Thành-cát Tư-hãn điều động bốn vương tử, mười binh đoàn, công hãm Yên-kinh. Sau một tháng liền, dùng tù binh, dân chúng lấp hào, bắc thang leo lên công thành. Từng đợt, từng đợt, người người, hàng hàng nối tiếp leo lên, bị quân phòng thủ bắn tên, lăn gỗ đá, ngã lộn xuống chết. Số nô lệ, tù binh bắt được trong những trận đánh trước chết gần hết, mà thủy chung vẫn không vào được thành. Tổng kết thiệt hại, riêng quân Mông-cổ chết hơn vạn; tù binh, nô lệ chết ba mươi vạn dư mà thành vẫn đứng vững như chế diễu Thành-cát Tư-hãn. Ông bực mình, đích thân đốc thúc công thành, thì bị một mũi tên trúng cổ. Độc chất làm sưng lớn lên.
Thành-cát Tư-hãn bắt đầu chán nản. Ông thấy đất Trung-nguyên người quá đông, đất quá rộng, chiếm ngay bây giờ thì chưa thể được. Ông muốn hãy rút quân về nghỉ ngơi, đợi huấn luyện các binh đoàn thân binh Trung-quốc tinh nhuệ, rồi mới có thể trở lại tái khai chiến với Kim, để di dân Thảo-nguyên vào.
Ông họp chư tướng nghị rút quân về. Ông hỏi Thủ-Huy:
- Thiên-sứ! Người hãy giúp chúng tôi mưu kế gì, để có thể chia bớt lực lượng Kim không?
- Thưa Tư-hãn. Hồi nghị kế mấy năm trước, cháu Thủ-Độ đã đưa ra ý kiến kết thân với Tống. Ta hứa với Tống rằng ta đánh phía Bắc, để Tống khởi binh từ Nam lên. Ta hứa nhường cho họ khôi phục lại kinh đô Biện-kinh cũ. Nhất là họ sẽ được làm chủ vùng cố đô Lạc-dương, Trường-an là đất thiêng của tộc Hán.
Gia Luật Mễ lắc đầu:
- Tống quá hèn. Tôi nghĩ không bao giờ họ dám ra quân.
Thủ-Độ phát biểu:
- Thưa chú, cháu nghĩ lần này Tống sẽ khởi binh. Vì trước kia, Tống cho rằng ta chỉ là một bộ lạc của rợ Hung-nô, không đủ sức mạnh đối chọi với Kim. Ta vốn là rợ, vốn không lễ nghĩa, ta hứa rồi nuốt lời. Bây giờ qua dư vang vụ quân ta tràn ngập vùng Bắc, đang bao vây Yên-kinh. Họ biết ta mạnh. Còn vụ họ nghi ta thất hứa, thì chỉ cần ta giúp Liêu tái lập quốc, rồi rút binh, thì họ tin ta ngay. Nhất định họ sẽ khởi binh.
Giữa lúc đó thì tướng Triết Biệt gửi về một tấu chương:
" Đã đánh tan các đạo quân Kim đóng trong vùng đất của Liêu. Giúp Liêu chúa tái lập triều đình, tổ chức quân đội. Liêu vương xin quy phục, làm phiên thần cho Mông-cổ. Các binh đoàn Liêu đều sẵn sàng trợ chiến cho Mông-cổ".
Thành-cát Tư-hãn vỗ tay mừng:
- Trước kia Liêu chiếm Trung-quốc, hùng tráng là thế. Họ bắt Tống cắt đất, họ bắt tuế cống rất nặng. Rồi Liêu bị chính bộ tộc Nữ-chân của mình nổi lên diệt, lập ra nước Kim. Kim để cho Liêu tự trị trong vùng đất cũ. Tuy vậy họ vẫn duy trì một đạo quân để kiềm chế. Bây giờ Triết Biệt diệt đạo binh Kim, tái lập nước Liêu. Từ nay ta có Liêu kiềm chế Kim. Ta không còn sợ Kim nữa. Ta chỉ lo phá các đạo quân tiếp viện từ phương Nam của Kim mà thôi. Ta có thể sai người đi sứ rủ Tống liên binh được rồi đây.
Thành-cát Tư-hãn hỏi:
- Vậy ta phải nhờ ai đi sứ Tống bây giờ?
Mộc Hoa Lê chỉ Vương Thúy-Thúy:
- Phu nhân của Thiên-sứ trước đây từng là người của Tống. Phu nhân đã được Tống phong tước Khâm-minh Đoan-duệ quận chúa, Vân-đài tiên tử. Bấy lâu nay, người muốn về thăm quê, mà sợ Tống làm tội. Bây giờ ta phong người làm sứ giả. Người sẽ danh chính là sứ thần Mông-cổ. Ngôn thuận, là tuy xa Tống, vẫn nghĩ đến quê hương. Nay mang tin Mông-cổ giúp Tống tái chiếm ba cố đô. Nhất là tái chiếm vùng đất Ngũ-nhạc đại lĩnh của phái Hoa-sơn. Như vậy : Một là ta trả ơn phu nhân đã giúp Mông-cổ bấy lâu bằng cách cho phu nhân hồi hương. Hai là phu nhân là người cũ của Tống, đem các sự lợi hại trong vụ ra quân nói, thì Tống tin ngay. Ba là, phu nhân có võ công cao. Người sẽ theo các đạo quân Tống, để phối hợp hai quân Đại-Tống, Mông-cổ.
Thành-cát Tư-hãn hỏi Thủ-Huy:
- Không biết ý kiến Thiên-sứ ra sao?
