- Bản Thạch Đào chúng ta từ hai thế hệ, không có chiến chinh, nay địch thế mạnh như hổ đói, chúng ta tạm thời hàng phục để khỏi tổn hai sinh linh. Chúng tôi quyết định ôn hòa điều đình, xin mọi người tin tưởng, đừng ai bạo động, trái lại chúng ta cư xử lịch sự đón tiếp « Sứ giả », nếu ai bạo động sẽ chịu quân pháp.
Lời tuyên bố hàng phục làm cử tọa ngạc nhiên, nhưng sau khi suy nghĩ so sánh quân lực, họ thực tâm nghe theo bản trưởng. Bản trưởng tiếp tục:
- Tôi sẽ đích thân dẫn phái đoàn nghênh tiếp « sứ giả » Mãn Thanh. Quý vị ở nhà, phân công bày tiệc toàn xã. Tất cả mọi người, già trẻ, lớn bé đều dự. Nếu sứ giả có nói điều chi làm chúng ta phật ý cũng không ai được bạo động, kể cả trả lời.
Tôi cũng dự vào đoàn nghênh tiếp sứ giả. Gồm chín người kể cả đoàn trưởng La Đại Hoành, năm nam ba nữ. Nam có hiệp liệt kiến trúc Bùi Đình Quý biết xử dụng chất nổ, và ba tuần viên cùng tôi. Nữ, em gái Cúc Xuyên của tôi, rạng rỡ xinh tươi trong bộ võ y màu hồng, một viên hồng ngọc ở vòng cổ, làm nổi bật tuổi trăng rằm, mà biến thành giai nhân tuyệt sắc 19, 20, vì đôi môi tô thắm và cặp má hồng khêu gợi…Thanh Duyên, võ y xanh lá, không phần thua kém, vừng trán thông minh, đôi mắt huyền, mũi nhỏ thanh, đôi môi hé mở hàng châu ngọc, búi tóc đỉnh đầu, trâm bạc cài ngang, còn nữ hiệp mới gặp, võ y chẽn sát mình nâu nhạt, làm nổi bật thân hình lưng ong thắt đáy, và nước da mật ong, cặp mắt sáng ngời, đôi môi chúm chím, tóc buộc ngắn bằng giải lụa màu vàng lá úa, khuôn mặt trái soan…ba người ba vẻ, cách trang điểm mê hồn cũng là chiến thuật Thạch Đào…Người thứ ba là Phạm Nguyệt Hà, chuyên môn thủy lợi, quản trị tường đập Xích Bích, thủ lĩnh một đoàn nữ binh bơi lội.
Tôi (Nguyên Thái) nhìn ba giai nhân, không khỏi nghĩ đến trang sách Bồ Đào Nha, đọc ở Phố Hiến, có bức họa Mục đồng Pari chấm thi sắc đẹp ba giai nhân…Dọc đường tôi kéo ngựa đến bên Nguyệt Hà hỏi chuyện, Cúc Xuyên liếc mắt phản đối, tôi đành lui lại, e ngại chuyện nhỏ hỏng việc lớn.
Đến tiền đồn, không thấy bóng dáng quân địch, chúng tôi đi thêm nửa dặm. Tiền quân Bành Đức Dực, án binh giữa cánh đồng, bên dòng suối nhỏ. Nhiệm vụ của tôi là quan sát. Tôi thấy canh phòng không nghiêm ngặt, số quân binh khoảng hơn năm mươi. Hỏa đầu quân đang mổ lợn, giết gà, nấu cơm…chúng tôi đến gần hai ba chục thước mới có báo động, vì chúng tôi đi dọc hàng cây nhỏ bên đường.
Tuần viên giơ cao ngọn cờ trắng có ghi:
" Chức trách Thạch Đào hoan nghênh Thanh triều quân Bành Đức."
Đội trưởng dẫn chúng tôi đến bản doanh. Một ngạc nhiên: Chủ tướng ở trong một lều kiểu Mông Cổ, nóc như nón úp. La đại bá và chúng tôi xuống ngựa chờ ngoài cửa. Khoảng vài phút, một võ tướng, y phục Mãn Thanh chạy ra:
- Tôi, Phan Thế, phó tướng xin mời bản trưởng vào. Chúng tôi theo Bản trưởng vào lều. Không ai cản trở, vì chúng tôi không đeo vũ khí.
