Sau khi bàn với Mỹ-Vân, nó tập họp các Khả-hãn Tây-hồ lại, nói : - Anh em chúng ta hoạt động ở Thăng-long đã mấy năm. Bây giờ các em đều lớn, võ công các em cao, kiến thức rộng, lại kinh nghiệm. Ta muốn phân chia các em đi khắp Đại-Việt. Mỗi em phụ trách một trấn, hay một huyện, quy tụ bọn thiếu niên cùng khổ đem về luyện văn, dạy võ. Mỗi huyện, mỗi trấn sẽ rập khuôn theo tổ chức Thăng-long. - Bao giờ thì thi hành ? Anh định chia vùng ra sao ? - Trước hết chúng ta hãy đi Phong-châu, làm lễ tế cáo trước đền thờ Quốc-tổ, Quốc-mẫu đã. Bọn trẻ vỗ tay hoan hô. Khả-hãn Nhất-Hào xoa tay vào nhau tỏ vẻ thích thú : - Anh đã nhiều lần kể chuyện vua Hùng dựng nước. Các em từng đọc sách rằng vua Hùng đóng đô ở Phong-châu. Bây giờ anh em chúng ta mới được hành hương đền thờ vua Hùng. Hà! - Bàn vậy thôi chứ. Còn lâu lắm. Mỹ-Vân giảng giải : - Ngày giỗ vua Hùng là mùng 10 tháng 3. Vào ngày đó, cả nước đều trẩy có hội. Bây giờ là tháng tư. Còn lâu mới tới ngày hội. - Đi lễ vua Hùng cũng như thăm cha, thăm mẹ. Lúc nào mà chả được, việc gì phải chờ đến ngày giỗ ? Bọn Khả-hãn reo lên mừng rỡ. Khả-hãn Ngũ-Hào hỏi : - Bao giờ chúng ta đi ? - Ngày kỉa. Bọn trẻ reo mừng. Ghi chú của thuật giả: Tiếng Việt cổ : Ngày kỉa tức sau ba ngày. Ngày kìa, sau bốn ngày. Ngày kĩa, sau năm ngày. Hôm kỉa, trước ba ngày. Hôm kìa, trước bốn ngày. Hôm kĩa, trước năm ngày. Mỹ-Vân đề nghị: - Trước kia thì chúng ta chỉ có Đại-hãn, tôi, với 18 em. Vỏn vẹn có hai mươi người. Bây giờ số thiếu niên ăn mày, kẻ cùng khổ trong các trang ấp...lên tới hàng mấy vạn. Ta phải đặt ra một cái tên để gọi cho tiện. Vậy sư huynh ngĩ sao? - Đúng đấy! Để tránh việc bọn mặt dơi, tai chuột bàn ra tán vào, ta cần đặt một cái tên có nguồn gốc. Tôi nghĩ ta nên đặt là Văn-lang, Âu-lạc, Lạc-Long quân, Âu-Cơ... hay Lĩnh-Nam, Đại-cồ Việt chẳng hạn. Cả bọn bàn luận một lúc, rồi quyết định chọn tên là Lĩnh-Nam, vì thời Lĩnh-Nam, vua Trưng đã quy tụ anh hùng các nơi rồi khởi nghĩa! Nhất Anh hỏi: - Về vụ đi Phong-châu, Đại-hãn định sao? Thủ-Độ chỉ Mỹ-Vân : - Anh không quen việc này. Để anh Thanh-Tuyền thống lĩnh chúng ta. Mỹ-Vân phân chia nhiệm vụ : - Chúng ta có hai mươi người. Mỗi xe chỉ chở được sáu người. Vậy chúng ta thuê năm xe. Ba xe cho 18 người. Còn hai xe chở hai người với lễ vật. Nàng chỉ Khả-hãn Nhất-Anh, Nhất-Hào : - Chúng ta khởi hành từ bến Bắc-ngạn. Vậy hai em đặt thuê sẵn năm xe ngựa trong ba ngày. Lại đặt hai con lợn quay lớn, mười con gà trống luộc, năm mâm xôi, mười mâm ngũ quả, mười bó hoa, mười chai rượu, cùng hương, nến. Ngày kỉa, chúng ta dậy sớm, đến bến Long-biên lúc giờ Mão, đi đò sang Bắc-ngạn, rồi giờ Thìn thì khởi hành. Tối hôm đó, Thủ-Độ tập trung các Khả-hãn lại, rồi Mỹ-Vân giảng về nguồn gốc tộc Việt : Khởi đầu từ việc vua Minh tế cáo trời đất ở núi Thiên-đài phân chia Nam thành Lĩnh-Nam, Bắc thành Trung-nguyên. Rồi chuyện Quốc-tổ Lạc-long quân kết hôn với Quốc-mẫu Aâu-cơ đẻ ra trăm con. Chuyện bánh chưng bánh dầy. Chuyện vua Hùng sai cống con rùa trên ghi chép phép làm lịch, mục đích truyền phép làm lịch sang Trung-nguyên. Chuyện phò mã An-Tiêm với dưa hấu. Chuyện công chúa Tiên-Dung với phò mã họ Chử. Chuyện Phù-đổng thiên vương đánh giặc Aân, sau ngài là tổ sư phái Sài-sơn. Chuyện phò mã Sơn-tinh, tổ sư phái Tản-viên. Sau khi Mỹ-Vân giảng xong, Thủ-Độ gọi hàng phở tới để anh em cùng ăn phở gà. Thủ-Độ vừa bưng bát phở lên thì Tiểu-hãn vùng Cổ-ngư tới trao cho Thủ-Độ một thanh tre : - Thưa Đại-hãn, có cô gái ở trên con thuyền tại bến Tương-Dung gửi cái này cho Đại-hãn. Mặt Thủ-Độ nóng bừng. Nó biết Kim-Dung gửi cho nó. Nó cầm thanh tre lên xem, bất giác nó ngẩn người ra, vì thanh tre chỉ có mấy chữ Trên con