- Tôi nghĩ rằng bà vợ tôi sẽ vui vẻ nhận lệnh của Ngài. Tôi cũng sẽ đi theo làm quân sư cho bà ấy.
Thành-cát Tư-hãn đề nghị thêm:
- Hiện vết thương trên cổ của tôi vẫn không thuyên giảm. Tôi muốn dịp này nhờ Thiên-sứ về Đại-Việt mời y sư Phạm Tử-Tuệ hay Nam-thiên thần y Lê Thúc-Cẩn sang chữa cho tôi.
Thủ-Huy nghĩ thầm: Nếu mình vui vẻ ra đi, thì Thành-cát Tư-hãn sẽ nghi ngờ. Vậy mình tỏ vẻ không thích thú hồi hương, mới qua mắt y được. Công lắc đầu:
- Tôi không muốn về Đại-Việt trong lúc này. Ở đây, Tư-hãn đối xử với tôi như bạn hữu. Các tướng đối xử với tôi như anh em. Sung sướng biết bao, vui vẻ biết bao. Còn như tôi về Đại-Việt thì phải quỳ gối, cúi đầu trước những tên vua chúa triều Lý vừa ngu, vừa đần thì tôi không chịu được. Nhất là khi tôi xuất hiện, thì mấy con mụ điếm già ở hậu cung, nào Thái-hậu, nào Hoàng-hậu sẽ hãm hại tôi. Tôi đề nghị Tư-hãn sai Thủ-Độ đi thì hơn.
Thấy Thủ-Huy xa Đại-Việt đã hai chục năm, mà vẫn còn căm hận triều Lý, Thành-cát Tư-hãn không nghi ngờ gì cả. Ông hỏi Thủ-Độ:
- Còn cháu! Cháu về Đại-Việt liệu có gì nguy hiểm không?
- Thưa Tư-hãn không. Nhưng... cháu đang cầm đại quân giúp Tư-hãn, mà bỏ đi thì cháu không muốn.
- Cháu yên tâm, ta đang chuẩn bị rút quân, đợi chỉnh bị binh mã, chờ Tống cùng ra quân. Cháu có ở đây, hay đi sứ thì cũng vậy thôi.
Thủ-Độ đưa mắt nhìn Thảo-nguyên ngũ điêu:
- Vâng! Cháu tuân chỉ Tư-hãn...Có điều...Có điều...
- Cháu phải xa các bạn, cháu không vui phải không? Cháu chỉ đi có mấy tháng thôi, rồi lại trở về, chứ có đi luôn đâu?
Thủ-Độ nói thực với lòng mình:
- Thưa Tư-hãn, chúng cháu cùng ăn, cùng ngủ, cùng săn bắn, rồi cùng chiến đấu, ngày đêm có nhau. Bây giờ phải xa nhau...Thưa, khó quá.
- Ta biết! Nhưng cháu đi là vì sinh mệnh của ta.
- Xin tuân chỉ Tư-hãn.
Thành-cát Tư-hãn quyết định:
- Vậy thì tôi xin phiền phu nhân của Thiên-sứ làm chánh sứ sang Tống. Thiên-sứ đi theo làm quân sư. Còn Thủ-Độ thì lên đường đi Đại-Việt mời y sư sang trị bệnh cho tôi.
Mộc Hoa Lê đề nghị :
- Thưa Tư-hãn ! Sứ đoàn sang Tống, thì ta cần chuẩn bị thực kỹ, rồi sẽ lên đường. Nhưng sứ đoàn của cháu Thủ-Độ phải lên đường ngay. Vì bệnh của Tư-hãn đã mấy ngày rồi. Để lâu e nó lan rộng ra.
- Vậy thì thế này.
Thành-cát Tư-hãn ban chỉ :
- Khi cháu Thủ-Độ sang đây, thì sang với tư cách sứ thần Đại-Việt. Vậy bây giờ cháu về, ta cũng để cháu về trong tư cách sứ thần. Từ đây đến cửa biển Liêu-Đông không xa. Nếu Thủ-Độ trở về Hoa-lâm, rồi lại đi Liêu-Đông thì mất thời giờ. Để khắc phục yếu tố thời gian. Ngày mai, ta sẽ cho mã khoái Phi-tiễn đem chỉ dụ về Hoa-lâm, dẫn nhân viên sứ đoàn Đại-Việt đến cửa biển Liêu-Đông, rồi về cùng Thủ-Độ.
Mười ngày sau, thì sứ đoàn Đại-Việt của Thủ-Độ được đưa từ Hoa-lâm về cửa biển Liêu-Đông. Viên phó sứ Chu Mạnh-Nhu, bốn bồi sứ Vũ Khắc-Kim, Phạm Hoàng-Quy, Lê Trọng-Anh, Tạ Quốc-Ninh đều là học trò của Phạm Kính-Ân, họ thuộc bộ Lễ, được Kính-Ân tuyển cho theo Thủ-Độ, coi như người tâm phúc. Họ bị giữ lại ở Mông-cổ mấy năm. Tuy họ được cấp dinh thự để ở. Được cấp nô lệ hầu hạ, cấp mĩ nhân hầu chăn gối, lại được cấp cả ngựa để di chuyển. Nhưng, bỗng dưng họ phải xa nhà, xa quê, sống trong vùng đất lạ, khí hậu lạnh lẽo. Mình nói thì người không hiểu. Người nói thì mình không biết. Năm người, ngày ngày hết ăn lại ngủ. Tương lai không hy vọng gì được về nước. Buồn quá, suốt ngày họ học tiếng Mông-cổ. Nên bây giờ họ nói tiếng Mông-cổ lưu loát như người Mông-cổ học thức. Mấy hôm trước được lệnh hồi hương, cả năm mừng như chết đi, sống lại.
