước. Nguyên-Phong hoàng đế đứng đốc chiến. Cạnh ngài là Vũ-vệ thượng tướng quân Đỗ Thanh chỉ huy đội Thị-vệ 3 trăm người, toàn những võ sĩ trẻ, được luyện tập đặc biệt để chống chiến thuật sung sát của Lôi-kỵ Mông-cổ. Vì vậy đã ba bốn lần, đội Lôi-kỵ xung vào mong bắt sống nhà vua, đều bị đẩy lui. Mỗi lần như vậy, có hàng mấy chục Lôi-kỵ bị đánh ngã. Vũ-kỵ thượng tướng quân Lê Tần đứng nhìn trận chiến, ông nghĩ : - Hồi nghị kế, Hưng-Đạo vương đã định rằng, trong lúc xung sát phải tìm cách giết những tướng bậc trung của chúng ở cấp Thiên-phu, Vạn-phu, thì mới mong hàng ngũ của chúng bị loạn. Thế nhưng, bên phía Mông-cổ, các Thiên-phu trưởng đều được những võ sĩ bảo vệ cực cẩn mật. Làm sao bây giờ ? Thôi ta cho rút lui, chờ chúng đuổi theo, rồi dùng cung thủ núp trong bụi rậm mới giết được chúng. Giữa lúc đó, pháo nổ liên tiếp, rồi quân reo dậy đất. Từ phía trước, Lôi-kỵ hàng hàng lớp lớp lao đến như bay. Biết rằng đại quân của Ngột-lương Hợp-thai đã tiếp viện. Ông cầm cờ phất. Thế trận Việt lập tức biến đổi. Bộ binh lùi lại phía sau, rồi tỏa vào khu đồng cỏ mênh mông, với những lối đi nhỏ hẹp nằm trên bùn lầy. Tượng binh, Kỵ-binh vừa đánh vừa lùi. Nguyên-Phong hoàng đế có đội Thị-vệ hộ tống. Ngài vẫn đứng chỉ huy cuộc lui binh. Tướng Lê Tần, phóng lên trước cầm cương ngựa của ngài mà can : - Hoàng thượng. Hoàng thượng không nên ham chiến. Ví như ta chỉ đánh có một trận, thì Hoàng-thượng hãy tiến trước ba quân để làm gương. Cuộc chiến còn dài, Hoàng-thượng còn phải chiến đấu còn nhiều. Xin Hoàng-thượng hãy rút lui. Nhà vua tỉnh ngộ, ngài cùng Đỗ Thanh cho Thị-vệ từ từ lùi về sau. Nhưng trận Mông-cổ rẽ ra, một đội võ sĩ khoảng hơn 3 trăm người, chia làm ba mũi, do Triệt Triệt Đô, Hoài Đô, A Truật chỉ huy xung vào trận Việt, hướng chỗ Nguyên-Phong hoàng đế. Biết rõ thâm ý địch, định bắt sống nhà vua, tướng Đỗ Thanh chỉ tay một cái, ba đô thống Trần Đình, Nguyễn Thời, Nguyễn Tha cùng dàn Thị-vệ ra cản lại. Chỉ một chưởng, bọn Triệt Triệt Đô đã đánh bật ba đô thống sang bên cạnh. Y bay người lên khỏi mình ngựa, nhấp nhô mấy cái, đã đến trước hoàng đế, tay y phóng chưởng tấn công ngài. Thấy chưởng phong quá hung dữ, ngài vọt người khỏi mình ngựa, tà tà đáp trên lưng một thớt voi. Ba đô thống vây y vào giữa. Giữa lúc đó thì A Truật phát chưởng đánh vào hông trái ngài. Nhận ra đó là một chiêu trong Hoa-sơn chưởng, ngài phát chiêu đỡ. Binh một tiếng. Cả ngài lẫn A Truật đều cảm thấy nghẹt thở. Giữa lúc ngài choáng váng, thì phía sau chưởng Hoài Đô đổ ụp lên lưng. Nhưng tướng Đỗ Thanh đã xỉa kiếm vào lưng Hoài Đô cứu chúa. Thế là Đỗ Thanh đấu với Hoài Đô. Nguyên-Phong hoàng đế đấu với A Truật. Ba đô