thuyền nhỏ tại Trấn-quốc tự. Nét chữ rất quen thuộc, dường như nó đã thấy ở đâu rồi. Như vậy là Kim-Dung hẹn nó ra chùa Trấn-quốc. Từ Tây-hồ thủy-xá đến chùa Trấn-quốc khoảng một dặm. Nó lấy cây cung đeo vào vai, rồi dùng khinh công đi liền. Tới nơi, Thủ-Độ không phải tìm kiếm, đã thấy ngay trên bến đò cạnh cổng chùa Trấn-quốc, một con thuyền đánh cá nhỏ đậu đó. Tiếng đàn văng vẳng vọng ra. Thủ-Độ định lên tiếng, thì có tiếng Kim-Dung : - Nhanh thực. Ông vua ăn mày có khác. Kim-Dung ngồi trong khoang vén màn, vẫy tay : - Xuống đây ! Thủ-Độ tung mình nhảy xuống thuyền. Kim-Dung cầm sợi giây giật mạnh, cánh buồm dương lên, con thuyền từ từ rời bến. Thuyền ra giữa hồ thì mặt trời đã nghiêng bóng. Thình lình Kim-Dung phát một chiêu chưởng Đông-a tấn công Thủ-Độ. Nó nhận ra đó là chiêu Đông-hải lưu phong. Không dám coi thường, nó vận công ra chiêu Lạc-nhạn băng sơn của Hoa-sơn đỡ. Binh một tiếng. Con thuyền tròng trành muốn lật. Thủ-Độ cảm thấy cánh tay tê liệt, tai phát ra tiếng vo vo không ngừng. Nó kinh ngạc hỏi : - Kim-Dung ! Cái gì vậy ? Mặt Kim-Dung xịu xuống : - Người ! Người nói dối ta quá nhiều. - Tôi dối cô nương hồi nào ? - Với công lực của người, người thừa sức bóp chết bọn Gia-thụy ngũ-anh như bóp con dế. Thế mà...Thế mà... hôm người ngất xỉu, mẹ ta với ta cứu người. Người bảo những vết thương trên thân người là do chúng đánh người. Thủ-Độ phân trần : - Công lực mà tôi có do mới luyện tập gần đây. Hồi ấy công lực tôi thấp lắm. - Ta không tin. - Cô nương không tin, thì tôi đành chịu chứ biết làm sao bây giờ. - Công tử là cháu Đàm hoàng hậu, thì cũng là cháu Đàm Dĩ-Mông, thế sao bọn họ Đàm lại chẳng tử tế gì với công tử? Công-tử cũng chẳng tử tế gì với chúng ? - Họ là kẻ thù của tôi. Họ giết mẹ tôi, rồi để che dấu tội lỗi, họ bắt tôi mang họ Đàm. - Tôi cứ tạm tin như thế. Bây giờ tôi xin công tử một chuyện. - Cô nương cứ nói. - Công tử cho tôi lĩnh một chức Khả-hãn vùng Thiên-trường được không ? Thủ-Độ bật cười : - Vùng Thiên-trường là nơi bờ xôi giếng mật. Ở đó Thần-nông sứ, Khai-hoang sứ, Hải-hà sứ tổ chức làm cho dân chúng sung sướng như thời vua Hùng, vua Trưng, thì làm gì có ăn mày, làm gì có kẻ cùng khổ mà cô nương muốn làm Khả-hãn? - Bởi vậy tôi mới xin chức đó. Tôi muốn làm Khả-hãn, mà không vất vả gì cả. - Vậy tôi mời cô nương làm phó Đại-hãn với tôi. Không biết cô nương có thuận không ? Kim-Dung chìa ngón tay trỏ ra như hình móc câu. Thủ-Độ cũng chìa ngón tay trỏ ra. Rồi hai ngón tay móc vào nhau. Kim-Dung nói : - Chúng ta thề trọn đời, dùng hết tâm huyết để giúp người nghèo khổ... Thủ-Độ tiếp : - Và...bảo vệ đất nước của Quốc-tổ, Quốc-mẫu, dù việc gì xấu xa mấy cũng làm, bẩn thỉu mấy cũng cam tâm. Miễn giữ được đất nước Việt, bảo vệ được giòng giống Việt. Ghi chú của thuật giả Lời nguyền của Kim-Dung, Thủ-Độ trên hồ Tây, gần chùa Trấn-quốc, đền Trấn-võ là đất linh, gặp giờ linh. Vì vậy, suốt cuộc đời Kim-Dung, Thủ-Độ đã làm không biết bao nhiêu điều đi ngược lại với đạo lý, bị người đương thì, bị lịch sử, và cho đến nay, 1998, trải 990 năm, miệng thế còn dị nghị. Nhưng xét về phương diện đại cuộc quốc gia, thì hai người không hề có một hành vi nào làm tổn hại cả. Kim-Dung nắm lấy tay Thủ-Độ : - Bây giờ chúng ta là chánh, phó Đại-hãn của bang Lĩnh-Nam mày rồi, tức cùng nhà. Chúng ta hãy so tuổi. Ai lớn làm anh làm chị. Ai nhỏ làm em. Hai người cùng đem niên canh bát tự ta. Thủ-Độ lớn hơn mười một ngày. Kim-Dung chắp tay: - Đại- ca. Thủ-Độ đáp lại: - Nhị muội. - Ngày kia Đại-ca đi Phong-châu phải không ? Muội là phó Đại-hãn, muội cũng phải đi với Đại-hãn chứ? - Đúng vậy ! Sao muội biết ? - Muội biết, vì muội tôi biết. Đại-ca là Đại-hãn của ăn mày, thì