Trong dịp này, Thúy-Thúy gửi hai con là Thủ-Minh với Như-Lan cùng về quê để ông bà nội dạy dỗ, theo truyền thống giòng họ Đông-a.
Thảo-nguyên ngũ điêu xin phép Thành-cát Tư-hãn theo Thủ-Độ đến tận cửa biển Liêu-Đông để tiễn đưa. Trong thâm tâm bốn người, thì Thủ-Độ đi vài tháng rồi trở về. Thế nhưng ở Thủ-Độ, thì Hầu biết rằng cuộc chia tay này không hy vọng gì gặp lại nhau. Cả năm cùng uống rượu đến say mềm ra.
Khi thuyền sắp nhổ neo, thì hai thiếu nữ người Hoa quỳ gối trước tấm ván bắc từ bờ xuống thuyền, khóc nức nở. Thủ-Độ nhìn lại thì ra Triệu Minh-Minh, Chu Diệu-Diệu. Công nắm tay hai nàng, nâng dậy, an ủi :
- Từ ngày gặp hai nàng ở Trương-gia khẩu đến giờ. Tiếng thì hai nàng là tỳ thiếp của tôi. Nhưng tôi chưa từng có cử chỉ khinh bạc với hai nàng. Tôi cũng đối xử với hai nàng như em gái. Bây giờ lên đường đi sứ, tôi đã làm lệnh phóng thích hai nàng về với gia đình. Hai nàng chẳng nên khổ tâm.
Diệu Diệu càng khóc lớn. Thủ-Độ tát yêu nàng :
- Diệu Diệu, chẳng nên quá buồn.
Diệu Diệu càng nức nở :
- Chủ nhân ra đi, thì...thì...tiểu tỳ không ở bên cạnh để phục thị chủ nhân. Ai sẽ giặt quần ao cho chủ nhân ? Ai sẽ dâng những món ăn hợp miệng cho chủ nhân. Vì vậy...vì vậy... tiểu tỳ xin chủ nhân cho Minh Minh với tiểu tỳ cùng đi, thì tiểu tỳ mới an tâm.
Thủ-Độ còn đang suy nghĩ, thì Như-Lan đã nắm lấy tay Diệu Diệu :
- Anh ơi ! Anh dẫn Diệu Diệu, Minh Minh cùng đi với chúng em cho vui. Hứa đi anh.
Từ ngày trở lại Mông-cổ, Thủ-Độ cực kỳ sủng ái cô em gái này. Hầu tát yêu em :
- Em đã muốn vậy, thì làm sao anh từ chối được.
Thuyền nhổ neo, rồi hướng Nam, dương buồm. Thủ-Độ dẫn Minh Minh, Diệu Diệu với Thủ-Minh, Như-Lan lên trên sàn thuyền, ngắm cảnh. Bây giờ là lần đầu tiên Hầu mới chú ý đến hai cô tỳ nữ. Quả thực hai nàng là hai giai nhân hiếm có. Minh- Minh thì đẹp chói chang như hoa hải đường mới nở ban mai. Còn Diệu Diệu thì đẹp nhu mì, đẹp huyền ảo. Hầu nghĩ thầm :
- Cũng may mà Hốt Tất Liệt tặng hai nàng cho ta. Bằng không, hai nàng lọt vào tay bọn Thảo-nguyên ngũ điêu, thì giỏi lắm chúng qua đêm với hai nàng, rồi lại cho bọn binh lính thô tục thay nhau hưởng thụ trên đóa hoa nhụy rữa. Nhưng ta phải có thái độ nào với hai nàng đây ? Ta có nên dùng hai nàng như tỳ thiếp không ? Hay ta tìm một nam nhi đại trượng phu gả hai nàng ? Bây giờ đem hai nàng về nước, trước hết ta phải dạy tiếng Việt cho hai nàng đã.
Thế là ngay chiều hôm đó, Hầu sai viên bồi sứ dạy tiếng Việt cho hai nàng với hai em.
Lênh đênh trên biển hơn hai tháng, một hôm Thủ-Độ đang ngồi đọc sách, thì thuyền trưởng Quách Ty vào báo :
- Thưa sư huynh. Thuyền đã đi vào hải phận trấn Tiên-yên. Tại Tiên-yên, có ba thủy đội đồn trú. Ta nên ghé bến hay không ?
- Có chứ ! Hai tháng qua, bị giam trong thuyền, ăn uống kham khổ, lại cuồng cẳng quá rồi. Ta phải lên bờ ăn uống cho đỡ xót ruột, đi lại cho dãn gân cốt chứ ?
Nói rồi Hầu dẫn hai em lên sàn thuyền. Hai nàng Minh Minh, Diệu Diệu cũng lên theo. Con thuyền hướng mũi vào bờ. Xa xa, những ngọn núi vùng Tiên-yên đã hiện ra.
Thủ-Minh hỏi :
- Anh ơi ! Mình về tới Thăng-long rồi à ?
- Không, Thăng-long còn xa lắm. Đây là trấn Tiên-yên, nằm sát biên giới Hoa-Việt.
Một con thuyền của Thủy-quân kéo buồm ra khơi. Trên cột buồm có lá cờ thêu hình con rồng uốn khúc, cạnh con chim âu sải cánh bay ngang. Biết đó là kỳ hiệu của Thủy-quân Đại-Việt, Chiến thuyền này chặn ngang trước con thuyền của sứ đoàn. Viên thuyền trưởng phất cờ ra lệnh cho con thuyền Ó-đen đi chậm lại. Thủ-Độ cũng ra lệnh cho thủy thủ kéo cờ hiệu lên. Lá cờ có hàng chữ :
« Đại-Việt khâm sứ,
Đằng-châu hầu,
Tổng lĩnh thị vệ Trần Thủ-Độ ».