thống đấu với Triệt Triệt Đô. Trong khi đoàn Thị-vệ đấu với đội võ sĩ. Sáu cặp, cùng hai đoàn võ sĩ đấu với nhau trong một khu đất hẹp, vô tình ngăn giữa quân Đại-Việt với Mông-cổ. Đây là khu đất thóp hậu, quân Mông-cổ tuy đông, nhưng không đủ chỗ tiến lên. Chúng chỉ biết đứng reo hò. Ngột-lương Hợp-thai chửi : - Tổ bà nó ! Bọn này quá thông thạo chiến pháp của Thành-cát Tư-hãn. Chúng chọn khu này, hoàn toàn lợi thế để rút lui. Đạo Tượng-binh đã lùi vào những con đường nhỏ, giữa các lũy tre cao vút. Tiếp theo tới đạo Kỵ-binh. Chỉ còn đạo Ngưu-binh. Hai tướng trâu là Dã Tượng, Hĩm Còi tay cầm tù và, chuẩn bị ra lệnh cho trâu...tác chiến. Tuy là một bác học, lại là một đại tôn sư của phái Đông-a, nhưng Đỗ Thanh đấu với Hoài Đô ngang tay, vì võ công y là thứ võ công rất lạ. Còn Nguyên-Phong hoàng đế đấu với A Truật có vẻ yếu thế. Tuy nhiên võ công của ngài là võ công Đông-a, còn võ công của y là võ công Hoa-sơn, nên nhất thời ngài chưa bị bại. Còn ba đô thống đấu với Triệt Triệt Đô thì yếu thế rõ ràng. Bởi ba người chỉ giỏi về xung phong, hãm trận, chứ về võ công thì chỉ là cao thủ bậc trung. Còn tướng Lê Tần, tuy võ công cao tuyệt đỉnh, nhưng ông phải đứng trên lưng một bành voi đốc chiến. Trong khi trận chiến khốc liệt diễn ra, thì chim ưng mang lệnh của Hưng-Đạo vương tới: " Mặt trận bên sông, Thủy-quân thắng lớn. Trận Bình-lệ-nguyên chỉ với mục đích dụ cho địch tiến sâu, tiến mau vào đồng bằng. Địch có 20 vạn, ta chỉ có hơn vạn. Không nên kéo dài. Hãy rút ngay. Đó là kế an toàn". Lê Tần bỏ lệnh vào túi, rồi cầm cờ ban lệnh lui binh. Về phía trận đấu võ, vẫn dằng dai. Hơn khắc trôi qua, A Truật quát lên một tiếng, y phát chiêu trong bộ trấn sơn chưởng của phái Hoa-sơn. Nguyên-Phong hoàng đế bị đánh bật tung về sau, lảo đảo muốn ngã. Quyết không tha, A Truật dáng xuống một chiêu nữa. Y quát lớn: - Chết này! Trong khi tuyệt vọng, nhà vua phát bừa một chiêu, đỡ chưởng của A Truật. Hai chưởng gặp nhau, A Truật bị bật tung về sau, kình lực bị mất hết. Y kinh hoàng đến đờ người ra. Vốn là bậc trí tuệ siêu phàm, Nguyên-Phong hoàng đế nhận ngay ra rằng, sở dĩ A Truật thất bại, vì y dùng võ công trong Vô-trung kinh. Còn ngài vô tình xuất chiêu trong bộ Lôi-giáng Hoa-nhạc, mà tổ tiên ngài đã mất biết bao tâm huyết sáng tạo ra chỉ để khắc chế võ công trong Vô-trung kinh. Ngài đánh liền hai chưởng nữa, A Truật bị bật tung lên cao, rồi rơi xuống. Đứng lược trận, Ngột-lương Hợp-thai thấy con mình lâm nguy. Y tung người lên, xả một đao vào lưng ngài, để ngài phải thu chiêu về tự cứu. Thấy chiêu số hung ác của đao, nhà vua rút kiếm vòng ra sau đỡ. Choang một tiếng, kiếm của ngài vuột khỏi tay bay lên cao, ngài