ai mà không biết. Ở Thiên-trường, ông bà muội, bố mẹ muội, chú bác muội suốt ngày bàn luận về Đại-hãn của ăn mày là một thiếu niên kỳ vỹ, tuổi còn nhỏ, mà làm những việc mà vua Trưng có sống dậy cũng phải khen. Không ngờ về đây, muội mới biết thiếu niên đó lại chính là đứa trẻ khốn nạn, mà mẹ muội cứu khỏi cái chết năm xưa. Kim-Dung lấy ra một cái quả, trao cho Thủ-Độ, miệng nàng chúm chím cười: - Đại ca đói rồi đó! Muội trả nợ đại ca đấy. Thủ-Độ mở quả, bất giác nó ngẩn người ra. Trong quả có một điã xôi với mười con chim sẻ quay. Nhớ lại nét chữ trên thẻ tre, nhìn xôi, chim sẻ quay với câu nói trả nợ. Thủ-Độ bừng tỉnh, toát mồ hôi: - Hỡi ơi! Thì ra cái người theo dõi, hý lộng mình bấy lâu là Kim-Dung. Nào lấy trộm chim sẻ với xôi. Nào đem con gái Kinh-diên quan Phạm Kính-Ân từ đền thờ vua Trưng về Tây-hồ thủy xá. Nào mách mình thắng tên Đoàn Thượng. Nguy thực, nàng ở trong bóng tối, ta ở ngoài sáng. Mọi hành động của ta nàng đều biết. Nhưng ta không sợ, vì nàng là người chính đạo, lại thuộc loại tâm phúc của ta. Kim-Dung cười, mặt nàng như muôn ngàn đóa hoa nở, làm Thủ-Độ ngây ngất: - Đại ca thông minh thực! Sau khi đại ca chôn cái hòm châu báu. Muội trở lại đào lên, viết mấy chữ trêu đại ca. Không ngờ đại ca đã đem đi chỗ khác, rồi lại còn chôn cái hòm đựng gạch để trêu muội nữa chứ! Thủ-Độ cười hì hì. Nó đánh trống lảng: - Dung ơi! Dung đi Phong-châu, mà bố mẹ không nói gì ư? - Bố mẹ có ở Thăng-long đâu? Hai người đang ở Thanh-hóa. Tại Thăng-long muội chỉ có hai ông anh thôi. Mấy hôm rồi muội mải theo dõi đại ca, không thuộc bài, bị ông anh cả đọc cho một bài kinh A-di-đà. Muội giận, bỏ đi với đại ca mấy ngày, để ông ấy tìm cho bõ tức. - Hai ông anh của Dung khó lắm sao? - Không! Hai ông ấy sủng ái muội vô bờ bến. Muội học văn với mẹ, học võ với ông nội. Khi xa mẹ, thì anh cả thay mẹ dậy văn cho muội. Anh ấy thương muội lắm. Bất cứ muội muốn gì anh ấy cũng chiều. Có điều khi học, thì anh ấy nghiêm khắc hơn cụ Khổng nữa. Thành ra lắm lúc muội cảm thấy anh ấy là bố thứ nhì vậy. Còn anh hai thì võ công cao thâm không biết đâu mà lường. Tính tình anh ấy dễ dãi, muội bắt nạt anh ấy luôn. Chợt Kim-Dung chỉ về phía sau: - Đại-ca bàn với Mỹ-Vân rằng muốn bắt tên chánh sứ, phó sứ hay bồi sứ Tống, để điều tra hung thủ sát hại bá mẫu. Phải không ? - Dung thực tinh quái cái gì bí mật của huynh, Dung cũng biết. Ừ ! Anh quả có ý đó, mà e không thực hiện được. - Vì vậy muội mới rủ đại ca chơi thuyền trên hồ Tây để thực hiện điều đó. Đại ca nhìn kìa, từ nãy đến giờ, con thuyền kéo cờ xanh kia cứ theo sau chúng ta hoài. Thuyền của sứ đoàn Tống đó. Không đầy nửa khắc con thuyền cờ xanh đã đuổi kịp con thuyền nhỏ. Trên lá cờ có chữ Thiên-sứ Trịnh Quốc-công. - Em sẽ cho thuyền chạy chậm lại, khiêu khích bọn sứ Tống, rồi bắt một tên. Thủ-Độ thấy mình đã lớn gan mà Kim-Dung còn lớn gan hơn. Nó rùng mình : - Làm thế nào nàng biết hôm nay bọn Tống chơi thuyền trên hồ này ? Hai con thuyền đi song song nhau. Một người đàn ông đứng trên mũi thuyền dơ tay vẫy. Thủ-Độ nhận ra y chính là gã Thiên-sứ Triệu Dụng-Chi: - Cô nương, buổi chiều thu đẹp thế này thực hiếm có. Mời cô nương lên đây cùng chúng tôi uống rượu ngâm thơ. Chiều rồi, làm gì còn cá mà đánh? Kim-Dung ngửa mặt nhìn lên, nàng cười: - Người là ai? Ta không quen biết, thì sao có thể lên thuyền người? Nói rồi, nàng kéo sợi dây buồm. Con thuyền nhỏ vọt lên như tên bắn, phút chốc bỏ xa con thuyền cờ xanh. Lập tức con thuyền cờ xanh cũng kéo hai cánh buồm nữa lên. Trên mũi con thuyền cờ xanh đã thêm ba người là tên phó sứ Lâm Hoài-Đức, đô thống Đặng Vũ và thái giám Đỗ Quảng. Hơn khắc sau con thuyền lớn đã đuổi kịp con thuyền của