Chiếc chiến thuyền kè mạn vào con thuyền Ó-đen. Một viên sĩ quan từ bên chiến thuyền cùng với một đội thủy thủ sang con thuyền Ó-đen. Y hành lễ với Thủ-Độ :
- Tiểu nhân họ Cù tên Quang, lĩnh Tham-tá xin tham kiến Khâm-sứ đai nhân. Không biết Khâm-sứ đại nhân trên đường sang Tống hay trên đường về nước ?
- Chúng ta trên đường về nước. Hiện ai trấn thủ quân cảng Tiên-yên này ?
- Thưa đại nhân, là Phó đề đốc Đặng Vũ.
Nghe tên Đặng Vũ, Thủ-Độ nhớ lại, chính y là thuyền trưởng, đem thuyền đi đón mẫu thân về Đại-Việt. Y có liên quan tới cái chết của mẫu thân. Mấy năm trước, Hầu từng giả làm con quỷ ba đầu, nhát y với vợ con. Hầu ra lệnh cho Cù Quang :
- Chúng tôi muốn ghé vào Tiên-yên nghỉ chân đôi ba bữa. Xin Tham-tá dẫn thuyền chúng tôi vào cảng.
Cù Quang ra lệnh cho chiến thuyền dẫn đường con thuyền Ó-đen. Y với đám thủy thủ vẫn đứng phục thị cạnh Thủ-Độ. Thấy trên mặt Cù Quang có điều gì bối rối, nan giải. Thủ-Độ hỏi :
- Này Vũ Tham-tá ! Chúng tôi có phiền người lắm không ?
- Thưa đại nhân không ! Có điều tình hình Thăng-long rối loạn, tiểu nhân e thuyền của đại nhân không thể về được trong lúc này.
- Cái gì...Tại sao lại rối loạn ?
- Tiểu nhân nghe Phó đề đốc bàn với phu nhân, nên chỉ hiểu lõm bõm mà thôi. Nguyên Hoàng-thượng nghe lời sàm tấu của Tả-kim ngô thượng tướng quân Phạm Du, tổng trấn Thanh-hóa, mà xử tử Vũ-kỵ thượng tướng quân Phạm Bỉnh-Di với con là Phạm Bỉnh Du. Hổ-uy đại tướng quân Quách Bốc cùng chư tướng phẫn uất, kéo quân làm loạn. Hoàng thượng bôn tẩu đâu không rõ. Bọn Quách Bốc lập Hoàng-tử Long-Thẩm lên làm vua. Tả Lãnh-vệ thượng tướng quân Nguyễn Nộn. Vân-ma thượng tướng quân Đoàn Thượng bất phục. Cả hai đem quân về Thăng-long đánh Quách Bốc. Trong nước, các An-phủ sứ, Tuyên-vũ sứ không có binh lính trong tay, nên họ không theo Thẩm, cũng chẳng tôn Sảm. Tất cả đều biên thùy một cõi. Nước loạn to.
- Vậy Phó đề đốc Đặng Vũ theo về ai ?
- Người không theo ai cả. Người tách ra thành một sứ quân.
- Quân số Thủy-quân ở Tiên-yên này được bao nhiêu người ?
- Chỉ có ba thủy đội, khoảng 6 trăm người.
- Hiện Phó đề đốc ở đâu ?
- Người đem quân đi bắt cướp ở cách đây hơn trăm dặm.
- Cướp hay quan binh làm loạn ?
- Thưa là bọn nghèo khổ, bọn ăn mày tụ tập thành bang Lĩnh-Nam, rồi kéo nhau đi cướp của nhà giầu, chia cho nhà nghèo.
Thủ-Độ giật bắn người lên. Hầu nghĩ thầm :
- Không biết đám này thuộc Khả-hãn nào ? Nhất định có gì bí ẩn ở trong, chứ bang chúng Lĩnh-Nam không thể là trộm cướp được.
Thuyền đã cập bến.
Khi khởi hành từ Thăng-long, Thủ-Độ đã chọn tất cả nhân viên sứ đoàn đều là đệ tử phái Đông-a, trừ phó sứ và bốn bồi sứ là học trò của Phạm Kính-Ân ở bộ Lễ. Vì vậy hầu yên tâm rằng tất cả sứ đoàn cũng như, thủy thủ đoàn đều đáng tin cậy.
Sau khi dặn dò thuyền trưởng Quách Ty phải tối đề phòng người lạ. Hầu dẫn hai em vơí Diệu Diệu, Minh Minh lên bờ. Đây là lần đầu tiên thấy nhà cửa phố phường của vùng nhiệt đới. Hai trẻ Thủ-Minh, Như-Lan cứ luôn mồm hỏi anh. Thủ-Độ giảng giải đến mệt nhừ, không còn suy nghĩ được gì nữa.