Chủ tướng (mà sau này chúng tôi biết tên Hàn Duệ, Mãn Thanh) chễm chệ, ghế bành, bục cao, thái độ kiêu căng ngạo nghễ. Chúng tôi vòng tay cúi chào, Hàn Duệ không thèm đáp lễ, ngồi yên gật đầu. Phó tướng Phan Thế, người Hán, không vòng tay, chỉ khẽ nghiêng mình. Thấy phái đoàn chúng tôi có chín người, Hàn Duệ quay lại tỳ tướng đứng hầu bên cạnh. Hắn nhận lệnh ra đi. Vài phút sau trong lều có thêm 8 tùy thuộc, vào ngồi đối diện chúng tôi.
Chúng tôi từng người ra tự giới thiệu, nam trước, nữ sau. Thứ bực giới thiệu cũng cố ý, mỹ nhân kế của Thạch Đào.
Thanh Duyên, Nguyệt Hà và Cúc Xuyên ra chào cùng lượt. Ba Giai nhân duyên dáng, cúi đầu, hơi hạ mình, ngước mắt, khoé thu ba gợn sóng:
- Bọn chúng em, thôn nữ Thạch Đào kính chào chủ tướng.
Hàn Duệ nhìn thấy ba nàng, đổi hẳn thái độ, đứng lên, định bước xuống thì ba nàng đã trở về chỗ cũ, ngồi trên ghế đẩu.
Mọi người, không ai để ý đến đại diện Lê triều, Lê Tôn Thắng, ngồi cạnh phó tướng Phan Thế.
Bản trưỏng tuyên bố dân láng đồng ý đón tiếp đoàn quân Bành Đức ở Thạch Đào, sẵn sàng cộng tác, đồng ý để quân đoàn Mãn Thanh dùng đường đi Trà Sơn…Tóm tắt mọi điều trong tối hậu thư nhận hết.
Hàn Duệ tỏ vẻ hài lòng, muốn giữ cả đoàn dùng cơm chiều, nhưng La Bản trưởng nói:
- Dân bản tổ chức dạ tiệc đón phái đoàn Mãn Thanh, thiết tưởng không nên để dân chúng thất vọng. Chúng tôi có nhiệm vụ đến đón đại tướng về Thạch Đào…-
Đại Hoành nói tới đây, thì ba giai nhân cáo lui, lấy cớ về kiểm tra bếp nước.
- Thôi, tôi ý lời La bản trưởng, Đại quân năm ngày nữa mới tới đây, thôi thì tôi có năm ngày nghỉ ngơi vui thú.
Cái bí mật quân sự này được chính tiền phong tướng nói ra. Chúng tôi làm như không nghe thấy.
Hàn Duệ định tâm ăn chơi riêng, nên chỉ mang theo phó tướng Phan Thế, và bốn vệ sĩ. Đại diện Lê Tôn Thắng đòi đi theo, Hồ Duệ không chịu, Tôn Thắng căn hờn ở lại.
Đại Hoành nói:
- Tiệc này dành riêng quân đoàn của đại tướng Hồ đại nhân, nếu Lê triều biết thì Hàn đại nhân sẽ mang tiếng…rồi ông quay lại Bùi Hiệp Liệt:
- Hiền đệ hãy ở lại khe môn Âu Lạc, nếu Lê Đại diện không tuân lệnh Hồ chủ tường, thì phải cản đường…không cho thêm bước nào nữa.
Bùi Đình Quý hiểu ý, nói xin tuân, lại nói đùa:
- Nhớ để dành cho ngu đệ rượu thịt vài cân…nhé.
0.