Kim-Dung. Cả bọn đứng trên sàn thuyền đều reo hò khoái trá. Kim-Dung ngửa mặt nhìn lên: - Cười cái gì? Hãy coi đây! Nàng cầm giây buồm kéo mạnh. Con thuyền nghiêng đi, quay mũi. Chỉ thoáng một cái, đã đi ngược chiều với con thuyền lớn. Đặng Vũ ra lệnh cho tài công: - Quay thuyền lại, đuổi theo. Trên sàn lại xuất hiện hai người nữa. Cả hai đều còn trẻ. Một mặc áo xanh. Một mặc áo hồng. Người áo hồng cầm một sợi giây tung lên. Giây quấn lấy cột buồm của Kim-Dung, rồi kéo mạnh. Con thuyền của nàng bị giật về sau, không chạy được nữa. Y nói lớn: - Tiểu cô nương! Mời cô nương lên đây chơi với chúng ta! Cả bọn trên sàn thuyền đều cười ha hả, tỏ vẻ khoái chí. Tiếng cười chưa dứt, thì Kim-Dung đã cầm chiếc roi nhỏ vung lên, sợi dây trên tay người áo hồng bị đứt. Con thuyền nhỏ lại lao đi vun vút. Kim-Dung vẫy tay: - Các người cười nữa coi nào? Trong bọn người, nếu ai là anh hùng, hãy xuống đây chơi! Bị khiêu khích, người áo hồng tung mình nhảy xuống con thuyền nhỏ. Kim-Dung giật giây buồm, con thuyền lao tới như tên bắn. Người áo hồng rơi tòm xuống hồ. Y vọt người lên như con cá chép, rồi rơi xuống. Chỉ ba lần, y đã đuổi kịp. Lần thứ tư, y tà tà đáp xuống ngay mũi thuyền. Kim-Dung tung người lên xuất chiêu Phong-ba hợp bích hướng vào y. Tuy lơ lửng trên không, nhưng y phản ứng rất nhanh, y xuất một chiêu chưởng rất quái dị đỡ. Binh một tiếng, y lại rơi xuống hồ. Còn Kim-Dung thì lộn ba vòng trên không, rồi đáp xuống thuyền. Nàng cảm thấy ngộp thở, tai phát ra tiếng vo vo. Người áo hồng lại vọt lên, đáp xuống thuyền. Y phóng chưởng tấn công Thủ-Độ : Kim-Dung la lớn: - Đại-ca chớ đỡ chưởng của y! Công lực y cực kỳ hùng hậu. Trong lúc kinh hoảng, Thủ-Độ cầm cái chài, tay vung lên, vô tình nó xuất chiêu Cầm-la trấn thiên, người áo hồng bị chụp cứng như con cá, rơi xuống lòng thuyền nằm bất động. - Đại ca điểm vào huyệt Thính-cung để y không nghe được những gì ta nói. Điểm huyệt Tứ-bạch để y không nhìn thấy những nơi ta đi qua. Thủ-Độ phục Kim-Dung kinh nghiệm hơn nó nhiều. Nó làm theo lời nàng. Người áo hồng bị bắt, làm tất cả bọn trên sàn thuyền la hét, kinh ngạc. Chúng cùng hối thúc bọn thuyền phu chèo thực mau. Con thuyền lớn đã quay mũi lại, đuổi theo con thuyền nhỏ. Kim-Dung điều khiển cho thuyền chạy vào khu trồng sen, thì vừa lúc đó con thuyền lớn đã bắt kịp. Thủ-Độ lấy cung nạp tên dương lên. Mũi tên xé gió hướng cánh buồm con thuyền lớn. Phựt một tiếng, giây buồm bị đứt. Con thuyền quay ngang, rồi từ từ ngừng lại. Thủ-Độ bắn mũi thứ nhì, lại một dây buồm bị đứt. Màn đêm từ từ buông xuống. Kim-Dung bàn : - Chúng ta chạy vào khu này nước nông. Tên Đặng Vũ vốn kinh nghiệm về thủy tính. Y không dám duổi theo nữa đâu. Trong khi y nối giây buồm, muội lặn xuống đục thủng đáy thuyền, cho cha con nhà nó thành cá hết. Nói là làm. Nàng trườn xuống nước. Thủ-Độ nghĩ thầm : - Chỗ này lội xuống chỉ tới ngực. Nếu con thuyền bị chìm, thì bọn sứ Tầu chỉ phải lội nước vào bờ mà thôi, chứ chúng không đến nỗi chết. Không đầy một khắc sau Kim-Dung trở lại. Nàng hô: - Chạy mau. Rồi giật giây buồm. Con thuyền xuyên qua khu trồng sen, lao đi vun vút. Trong khi những tiếng la ơi ới từ phía sau vọng lại : - Nước tràn vào thuyền. - Thuyền thủng đáy rồi. - Chắc thuyền chạm phải cọc ngầm. - Nguy quá ! Thả mủng xuống mau ! - Chỗ này nước nông, không cần thả mủng. Thủ-Độ hỏi Kim-Dung : - Ta xử trí với gã này ra sao ? - Dường như đại ca có ý định bắt tên chánh sứ Tống, khiền cho y một trận để biết rõ ai là chánh phạm trong vụ ám sát bá mẫu thì phải ? Muội nghĩ, ta không cần bắt chánh sứ, mà bắt tên bồi sứ này cũng đủ. Nhưng ta phải thẩm vấn y thực mau, bằng không bọn chánh, phó sứ lên bờ cáo với triều