Sau khi dạo một vòng phố chợ, Thủ-Độ đẫn bốn người vào một tửu lầu. Tuy đất nước đang ly loạn, nhưng Tiên-yên là trấn biên thùy, có hàng nghìn quân đồn trú, hơn nữa là cửa biển cho các thương thuyền Tống, Kim, Liêu, Chiêm-thành, Mông-cổ... qua lại buôn bán. Nên dân chúng đông đúc, giầu có. Vì vậy các nhà hàng vẫn đông khách. Thủ-Độ gọi mấy món ăn Việt, rồi phóng mắt nhìn ra phố. Hầu đang mơ màng nghĩ đến bang Lĩnh-Nam :
- Không biết mình đi vắng, ở nhà xẩy ra những biến động lớn, anh Trần Thừa là Nguyên-sư, anh Tự-Khánh là Tả hộ pháp, thầy Phạm Kính-Ân là Hữu hộ pháp có chỉ huy được bọn Khả-hãn không ? Bọn Khả-hãn có nắm được vùng trách nhiệm không ?
Tửu bảo bưng ra một nậm rượu. Thủ-Độ nhớ mình không gọi rượu, mà tại sao y lại bưng rượu ra ? Chợt để ý thấy trên khay đựng nậm rượu có một đồng tiền. Mặt đồng tiền có khắc bốn chữ Lĩnh-Nam thông bảo. Thủ-Độ giật mình, cầm nậm rượu lên, mở nắp : Trong nậm không có rượu, mà có một tờ giấy. Hầu mở ra, trên giấy có mấy chữ :
« Di chuyển thuyền tới bến của thương nhân. Giờ Dậu đêm nay, xin đến bái yết ».
Dưới vẽ hình con chim ưng. Đây là ký hiệu của bọn Thập bát Anh-hào. Nhưng không biết là ai ?
Thủ-Độ ăn uống xong, dắt hai em với Minh Minh, Diệu Diệu trở về thuyền. Hầu chỉ hai em, ra lệnh cho thuyền trưởng Quách Ty:
- Lần đầu tiên các em của tôi về Đại-Việt, quà gì đối với chúng cũng ngon cả. Chúng ăn luôn miệng. Đây là bến Thủy-quân, hàng quà rong không dám đến. Vậy sư đệ cho dời thuyền đến bến của thương nhân, tiện cho chúng ăn quà.
Quách Ty tuân lệnh, nhổ neo, dời xuống cuối bãi thương thuyền. Thủ-Độ dặn y :
- Đêm nay có người thân tín sẽ tới gặp tôi. Vậy sư đệ thấy ai lạ thì đừng hỏi.
Chuẩn bị xong xuôi, Thủ-Độ lên sàn thuyền, cùng hai tỳ nữ, hai em, bắc ghế ngồi nhìn sao đêm. Nghe tiếng sóng biển vỗ rì rào, Hầu lại tưởng nhớ đến những đêm cùng Kim-Dung dùng thuyền chơi trên sông ở Thiên-trường. Không biết bây giờ Kim-Dung ra sao ? Cuộc tình của mình với Kim-Dung sẽ đi về đâu ?
Một chiếc xe bán phở đang qua trên bờ. Người đẩy xe là một cô gái trẻ. Cạnh cô còn lão già lưng gù. Dường như lão là chủ chiếc xe phở này. Chiếc xe ngừng lại trước mũi con thuyền, lão cất tiếng rao :
- Phơ...ơ...ơ...ơ.
Minh Minh hỏi :
- Thưa chủ nhân, phở là món ăn gì vậy ?
- À, món này ngon hơn mì của Trung-quốc nhiều.
Nói đến đây, Hầu chợt nhớ đến những lần cùng Thập-bát anh hào ăn phở ở Thăng-long. Hầu gọi :
- Phở.
- Dạ.
- Ông cho tôi năm bát phở gà. Nhớ thêm trứng non nghe !
- Dạ.
Lão hàng phở nhúng bánh, thái thịt thực nhanh. Phút chốc đã xong năm bát. Lão bỏ vào khay, rồi ra lệnh cho cô gái:
- Con bưng phở xuống thuyền cho khách.
Cô gái bưng khay phở, leo qua tấm ván làm cầu nối từ bờ tới thuyền. Thủ-Độ chợt để ý đến bước chân của cô. Cô lướt nhẹ nhàng, rõ ràng là thân pháp Đông-a. Vào khoang thuyền, cô đặt 5 bát phở trước mặt Thủ-Độ. Cô nhìn Hầu nhoẻn miệng cười. Hầu còn đang ngạc nhiên, thì cô hỏi nhỏ :
- Những người quanh Đại-hãn có tin được không ?
Nghe tiếng nói, Hầu mới nhận ra cô gái là Cửu-Anh. Hầu nói nhỏ :
- Em hóa trang hay quá, đến anh cũng không nhận ra. Em yên tâm, người trong thuyền này đều tin được.
Cửu-Anh ngồi xuống cạnh Thủ-Độ :
- Từ khi Đại-hãn đi rồi, thì người lãnh đạo chúng em là Nguyên-sư Trần Thừa. Tả hộ pháp Trần Tự-Khánh thì tổng chỉ huy bọn em. Công việc trong bang tiến triển tốt đẹp.
- Thế Tổng-lĩnh Khả-hãn Phạm Kính-Nghĩa đâu ?
- Phạm sư huynh được phong làm An-phủ kinh lược sứ Gia-lâm, thành ra người bị quan trường ràng buộc, nên khoa xoay sở.
- Ta có một thắc mắc rằng sau khi đỗ võ Tiến-sĩ, Cửu-Hào đã được bổ nhiệm vào những chức gì ?
- Dù Cửu-Hào đỗ võ tiến sĩ, nhưng không phải là học trò Lĩnh-Nam ngũ hổ tướng nên không được bổ nhiệm làm võ tướng. Tuy vậy, các anh ấy lại được bổ nhiệm làm chức Đoàn luyện sứ tại các phủ, các trấn.
- Đoàn luyện sứ là chức gì vậy ?