vòng tay bắt lấy kiếm... trong khi đao của Ngột-lương Hợp-thai cũng văng đi xa. A Truật thoát chết, nhấp nhô mấy cái, y rời khỏi trận chiến, tay đoạt một thanh đao, nhảy vào cùng cha, quyết bắt nhà vua. Cũng đúng lúc đó, 3 đô thống Trần Biên, Nguyễn Thời, Nguyễn Tha bị trúng chưởng của Triệt Triệt Đô bay tung lại sau. Y không cần truy kích đối thủ, mà quay lại, rút kiếm tấn công nhà vua. Bị ba đại cao thủ bao vây, nhà vua tung mình nhảy vào giữa trận của Ngưu-binh. Dã-Tượng, Hĩm Còi hú lên một tiếng dài, đàn trâu lăn xả ra cưú chúa. Nhưng cả ba cao thủ cùng vọt người theo ngài, chúng nhảy từ lưng trâu này sang lưng trâu khác, tay xả vũ khí, quyết giết nhà vua. Trong khoảnh khắc nguy hiểm, tính mệnh như treo trên sợi tóc, Nguyên-Phong hoàng đế vẫn bình tĩnh múa kiếm chống trả. Song chỉ được ba chiêu, kiếm của ngài bị đánh văng lên không. Ngột-lương Hợp-thai xả một đao vào hông trái ngài, Triệt Triệt Đô thích đao vào ngực ngài, trong khi đó A Truật quay kiếm đâm vào lưng ngài. Ngài than thầm : - Phen này, ta ắt không còn đất sống rồi. Giữa lúc đó, thấp thoáng bóng nâu, ba người từ trận Ngưu-binh xẹt tới, rồi choang, choang, choang. Vũ khí của bọn Ngột-lương Hợp-thai rơi xuống đất. Nhà vua nhìn lại : Cả ba dùng tay trái đang ôm cườm tay phải, máu chảy đầm đìa. Ba bóng nâu là ba ni sư, mặt bịt kín. Cả ba chống kiếm nhìn bọn Ngột-lương Hợp-thai. Trong ba sư thái, Nguyên-Phong hoàng đế thấy một vị, tuy mặt che vải, nhưng từ vai, tới lưng, cánh tay rất quen thuộc rất thân ái. Mà nhất thời ngài không nhớ đã gặp Bồ-tát tại đâu ? Ngột-lương Hợp-thai hất hàm hỏi ba ni sư : - Không biết ba sư thái đây xưng hô thế nào ? Tại sao lại đánh trộm anh em chúng tôi như vậy ? Phải chăng đó là tác phong của danh gia ? Một ni sư trả lời bằng tiếng Mông-cổ, giọng đầm ấm : - Bọn bần ni trực diện xuất chiêu, mà bảo là đánh trộm ư ? Bà chỉ vào nhà vua : - Vậy ba vị vây đánh một người là tác phong của Thái-sư Mông-cổ chăng ? Hoài-Đô trả lời ngang : - Đây là chiến trường, chứ không phải là đấu trường của võ lâm, mà bàn luật với lệ. Ba ni sư thõng tay, đứng dàn hàng ngang trước Nguyên-Phong hoàng đế, cả ba không nói không rằng. Ngột-lương Hợp-thai chợt nhớ lại tin tức Tế-tác cung cấp. Y cười nhạt : - Thì ra Lĩnh-Nam tam đại thần kiếm Vô-Ảnh, Vô-Sắc, Vô-Huyền đấy. Rất mong được chỉ giáo. Nghe Ngột-lương Hợp-thai nói, trong tâm Nguyên-Phong hoàng đế rúng động : - Thì ra...Thì ra...Hèn gì mình trông quen quá. Dù trước trận, trong khi quân Việt, Mông chém giết nhau, dù tính mệnh như bị treo trên sợi tóc, Nguyên-Phong hoàng đế dán mắt vào Vô-Huyền bồ-tát, miệng ngài cảm thấy đăng đắng: - Hỡi ơi! Người...Người lại lăn xả