đình. Triều đình sẽ đem Thị-vệ đi bới từng cụm hoa, lật từng viên gạch tìm y. Thuyền đã tới Tây-hồ thủy-xá. Thủ-Độ vác tên áo hồng lên bờ. Mỹ-Vân với bọn Khả-hãn thấy Thủ-Độ trở về cùng Kim-Dung, lại vác một người nằm trong lưới, thì kinh ngạc vô cùng. Thủ-Độ tóm lược những gì đã xẩy ra một lượt, rồi ra lệnh : - Các em sai bọn Tiểu-hãn chia nhau ra canh phòng, trong khi ta hỏi cung tên này. Nó gọi Nhị-Anh: - Em ngồi hỏi cung tên này với anh. Mỹ-Vân dẫn Kim-Dung đi tắm, thay y phục. Thủ-Độ gỡ tên áo hồng ra khỏi lưới, giải huyệt Thính-cung, Tứ-bạch cho y có thể nghe được, nói được. Tên áo hồng mở mắt ra, thấy mình bị đặt ngồi trước hai thiếu niên, một thiếu nữ. Y tự cảm thấy tình hình cực xấu sắp đến. Tuy vậy y vẫn hống hách : - Bọn mi là ai ? Đây là đâu ? Nhị-Anh cười nhạt : - Đây là đâu, tiên sinh không cần biết tới. Tôi muốn tiên sinh trả lời cho tôi ít câu hỏi. Nếu tiên sinh trả lời đầy đủ thì tôi sẽ thả tiên sinh về. Bằng tiên sinh bướng bỉnh, thì tôi giết người, rồi quẳng xác xuống hồ cho cá ăn... Trước hết, cao danh quý tính của tiên sinh là gì ? - Ta không trả lời tên ôn con. Kim-Dung cười dòn dã: - Tiên sinh khai thì thôi, tôi biết tiên sinh họ Đinh tên Hồng, đứng hàng thứ tư trong Tương-giang tứ hổ. Có phải thế không? - ?!?!?! - Người đứng đầu trong Tương-giang tứ hổ là Đinh Hoàng, có mỹ danh là Độc-thủ đế quân, nức tiếng Trung-nguyên. Người thứ nhì là Đinh Huyền, nức danh Trung-nguyên về kiếm thuật. Người thứ ba là Đinh Thanh, được giang hồ tặng danh hiệu Trường-giang thần quyền. Còn tiên sinh là Đinh Hồng, danh trấn giang hồ về bộ Hóa-huyết chưởng. Tương-giang tứ hổ đều là bồi sứ! Có đúng không. - !!! Nhị-Anh hỏi: - Tôi muốn biết một vài chi tiết về sứ đoàn. Mong Đinh tam tiên sinh giúp cho. - Ta không trả lời. Vì bọn bay dùng thủ đoạn hèn hạ bắt ta. Ta không phục. - Tiên sinh nói lạ. Kim-Dung giảng giải: Tiên sinh nhảy vào thuyền chúng tôi. Vị đại ca của chúng tôi dùng một chiêu trong Thiên-la thập bát thức bắt tiên sinh. Như vậy sao gọi là thủ đoạn hèn hạ? - Các ngươi là ai? Mỹ-Vân hứ một tiếng: - Chúng tôi thẩm vấn tiên sinh hay tiên sinh thẩm vấn chúng tôi đây? - Ta không trả lời, xem bọn mi làm gì ta. - Vậy thì được. Nàng đưa mắt cho Nhị-Anh : - Em đem cho ta ít con rắn ! Ở cùng Mỹ-Vân tuy không lâu ngày, nhưng Nhị-Anh biết ông anh này muốn dọa tên áo hồng mà thôi. Nàng hỏi : - Nhà nuôi nhiều rắn quá. Không biết anh muốn dùng loại nào ? Có loại không độc. Có loại kịch độc ! - Loại kịch độc. Nhị-Anh đứng lên, nàng mang vào một giỏ rắn, tay trái bắt ra hai con bằng cái đũa : - Đây, con rắn xanh biếc này cắn trúng ai thì chết trong một khắc. Còn con mầu vàng này cắn trúng ai, thì chết trong một giờ. Tiên sinh muốn chết trong một khắc hay một giờ? Nhìn con mắt sáng long lanh, ngỗ nghịch của Nhị-Anh, Mỹ-Vân biết cô em này hiểu ý mình. Nàng gật đầu, tỏ ý cứ dọa nữa đi. Nhị-Anh tung con rắn xanh vào người Đinh Hồng. Con rắn táp một miếng vào má y, rồi bò quanh cổ cắn một miếng nữa. Nó ngừng lại ngửi ngửi, thình lình nó chui vào trong áo, xuống ngực, bụng, mỗi nơi nó đều cắn một miếng, rồi chui lên. Đinh Hồng bở vía: - Tôi khuất phục! Tôi xin khai. Quả thực tôi là Đinh Hồng. Tôi là đệ tứ bồi sứ. - Trước hết tiên sinh cho tôi biết : Ngoài số vàng bạc do công khố Đại-Việt trao cho sứ đoàn ra, còn có bao nhiêu châu báu nữa. Châu báu đó ai trao cho ? - Tôi không nhớ rõ có bao nhiêu châu báu. Nhưng tôi biết do ba người dâng hiến. Một là của vợ của Thái-úy Đàm Thì-Phụng, hai là của vợ Thái-sư Đàm Dĩ-Mông. Ba là của Đàm hoàng hậu. - Trong số những cống vật đóù, tiên sinh thấy có gì khác lạ không ? - Có. Thái-úy Đàm Thì-Phụng đưa ra ba hộp sâm Cao-ly bằng bạc. Mà thực