- Là chức quan võ, trông coi việc huấn luyện Hoàng-nam, tráng đinh, dân đinh trong các xã.
Thủ-Độ vỗ đùi reo lên :
- Vậy thì, nhiệm vụ của chức này, không khác gì chức Khả-hãn mà anh trao cho các em. Có điều trước kia, anh nhân danh cái rối loạn của dân, rồi xướng xuất ra mà làm. Bây giờ lại do triều đình trao phó cho. Thực là danh chính, ngôn thuận.
- Vâng. Cho nên Cửu-Hào công khai tổ chức, kết hợp người của bang Lĩnh-Nam thành những đội hương binh, tinh nhuệ hơn cả binh của triều đình. Trước kia anh sợ bọn mặt dơi tai chuột trong triều dèm pha, nên chỉ cho tổ chức hương binh thành từng toán một trăm người, gọi là Đội. Bây giờ các Cửu-Hào trở thành Đoàn-luyện sứ, thì danh chính, ngôn thuận, nên Nguyên-sư Trần Thừa ra lệnh kết hợp mười đội thành một Vệ. Mỗi Vệ nghìn người, mới đủ khả năng bảo vệ thôn xã.
- Thế Cửu-hào coi những vùng nào ?
- Long-hưng, Quốc-oai, Bắc-giang, Hải-Đông, Trường-yên, Kiến-xương, Hồng-khoái, Thanh-hóa, Hoàng-giang.
- Trong bang, những ai coi vùng Thăng-long ?
- Là bọn con gái chúng em. Nhất-Anh coi Tây-hồ. Nhị-Anh coi Gia-lâm. Tam-Anh coi Cổ-loa. Tứ-Anh coi Long-biên. Ngũ-Anh coi Bắc-ngạn. Quân của Nhị-Anh mạnh nhất trong vùng Thăng-long, vì An-phủ sứ Gia-lâm Phạm Kính-Nghĩa giúp đỡ ngầm.
- Còn Thiên-trường, Diễn-châu, Đồn-sơn, Tiên-yên ?
- Thì Lục, Thất, Bát, Cửu anh.
Thủ-Độ hoang mang vô cùng. Hầu hỏi :
- Ban nãy, anh nghe viên Tham-tá Cù Quang kể rằng Phó đề đốc Đặng Vũ đem quân đi bắt cướp. Mà cướp là bang Lĩnh-Nam. Vụ này ra sao ?
Cửu-anh mỉm cười :
- Bọn em đâu có đi ăn cướp ? Bởi trong nước hỗn loạn. Thái-sư Đàm Dĩ-Mông theo phò Hoàng-tử Thẩm. Còn sư bá Trần Lý thì phò Thái-tử Sảm. Dĩ nhiên bang Lĩnh-Nam theo Trần sư bá. Còn Đặng Vũ thì y theo Đàm Dĩ Mông. Tuy bây giờ Hoàng-tử Thẩm bị bại, Đàm Dĩ Mông bị thất thế. Nhưng tên Đặng Vũ vẫn biên thùy môt cõi. Tả hộ pháp Trần Tự-Khánh lệnh cho em phải chiếm trấn Tiên-yên. Trong khi Đặng Vũ bắt bọn em theo y. Bọn em không chịu. Đặng Vũ đem quân đánh bọn em. Để tránh tương tàn, ta giết ta. Chúng em tản vào dân chúng. Nên y tìm không ra. Trong khi bọn em vẫn ở sát nách y. Đêm nay bọn em đánh úp trấn này.
Thủ-Độ lắc đầu tỏ ý không hiểu :
- Em thuật cho anh nghe uyên nguyên tại sao lại có nội chiến tương tàn như thế này !
Cửu Anh khoan thai thuật :
«...Niên hiệu Trị-bình Long-ứng thứ tư (Mậu Thìn, Dl. 1208) Giặc nổi lên ở Thanh-hóa. Thế cực lớn. Vua Cao-tông sai Tả Kim-ngô thượng tướng quân Phạm Du làm Tổng-trấn Thanh-Nghệ ».
- Cái gì là... vua Cao-tông ?
- Anh ngạc nhiên cũng phải, cái ông vua có tên là Long-Trát sai anh đi sứ đó, băng hà rồi. Thái-tử Sảm lên nối ngôi, đặt miếu hiệu cho ông ta là Cao-tông. Để em thuật tiếp.
«...Quách Bốc coi Khu-mật viện tâu rằng : Nhân nắm binh quyền trong tay, Du làm phản. Một mặt Du đem quân ở Nghệ-an, Thanh-hóa tiến ra. Một mặt chân tay của Du ở Quốc-oai cất quân theo Du, đánh về Thăng-long. Vua sai Phụng-ngự là Vũ-kỵ thượng tướng quân Phạm Bỉnh-Di làm chánh tướng. Hổ-uy đại tướng quân Quách Bốc, Chinh-viễn đại tướng quân Phạm Bỉnh-Du làm phó tướng. Bỉnh-Du là con Di; đem quân đi dẹp. Du bị thua, bỏ Thanh-Nghệ chạy ra Quốc-oai. Bỉnh-Di, Quách Bốc, Bỉnh-Du kéo quân về Quốc-oai, đánh tan quân Du, nhân đó đem võ sĩ về quê Du bắt hết vợ, con, gia thuộc xử tử tận số. Lại tịch biên gia sản đốt hết. Du trốn thoát về kinh vào triều kiến vua, kêu oan rằng : Thần tuân chỉ bệ hạ, đem quân vào Thanh-nghệ dẹp giặc. Không ngờ bị Phạm Bỉnh-Di vì tư thù cáo gian. Bệ hạ tin lời, sai y cầm quân đánh hạ thần. Hạ thần biết Di tuân chỉ, mà đem quân đến, nên không dám chống cự. Di lợi dụng có chiếu chỉ trong tay, đem quân giết ba họ nhà thần. Vua giận lắm, sai sứ gọi Phạm Bỉnh-Di, Quách Bốc về kinh. Bỉnh-Di dẫn con là Bỉnh-Du vào triều kiến vua. Có người mách Di rằng : Chớ có vào triều kiến. Vào thì sẽ bị vua xử trảm. Vì vua đã nghe lời kêu oan của Phạm Du rồi. Ỷ vào thế quân của mình mạnh, lại đang đóng ngoài thành Thăng-long. Di nói : Ta tuân chỉ vua mà ra quân dẹp giặc, ta há sợ lời xàm tấu của giặc ư ? Vả vua có chỉ triệu hồi, ta còn trốn vào đâu được ?