Dọc đường từ cửa khe đến công quán, không có một dấu vết phòng thủ quân sự, trái lại dân cư vui vẻ hồn nhiên, bà già ru cháu, kẽo kẹt võng đưa, trẻ con chơi diều, thổi sáo, hát ca đâu đó. Công quán treo đèn kết hoa, trong nhà ngoài sân nhộn nhịp, mùi thịt nướng ngào ngạt bay, khói xanh bếp nước bay cao trên trời. Hàn Duệ vui vẻ vào chính diện giữ ngôi chủ, phó Phan Thế ngồi bên phải. La lão trượng, tiên chỉ, bên trái, theo thứ tự các chức việc. Đỗ quái kiệt phải có người dìu qua bàn tiệc. Bốn vệ sĩ Mãn Thanh ngồi riêng một bàn gần ngay chủ tướng. Lê Duy Thành, thân phụ Duy Trú (Duy Trú vẫn còn bị giam), nhớn nhác tìm Lê Tôn Thắng. Một võ sĩ của Đại Hoành kín đáo ngồi cạnh hắn từ lâu.
Mọi người ăn uống no say. Đến phần giải trí. Trước khi bắt đầu, chờ Thanh Duyên sửa soạn đàn tam thập lục, Cúc Xuyên, Nguyệt Hà và mấy thiếu nữ cực kỳ diễm lệ sửa soạn rượu quý, Đại Hoành nói:
- Thưa Hàn chủ tướng, dù chúng ta ăn uống nghỉ ngơi, nhưng chúng ta không nên sao nhãng việc công, vậy đề nghị chủ tướng biên thơ bào cho Đại quân biết cứ việc đến thẳng Thạch Đào như hẹn. Rồi chúng ta có năm ngày vui chơi; Hàn chủ tướng muốn gì cứ nói sau.
Hàn Duệ bảo tùy viên đưa giấy, ấn tín, thảo luôn bức thư gửi cho Đại quân, nói Thạch Đào đã ở trong tay mình. Đại quân cứ việc đến nơi tiếp nhận
La Đại thúc đứng ra lãnh nhiệm vụ đưa thơ, để cho các vệ sĩ mãn Thanh được nghỉ ngơi dự tiệc.
Hàn Duệ thấy lão gia tiên phong đạo cốt, liền giao thơ. Đúng như dự định, thơ của Hàn Duệ phải chính người của Thạch Đào đưa đi mới chắc chắn tới tay Bành Đức.
La đại thúc, cùng một giai nhân lên ngựa mang thơ đi. Khi đến doanh trại Hồ Duệ, Đại thúc ngầm hạ được một quân binh Mãn Thanh, vứt xác xuống suối, sau khi lột bộ binh phục Mãn Thanh. Gia nhân tin cẩn phi ngựa ngày đêm, với binh phục Mãn Thanh, đưa thơ đến tận tay Bành Đức. Hắn ta mừng rỡ, tin rằng oai danh Quân đoàn Bành Đức lẫy lừng khắp xứ, tới ngày mưu đồ bá vương của hắn rồi. Ra lệnh cho mọi cánh quân tiếp tục hành trình cho đúng hẹn.
Nhắc lại La đại thúc đi khỏi, Nguyệt Hà mang bình rượu bạc định rót cho Hàn Duệ, La Đại Hoành quát to:
- Khoan để ta nếm đã. Rượu phải xứng đáng với Hàn, Phan, nhị vị đại nhân…-
Nguyệt Hà cúi đầu xin lỗi, mang bình bạc rót vào chén Bản trưởng. Bản trưỏng nhấp nháp, uống cạn một hơi, trầm trồ khen ngợi rượu ngon tột bực…
Nguyệt Hà rót rượu cho Hàn Duệ, Phan Thế và cả bốn vệ sĩ, rồi rót vào các chén tộc biểu Thạch Đào, kể cả Lê Duy Thành…trong khi tiếng đàn của Thanh Duyên bắt đầu thánh thoát.
Hàn, Phan và bốn vệ sĩ Mãn Thanh ngà ngà say. Hồ Duệ cười ha hả định nắm tay Nguyệt Hà, Nguyệt Hà liếc duyên Hàn tướng công, rút tay về rót thêm rượu. Hồ Duệ, Phan Thế uống cạn mấy lần…Mấy vệ sĩ cũng chén chú, chén anh.
Hồi lâu, Hàn Duệ, Phan Thế, bốn vệ sĩ, và Lê Duy Thành ngã lăn bất tỉnh. Bình rượu bạc có hai ngăn, một ngăn có thuốc độc rất mạnh. Nữ hiệp sĩ Nguyệt Hà đã tập luyện rót bình bạc ấy từ lâu, nên xong xuôi nhiệm vụ… La bản trưởng đứng lên bực cao lấy chân đẩy Hàn Duệ lăn xuống đất tuyên bố:
Thưa quý vị,
Ban chiều, tôi tuyên bố hàng phục, chỉ là mưu kế, vì nghi trong bản ta có nội phản. Chính Hàn Duệ nói với tôi: Nội phản của chúng ta là bố con Duy Trú. Duy Trú ám sát cảnh trưởng, theo lệnh của Bành Đức, không phải vì ghen tuông…Việc bản cũng như việc nước không thể mềm yếu. Duy Trú mệnh một trong ngục rồi, còn bố là Duy Thành, có nên cứu sống lại hay không tùy dân bản, quyền này dành cho ban tư pháp. Theo tôi, tư thông với Lê triều, không đáng kể, còn tư thông với địch Mãn Thanh, chúng ta không thể khoan hồng.
Sắp có chiến trận lớn, tôi tuyên bố không thể nhân nhượng, tôi đề nghị để địch quân ngủ luôn giấc thiên thu..
Dứt lời sai người lột hết võ phục Mãn Thanh cất đi.
Không ai muốn tha cho Duy Thành, họ xúm vào khiêng bảy thi thể vứt xuống bãi Thổ Lục.
Công việc xong xuôi, trên thềm cao công quán, Đại Hoành gọi loa đồng:
« Hỡi thanh nam, thiếu nữ Thạch Đào, năm ngày nữa là ngày mà chúng ta sẽ tỏ cho thiên hạ biết cái anh dũng hiên ngang của Thạch Đào trong công cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước. Danh tiếng Thạch Đào sẽ vang lừng bốn cõi, treo gương sáng cho thế hệ mai sau »
« Chúng ta quyết đánh và quyết thắng!»
Mọi người hoan hô vang dội đồi núi:
- Quyết thắng!…quyết thắng!
Lại nói về Đặng Quang Anh kể tới khi chàng trở về chiến tuyến, nơi núi non trùng điệp ở biên thùy Hoa Việt, vùng Tà Lùng, có mấy ngàn quân Mãn Thanh đang bao vây sơn đồn của Đèo quan lang . Quang Anh tiếp : Cha và gia nhân nghĩ vượt vòng vây ban đêm không khó khăn ; diệt được nhóm địch tuần la, biết khẩu hiệu của họ cho nên cả bọn an toàn vào sát chân đồn. Cha ném lên mặt thành hòn đá bọc vải có viết : «Kinh Bắc Quân Đoàn» chỉ là kế nghi binh, đề phòng nếu cha bị địch bắt. Không có quân đoàn nào tiếp viện mà trái lại địch quân càng ngày càng đông. Cha và quan lang kiểm điểm lực lượng, thì biết chắc cố thủ không qua ba ngày nữa. Tình thế cấp bách, mấy chục quân sĩ, một phần bị thương, còn lại cố sức cầm cự ở mức độ nào chăng nữa cũng không thể giữ đến ngày thứ tư. Sau khi nghiên cứu, cha khám phá một yếu điểm của tường thành. Nơi này phía ngoài có cây cỏ rậm rạp khoảng 50 thước dốc thẳng tới bờ suối, một khoảng khá sâu nên giặc không chú ý. Cha đề nghị đục một lỗ vừa người chui lọt ở nơi tường đó. Không thể đục ban đêm vì giặc nghe tiếng. Chương trình thi hành sáng mai, mỗi khi giặc tấn công bằng hỏa lực, tiếng đục sẽ lấn tiếng súng. Đêm mai khi giặc ngủ yên, mọi người lần lượt sẽ do lỗ tường ấy xuống suối, giặc không thể hay biết, vì cây cối rậm rạp