là lạ lùng, vì trên nắp hộp lại khắc hình con chim ưng quốc huy của nước Mông-cổ. - Xin tiếp đi chứ ? - Còn châu báu thì do Đàm hoàng hậu trao cho chúng tôi...Xin cho tôi uống thuốc giải nọc rắn rồi tôi sẽ khai hết. Nhị-Anh cười khúc khích : - Không vội. Nọc rắn này sau một giờ mới làm chết người. Bồi-sứ đại nhân, ngài còn tới mười khắc để khai mà. Khi ngài khai xong, tôi sẽ dâng thuốc giải. Nếu ngài khai xong trước một giờ, thì mọi sự tốt đẹp. Nếu sau một giờ, mà ngài chưa khai xong thì nọc rắn sẽ đưa ngài về hầu đức Thái-tổ Triệu Khuông-Dẫn. Mỹ-Vân hỏi tiếp : - Cống cho Tống là do triều đình. Thế sao vợ Đàm Thì-Phụng, Đàm Dĩ-Mông, Đàm hậu cũng phải đem tư trang trao cho sứ Đoàn ? Thấy Trịnh Hồng trầm ngâm, Mỹ-Vân nói bâng quơ : - Khai chậm thế này thì sẽ chết. Không biết mình nên đốt hay chôn cái xác này để phi tang đây ! Đinh Hồng bở vía : - Đàm hoàng hậu muốn ngài chánh sứ về tâu với triều đình rằng nhà vua bị chứng điên khùng. Giòng họ Lý không còn ai. Trong khi đó công chúa Thụy-Hương muốn tôn người tình cũ là Trần Thủ-Huy lên ngôi vua. Thủ-Huy là người có tài nghiêng trời lệch đất. Nếu như y lên ngôi vua, tất cất quân tái chiếm vùng Lưỡng Quảng. Vậy Tống triều nên phong cho Đàm Thì-Phụng lên làm vua, thì Nam phương không những yên tĩnh, mà An-Nam còn chịu binh dịch, cung ứng lương thảo cho Thiên-triều. Thủ-Độ muốn điều tra về cái chết của mẹ mình, mà không muốn cho Mỹ-Vân, Kim-Dung biết. Nó nói: - Nhị đệ với Kim-Dung tạm lui, huynh sắp lột quần áo tên này ra để khám xét trên người chúng. Mỹ-Vân, Kim-Dung bật cười, rồi vào nhà trong. Thủ-Độ hỏi Đinh Hồng: - Đinh tứ tiên sinh! Xin tiên sinh cho biết tại sao Tống triều lại ám hại công chúa Đoan-Nghi ? - Tống triều không chủ tâm giết Đoan-Nghi, mà chỉ muốn giết Thủ-Huy. - Tại sao ? - Thủ-Huy với Đoan-Nghi phá vỡ đại kế biến vùng Thảo-nguyên thành phiên bang. Tiếc rằng Thủ-Huy không về, thành ra chỉ có mình Đoan-Nghi chết. - Thế ai là người thi hành vụ bày ? - Tống Thiên-tử ban mật chỉ cho Đàm Thì-Phụng, Đàm Dĩ-Mông làm. - Thế người đàn bà bị công chúa cắt tai, rạch mặt. Gã đàn ông bị chặt cụt tay là ai ? - Điều này Đàm Thì-Phụng không tâu lên Tống triều, nên Khu-mật viện không biết. Biết không khai thác gì hơn nữa, Thủ-Độ phóng tay điểm huyệt Thính-cung, Á-môn, Tứ-bạch của Đinh Hồng, rồi gọi Kim-Dung, Mỹ-Vân : - Tha hay giết tên này ? - Không nên giết. Kim-Dung đề nghị : - Bây giờ ta tìm cách đem tên này bỏ vào nhàn giam trong phủ Thái-úy Đàm Thì-Phụng, rồi tìm cách báo cho sứ đoàn biết. Sứ đoàn ắt sai người mật dò thám, rồi giải cứu y ra. Thế là ta chia rẽ được giữa họ Đàm với Tống. Mỹ-Vân tiếp : - Trong khi dùng xe chở y đi. Ta cố ý đụng vào huyệt Ngoại-quan, giải huyệt Thính-cung của Đinh Hồng để y nghe được. Rồi ta bàn bạc với nhau rằng Thì-Phụng sai chúng ta làm việc này. Đoàn xe năm chiếc chở toàn thể đám thiếu niên đầu não của bang Lĩnh-Nam...lăn bánh. Vó ngựa khua lóc cóc, lẫn với tiếng cười nói ồn ào, tiếng bánh xe lăn, cuốn bụi bốc cao vượt qua con đường đầy cỏ xanh tươi. Trên chiếc xe dẫn đầu, Thủ-Độ, Mỹ-Vân, Kim-Dung phóng mắt nhìn về trước. Mỹ-Vân chỉ vào ngọn núi xa xa, chân núi, sườn núi, đỉnh núi ẩn hiện trong đám mây trắng những căn nhà ngói đỏ, tường trắng, nổi bật lên giữa rừng xanh ngắt: - Kia núi Hy-cương kia! Mỹ-Vân giảng giải: - Đền thờ, lăng Quốc-tổ ở trên đó. Chúng ta phải vượt qua một quãng đường mười dặm nữa, sẽ có ngã rẽ. Từ ngã rẽ, vào tới đền khoảng năm dặm. Kim-Dung hỏi: - Này Mỹ-Vân này! Tôi nghe nói đền thờ vua Hùng ở trên núi Nghĩa-lĩnh, sao chị lại bảo là ở núi Hy-cương? - À, núi này có nhiều tên khác nhau. Tên cổ là Hy-cương. Đến thời vua Trưng đổi là Nghĩa-lĩnh hay Nghĩa-cương. Lại