Bỉnh-Di dặn Quách Bốc : Sự đã như thế này, ta cứ vào triều kiến. Nếu như vua nghe lời Phạm Du làm tội ta, thì hiền đệ đem quân vào phá ngục cứu ta ra. Bỉnh Di dẫn Bỉnh-Du vào bệ kiến. Bỉnh-Di đối chất vối Phạm Du, bị yếu lý. Vua sai bắt cha con Di giam lại, rồi tuyên chỉ gọi Quách Bốc vào chầu. Bốc thấy nguy, kéo quân vây Hoàng-thành. Vua nổi giận sai lấy giáo đâm chết cha con Bỉnh Di, rồi cùng Hoàng-hậu bỏ kinh thành chạy lên Quy-hóa. Bọn Quách Bốc lấy chiếu của vua bọc xác cha con Bỉnh Di, dùng xe vua chở khắp Thăng-long cho hả dạ kẻ chết oan.
Quách triệu tập các quan lại, tuyên bố : Hôn quân vô đạo, nghe lời giặc, giết hại danh tướng cầm quân. Nay không biết ở đâu. Nước một ngày không thể không vua. Vậy hãy lập Hoàng-tử Long-Thẩm lên nối ngôi. Long-Thẩm phong cho Quách Bốc làm Phụ-quốc thái úy. Đàm Dĩ-Mông làm Thái-sư. Nguyễn Chính-Lại làm Thái-phó. Hơn 20 người nhận chức của Long-Thẩm. Lại truy phong cho Phạm Bỉnh-Di làm Trung-vũ đại vương. Bỉnh-Du làm Nghĩa-thành công.
Bọn Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng không phục Quách Bốc. Hai người dấy quân chống lại, mỗi người hùng cứ một phương. Trong nước thành ra ba sứ quân đánh nhau.
Còn Thái-tử Sảm thì bỏ chạy về Hải-ấp, trấn Thiên-trường nương nhờ Thần-nông sứ Trần Lý. Trước hoàn cảnh đất nước hỗn loạn, dân chúng khốn khổ đến nỗi sống không nổi, mà chết cũng không xong. Thần-nông sứ Trần Lý triệu tập chư vị chưởng môn, chư vị đại tôn sư các phái, để xin quyết định rằng, có nên giúp Thái-tử Sảm dẹp giặc không ? Các tôn sư đều quyết định : Tuy hơn trăm năm qua, triều Lý đã làm không biết bao nhiêu điều khiến cho đất nước ly loạn, dân chúng khốn khổ. Nhưng nay trước nạn giặc dã nổi lên khắp nơi. Sĩ dân phải tuốt gươm dẹp giặc. Sau khi yên dân, ta sẽ ép triều đình phải cải cách.
Anh hùng các nơi bầu Thần-nông sứ Trần Lý làm thủ lĩnh.
Thần-nông sứ Trần Lý được Thái-tử Sảm phong cho chức Phụ-quốc thái-úy, Bình-chương quân quốc trọng sự, Chiêu-văn quan đại học sĩ, giám tu quốc sử. Khai-hoang sứ Tô Trung-Từ hàm Đặc-tiến Thiếu-bảo, Binh-bộ thượng thư, Uy-viễn đại học sĩ, kiêm chức Điện-tiền chỉ huy sứ. Đại đô đốc Phùng Tá-Chu hàm Hiệp-tán Thái-bảo, quản Khu-mật viện, tước Long-biên công. Nguyên-sư bản bang Trần Thừa hàm Thái-tử thiếu bảo, Tham-tri chính sự, Văn-minh điện đại học sĩ, lĩnh Bình-lỗ thượng tướng quân, Thượng-thư lệnh kiêm trung thư lệnh. Tả hộ pháp Trần Tự-Khánh hàm Thái-tử thái bảo lĩnh Phiêu-kỵ thượng tướng quân, Long-thành tiết độ sứ, Tổng-lĩnh Thiên-tử binh. Hữu hộ pháp Phạm Kính-Ân hàm Thái-phó thượng trụ quốc, lĩnh Lại-bộ thượng thư, Càn-nguyên điện đại học sĩ, tước Đông-triều quốc công.
Thái-tử Long-Sảm cầu hôn Lễ-vụ bản bang Trần-thị Kim-Dung ».
- Sao ? Cái gì ? Y cầu hôn Kim-Dung à ?
Thủ-Độ chết điếng người đi : Anh chắc sư bá Trần Lý không gả.
- Người gả mới khổ chứ !
- Trời ! ! !