vào vòng muôn nghìn đao, tên cứu ta. Thì ra người không hận thù ta. Trong khi ta phụ người quá nhiều... Vô-Ảnh bước ra : - Bọn bần ni tránh chỗ hồng trần, lui vào chốn không môn, chẳng muốn ra chốn thế tục làm chi. Nhưng dù đi tu, bọn bần ni cũng không quên bổn phận mình là con dân Đại-Việt. Nay đại quân Mông-cổ muốn san bằng đất nước của bọn bần ni, nên bọn bần ni phải lăn vào thế tục. Hoài-Đô vung đao chém vào quãng không ba chiêu : - Xin được lĩnh giáo. Vừa dứt lời, y xả một đao xé gió vào mặt Vô-Ảnh. Vô-Ảnh vẫn đứng im, khi đao sắp tới đỉnh đầu bà, chỉ thấy ánh thép lóe lên, rồi choang, đao của Hoài-Đô đã rơi xuống đất. Vô-Ảnh tra kiếm vào vỏ đến cạch một tiếng. Hoài-Đô kinh hãi than : - Phải chăng là Mê-linh kiếm pháp ? - Đúng vậy ! - Vừa rồi tiểu tướng chưa chuẩn bị, như vậy không kể. Y nhặt kiếm, khòm khòm lưng đứng trung bình tấn, mắt mở to nhìn Vô-Ảnh. Vô-Ảnh hỏi : - Tướng quân chuẩn bị xong chưa ? - Chờ ! Tay trái Vô-Ảnh bắt kiếm quyết, tay phải để tay vào đốc kiếm : - Bần ni cắt bao đựng tên của tướng quân đây. Ánh thép lóe lên, bà vòng kiếm một cái, bao đựng tên của Hoài-Đô bị rơi xuống đất. Lần này Hoài-Đô nhìn rất rõ Vô-Ảnh rút kiếm ra chiêu. Y định vung đao gạt, nhưng bà ra tay thần tốc quá. Y chưa kịp đỡ, thì bao đựng đao đã rơi xuống đất. Không nhân nhượng, Hoài-Đô lăn xả vào đánh liền mười chiêu thần tốc. Vô-Ảnh cũng rút kiếm trả đòn. Nhưng sau mười chiêu, kiếm y lại bị rơi xuống đất. Y cảm thấy cổ bị đau nhói, thì ra mũi kiếm của Vô-Ảnh đã chĩa vào huyệt Nhân-nghinh của y. Lòng nguội như tro tàn, Hoài-Đô văng tục : - Tổ bà nó, không phải sư thái giỏi hơn ta, mà tài trí tổ tiên ta không bằng tài trí tổ tiên sư thái. Sư thái giết ta đi cho rồi. Trong khi sáu người đối thoại, thì Đỗ Thanh với bọn Thị-vệ hộ tống nhà vua chạy vào trong trận Ngưu-binh, rồi tiến ra phía bờ sông. Ngột-lương Hợp-thai biết muôn ngàn lần bọn mình không phải là đối thủ của Lĩnh-Nam tam đại thần kiếm. Y hô một tiếng, cả ba lùi vào trận Mông-cổ. Thấy nhà vua chưa tới bờ sông, y vội ra lệnh cho một Thiên-phu Lôi-kỵ : - Địa thế hẹp, người chia binh thành từng bách phu xung vào diệt đội trâu kia ngay. Nhà vua đã tới gần bờ sông. Càng ra phía bờ sông, địa thế càng rậm rạp, đường đi lầy lội. Lôi-kỵ phải ngừng lại. Chúng dương cung bắn theo. Vô-Ảnh, Vô-Sắc, Vô-Huyền múa kiếm như một làn thép bao phủ, gạt tên rơi xuống đất. Nhà vua, Lê Tần, Đỗ Thanh cùng đội Thị-vệ đã xuống thuyền. Tên bắn ra như sao sa. Lê Tần cầm Khiên-mây che cho nhà vua. Đỗ Thanh dương cung bắn một lúc ba mũi, 3 viên Bách-phu bị trúng tên, ngã lộn xuống ngựa. Khi thuyền ra khỏi tầm tên, thì Khiên-mây của Lê Tần bị tên ghim như lông nhím.