có tên là Bảo Thiếu-lĩnh. Còn dân chúng thì gọi là núi Cả. Núi nằm trên thôn Cổ-tích, xã Hy-cương, thuộc Phong-châu. Khi xưa, vua Hùng tuần du khắp đất nước, cuối cùng ngài chọn khu đất linh này làm kinh đô. Chính nhờ thế đất quy tụ khí thiêng của tạo hóa, bao phủ ngôi đền, mà đất nước ta mấy nghìn năm, vẫn ngạo nghễ với Trung-quốc. - Sư muội nói rằng thế đất linh, nghĩa là??? Mỹ-Vân chỉ tay về núi Hy-cương: - Nước ta, cổ còn có tên là Viêm-bang. Trong văn chương, Viêm là Hỏa, thuộc phương Nam. Thì, kìa đỉnh núi, nơi có đền thờ hình như đầu rồng hướng về Nam. Lưng rồng uốn vặn làm ba khúc là Đột-ngột cao-sơn, Áp-sơn, Viễn-sơn. Phía trước có hàng chục quả đồi thấp, giống như đàn rùa bò từ ao nước lên chầu vào. Trên núi Hy-cương, có bốn đền thờ mang tên đền Thượng, Trung, Hạ và đền Giếng. Kể từ cổng lên đền Thượng có 300 bậc đá, chia làm ba khúc, mỗi khúc 100 bậc. Khúc cổng lên đền Hạ100, khúc đền Hạ lên đền Trung 100 bậc, khúc đền Trung lên đền Thượng cũng 100 bậc. Từ đền Trung lên đền Thượng cũng có 100 bậc. Cái con số 100 này căn cứ vào Quốc-tổ, Quốc-mẫu sinh ra một trăm con. Ghi chú của thuật giả Trải qua biết bao thăng trầm lịch sử, cho đến đầu thế kỷ thứ 20, các bậc đá bị mất gần hết. Trong cuộc trùng tu 6 năm liền từ 1917 đến 1922, thay vì xây 300 bậc, ban kiến thiết lại xây 539 bậc. Trong đó từ cổng lên đền Thượng 496 bậc. Từ đền Hạ xuống đền Giếng 44 bậc. Kim-Dung đứng lên trên thành xe quan sát, rồi hỏi: - Phía sau núi Hy-cương là một khu đất bằng, có nhiều nhà dân chúng ở. Vùng đó tên là gì vậy? - Đó là làng Hy-sơn. Kim-Dung kêu lên: - Khu này trông giống như hình một con phượng hai chân cắp quyển sách. Chắc vì thế, mà nước ta mới là một nước văn hiến. Phải không? - Đúng vậy. Xe đã tới ngã ba. Phu xe giật cương cho ngựa quẹo phải. Mỹ-Linh chỉ một bãi đất ra lệnh: - Chúng ta ngừng lại đây, nghỉ một lát, chỉnh đốn y phục rồi hãy vào triều kiến Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Nàng chỉ vào ngọn đồi bên phải núi Hy-cương: - Quả đồi kia tên Chu-hóa, có hình dạng giống con hổ phục, chầu vào. Phía bên trái là đồi Phượng-lâu, hình giống như một vị tướng quân bắn cung. Kìa, làng Cổ-tích trước mặt chúng ta, hình giống như con ngựa ghì cương. Xa xa kia là dãy đồi từ Phú-lộc đến Thậm-thình có 99 ngọn, giống như 99 con voi chầu về đền. Nàng chỉ về hướng Đông và Tây: Khu vực chúng ta đứng đây là cố đô Phong-châu xưa, với những đồi đầy linh khí, nằm giữa hai con sông Lô và sông Thao. Hỏi còn thế đất nào tụ linh khí nhiều hơn thế đất này? Thủ-Độ hô: - Ta lên đường thôi! Đoàn xe tiếp tục lên đường. Con lộ này, nếu vào ngày hội 10 tháng 3, thì đường đất được tu bổ, cỏ được làm sạch, cành cây bên đường được cắt xén. Nhưng bấy giờ là tháng tư, mưa đổ xuống núi rừng, làm nước tràn ra soi mòn con lộ đi. Năm chiếc xe phải khó khăn lắm mới vượt qua được quãng đường ngắn. Đoàn Xe tới một bãi đất trước cổng đền. Mỹ-Vân chỉ huy bọn Khả-hãn mang lễ vật, xếp hàng hướng cổng đi lên. Trên cổng có chữ: Cao sơn cảnh hành. Ngũ-Hào hỏi Mỹ-Vân: - Bốn chữ này nghĩa là gì vậy nhị ca? - Núi cao, đường lớn. Nhị-Anh cất cao giọng đọc đôi câu đối trên hai cột cổng : Thác thủy khai cơ tứ cố sơn hà quy bản tịch. Đăng cao vọng viễn quần phong la liệt tự nhi tôn. Dịch: Mở lối đắp nền bốn mặt non sông quy một mối, Lên cao nhìn rộng nghìn trùng đồi núi tựa đàn con. 0 Ban thủ từ đã thấy đoàn ngươì của Thủ-Độ. Ông Thủ-từ hơi kinh ngạc, khi thấy đoàn hành hương toàn là các thiếu niên. Lúc năm chiếc xe tới bãi đất trước cổng, ông cho rằng đây là một đoàn người hành hương của một trấn, một huyện nào đó. Trong đoàn ắt có những vị cao niên hay các quan dẫn đầu. Bây giờ trước mắt ông, chỉ có hai thiếu niên, một thiếu nữ đi trước. Phía sau mười thiếu niên, mười thiếu nữ. Ông cung tay: - Các vị đây xưng hô thế nào? Kim-Dung đáp: - Chúng tôi là các thiếu niên ở Thăng-long. Nàng chỉ Thủ-Độ: - Người cầm đầu chúng tôi là vị đại ca này, có tên Đại-hãn. Chúng tôi tới đây dâng lễ, để tỏ lòng tưởng nhớ công ơn Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Ông thủ từ chỉ huy ban nghi lễ đỡ các mâm lễ vật, rồi đi trước dẫn đường. Tới đền Hạ, ông giảng: - Thưa quý khách, đền Hạ là nơi mà Quốc-mẫu Âu-Cơ trở dạ sinh một bọc trăm trứng, nở ra trăm con. Nên sau này con cháu xây đền để tưởng nhớ công sinh thành. Xin mời các vị vào đền lễ Quốc-mẫu. Đường lên đền Trung phải vượt qua những bậc bằng đá dốc thẳng. Ngôi đền này xây bằng đá, lợp ngói xanh. Tấm biển trước đền có chữ: Triệu tổ Nam bang TổmuônđờicủanướcNam<. Ông Thủ-từ lại giảng: - Thưa quý khách, nơi đây, khi xưa vua Hùng thường lên hóng mát. Có khi ngài cùng quần thần luận bàn việc nước. Cũng tại chỗ này, vua Hùng thứ sáu tuyên triệu 18 hoàng tử về, thi làm cỗ, để tìm người con nào hiếu thảo với cha mẹ, mà lại có lòng thương yêu dân, sẽ được truyền ngôi. Hoàng-tử út Lang-Tiêu vì thân dân, hiểu dân, đã làm bánh chưng, bánh dầy tượng trưng cho trời đất. Hoàng tử được nhường ngôi vua, trở thành vua Hùng thứ 7. Bọn Thủ-Độ lễ xong, ông Thủ-từ tiếp tục dẫn lên đền Thượng. Đền xây bằng đá, mái lợp ngói đỏ. Trên nóc chái có bức hoàng phi: Nam-Việt triệu tổ. TổmuônđờicủanướcNam<. Hai cột cửa chính giữa có đôi câu đối: Thần thánh khải Viêm-bang chí kim, địa bất cải, tịch dân bất cải tụ. Huân lao phụng thánh miếu thị vị, mộc chi hữu bản thủy chi hữu nguyên. Dịch: Thần thánh mở cơ đồ, đến nay đất vẫn thế dân vẫn thế. Công huân thờ đền miếu, đó là cây có gốc nước có nguồn. 0 Hai cột kế tiếp, một đôi nữa: Hồng-lạc cố cơ tồn điệp chướng tầng loan quần thủy hợp. Đế vương linh khí tại hào phong nộ vũ nhất sơn cao. Dịch: Cung cũ Hồng-lạc còn đây, trùng điệp núi đồi nhiều dòng sông hợp lại. Khí thiêng Đế-vương vẫn còn đó, gào thét mưa gió một ngọn núi đứng cao. 0 Ông Thủ-từ lại giảng: - Thưa quý khách, đây là nơi vua Hùng thờ trời ở điện Kính-thiên, cùng thờ ba ngọn núi linh là Đột-ngột cao sơn, Áp-sơn, Viễn-sơn. Ông chỉ sang phía bên trái của sân: - Chỗ kia là ba cái cột đá, gọi là Đá-thề. Nguyên vua Hùng thứ 88 không có con trai. Ngài nhường ngôi cho Thục-Phán tức An-dương vương. Thục-Phán thề Muôn đời bảo vệ giang sơn vua Hùng truyền cho. Thục-Phán sai dựng cột, khắc lời thề lên trên để lưu lại cho đời sau. Ông lại chỉ sang phía phải: - Chỗ kia là lăng vua Hùng thứ sáu. Mời các vị sang viếng lăng của ngài. Không kiềm chế đươc cảm động, dù đang ở chốn tôn nghiêm, đám trẻ reo lên, rồi cùng sang lăng. Lăng xây theo hình vuông. Bốn bên có bốn cột, trên cao là chóp hình tháp, mặt trước có ba chữ: Hùng vương lăng. LăngvuaHùng< Mặt sau có hai chữ: Biểu chính Lăngchính<. Có đôi câu đối: Duật duật hoàng hoàng phối thiên kỳ trạch đế nhi tổ. Thông thông uất uất đắc địa chi linh sơn diệc hùng. Dịch: Đẹp đẹp tươi tươi sánh ơn lớn của trời vua còn là tổ. Xanh xanh tốt tốt được khí thiêng của đất, núi cũng rất hùng. 0 Ghi chú của thuật giả: Khu di tích Hùng-vương hay đền Hùng, trong suốt giòng lịch sử, quanh năm dân chúng từ các nơi tụ về dâng hương, để tỏ lòng biết ơn Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Hằng năm cứ đến ngày 10 tháng 3, lại tổ chức hội linh đình. Ngày hội gần nhất, năm Mậu-Dần (1998), số người trẩy hội lên đến nửa triệu. Dưới đây là những thư tịch cổ chép về đền Hùng. Sơn-tây tỉnh chí. ĐNNTC Đồng-Khánh địa dư chí lược. Bắc-thành địa dư chí lược. Sơn-tây chí. Phú-thọ tỉnh địa dư. Nam-Việt địa dư chí.