« Thái-úy không mấy đồng ý. Song anh hùng các nơi khuyên rằng : Thái-tử Sảm vốn là người dễ bị ảnh hưởng bởi kẻ xấu. Mà Kim-Dung là một nữ trung hào kiệt. Nếu Kim-Dung làm vương phi của Long-Sảm, thì người có thể kiềm chế được y ».
Chân tay Thủ-Độ run lẩy bẩy, tai Hầu ù đi :
- Thế là hết ! Hỡi ơi ! Kim-Dung từng hứa với ta rằng nàng biết có ta. Thế mà nay lại chịu lấy tên mặt dơi Long-Sảm ! Suốt mấy năm ở Mông-cổ, ngày ta nhớ, đêm ta tưởng. Thế mà bây giờ hóa ra một tuồng hư ảo !
« Thái-úy Trần Lý truyền một hịch đi khắp nơi kể tội bọn Quách Bốc, Đàm Dĩ-Mông, rồi kêu gọi các trấn đem quân về dẹp giặc. Hầu hết các Tuyên-vũ sứ, An-phủ sứ đều án binh bất động. Tuy vậy với lực lượng đệ tử của các gia, các phái, của Thủy-quân, Thái-úy đem quân về đánh với quân của Quách Bốc. Cuộc chiến kéo dài mấy tháng mà vẫn không khôi phục được Thăng-long ».
- Tại sao lại vô lý như vậy. Một bên là hào kiệt, các võ phái lại có chính nghĩa, mà không thắng được bọn Quách Bốc ư ?
- Giản dị thôi. Về chính nghĩa thì một bên là Hoàng-tử Thẩm, một bên là Thái-tử Sảm. Hai người đều là con vua. Chả ai hơn ai cả. Hoàng-tử Thẩm có lợi thế là hầu hết các quan văn võ trong triều đều ở Thăng-long, nên họ phải theo y. Còn phía Thái-tử Sảm tuy được các võ phái, nhất là lực lượng phái Đông-a phò tá, nhưng quân là quân ô hợp, tướng không kinh nghiệm cầm quân. Trong khi quân của Quách Bốc là quân triều, thiện chiến, tướng kinh nghiệm chiến đấu.
«... Sau Nguyên-sư Trần Thừa, Tả hộ pháp Trần Tự-Khánh, Tổng-lĩnh Khả-hãn Phạm Kính-Nghĩa âm thầm họp với các Khả-hãn quanh Thăng-long để yêu cầu giúp Thái-tử Sảm. Cuộc họp gồm các Khả-hãn vùng Tây-hồ, Gia-lâm, Cổ-loa, Long-biên, Bắc-ngạn, Thiên-trường. Nhưng thất bại. Bởi không Khả-hãn nào chịu giúp Thái-tử Sảm".
Từ đầu đến cuối, phó sứ Chu Mạnh-Nhu không nói một tiếng nào. Bây giờ y mời hỏi:
- Thưa cô nương! Bang Lĩnh-Nam do Khâm-sứ đại nhân làm bang trưởng. Nay người đi vắng, thì Nguyên-sư hay Tả Hữu hộ pháp có sẽ thay thế. Vì quốc sự, ba vị đó ra lệnh, mà các Khả-hãn chống lại ư?
- Nguyên-sư, Tả Hữu hộ pháp cũng như Phó-sứ đại nhân, không ai biết mục đích nguyên thủy thành lập bang, vì vậy không ai hiểu chúng tôi cả.
- Xin cô nương nói rõ hơn.
- Lúc thành lập bang, chỉ có Đại-hãn, Kim-Dung, Mỹ-Vân, Thập-bát anh hào tổng cộng 21 người. Tôn chỉ của chúng tôi là Lời nguyền Chân-giáo, Lời nguyền Tây-hồ và Lời nguyền trước lăng Quốc-tổ tức lời nguyền Hy-cương. Chúng tôi cùng thề rằng, bất cứ trường hợp nào, cũng không thay đổi tôn chỉ đó.
- À, tôi không biết nội dung ba lời nguyền, nên không hiểu nổi. Cô nương có thể tiết lộ cho tôi nghe đôi chút về ba lời nguyền đó chăng?
Cửu-Anh đưa mắt nhìn Thủ-Độ ngụ ý hỏi: Có nên nói không? Thủ-Độ gật đầu. Cửu-Anh tóm lược ba lời nguyền cho Mạnh-Nhu nghe, rồi kết luận:
- Lời nguyền tuy dài, nhưng tóm lại có ba điều tối quan trọng. Một là hy sinh thân mình cho sự nghiệp Đại-Việt. Dù điều xấu đến đâu cũng làm, miễn là có lợi cho đất nước. Hai là lật đổ triều Lý. Ba là giết bọn Gia-thụy ngũ anh, bởi chúng là những kẻ thù không đội trời chung của Đại-hãn.
Mạnh-Nhu chợt hiểu:
- Vì vậy các Khã-hãn không giúp Sảm, cũng chẳng theo Thẩm. Bởi cả hai đều là kẻ thù của Khâm-sứ đại nhân.
- Rồi sau ra sao?
Thủ-Độ hỏi:
- Cuối cùng tại sao các em giúp Sảm?
"... Chúng em căn cứ vào điều thứ nhất, hy sinh thân mình cho sự nghiệp đất nước. Nguyên do, chiến cuộc kéo dài, dân Thăng-long khổ quá, bọn Khả-hãn quanh Thăng-long mới chịu ra quân. Nhưng chỉ ra quân giúp Thái-úy Trần Lý, Nguyên-sư Trần Thừa, Tả hộ pháp Trần Tự-Khánh, chứ không giúp triều Lý. Thế rồi chỉ một trận bọn Quách Bốc bị đánh bại.