che đường. Tuy nhiên không thể bơi trên mặt nước vì giặc sẽ trông thấy, nên cha trưng thu tất cả sào màn và cần bình rượu, mà nơi này sẳn có. Sào màn cắt thành ba, dùng xiên sắt nung đỏ thông suốt, cỏn cần rượu thì để nguyên vì đã thông sẵn. Những vật này dùng để thở khi lội ngầm dưới nước suối . Kế hoạch không thể thành tựu hoàn vẹn. Cha rất lo lắng vì thương binh khó lòng chịu đựng. Sáng sau vào giờ thìn, giặc bắt đầu công phá bằng từng loạt hỏa mai. Hai người nhà ta lãnh nhiệm vụ đục tường. Chỉ đục khi nào giặc nổ súng hò reo. Vì vậy lỗ tường mãi đến giờ dậu mới xong. Nhu vậy đêm nay có thể thi hành kế hoạch bỏ thành . Sở dĩ cha kể chi tiết cho con nghe, vì nhân dịp muốn con thâu nhận những kinh nghiệm, phòng khi cần đến . Sân đồn có ba bể cạn lớn, ngập đầu người. Cha Trung thu một bể, đổ đầy nước, bắt ai cũng phải lần lượt vào bể tập thở bằng mồm qua dụng cụ giản dị ấy. Vì kế hoạch thành tựu hay thất bại chỉ vì chi tiết. Đến giờ khởi hành, Đèo quan lang mời cha đến sảnh đường. Ở đây sẵn chờ toàn bộ chỉ huy doanh trại, lại có cà Đèo phu nhân và hai con. Đèo quan lang tóc đã hoa râm, nhưng Đèo phu nhân còn trẻ, vào quãng hơn ba mươi tuổi, trông thực dẹp đôi . Đèo quan lang nói : Ngay khi giặc bao vây tôi đã cho người cầu viện Trấn thủ Sơn Hà mà không thấy gì, nay chúng tôi nhiệt liệt tin tuởng kế hoạch của tráng sĩ. Bỏ thành, còn có ngày lấy lại. Tuần tiết với thành chỉ là một cử chỉ để thỏa lòng tự ái cá nhân. Tôi để quân sĩ hoàn toàn tự do chọn lựa. Mọi người, sau khi suy nghĩ đều y theo kế hoạch của tráng sĩ. Nhưng đi tất cả đêm nay, tôi e rằng khó thành tựu, cho nên tôi đã quyết định một nửa ở lại, đến tối mai. Đêm nay, xin giao tiện nội và hai con, nhờ tráng sĩ trông nom hộ, nếu tôi có mệnh hệ nào, ơn ấy như núi Thái Sơn. Tráng sĩ cứ đưa ba người về Kinh Bắc, tá túc tại Dương Châu. Giải quyết xong chuyện nơi đây, sẽ xin đón về. Đèo phu nhân phản đối : - Nhiệm vụ thiếp phải ở cạnh tướng công. Chỉ xin trao cho tráng sĩ con gái và con trai với đoàn đi trước đêm nay . Dút lời nàng đến trước cha, quỳ xuống, nước mắt ròng ròng : -Thân này không đáng kể, chỉ xin tráng sĩ nhận hai đứa con chúng tôi, đem chúng đến nơi an toàn ..Cử chỉ của phu nhân làm cha luống cuống. Cha nâng người dậy, hứa lãnh nhiệm vụ, hết sức bảo vệ như con em của cha . Cha thấy cũng có lý cần hai đứa trẻ ưu tiên ra khỏi vòng vây, nên thôi tranh luận . Phu nhân nói con gái 14 tuổi, tên Đèo Sơn Vân, còn con trai gần hai tuổi, Đèo Nhật Tú . Phu nhân cho Nhật Tú uống một ly chè đặt biệt, vô hại nhưng làm cho Nhật Tú ngủ say trong ba bốn tiếng đồng hồ, đề phòng em bé kêu khóc khi qua vòng vây. Nhật Tú chưa đầy vài phút đã ngủ say. Đèo phu nhân sửa soạn chiếc địu, định đeo sau lưng Sơn Vân thì cha bảo buộc vào lưng cha . Đến giờ lên đường, Sơn Vân nhất định xin ở lại cùng cha mẹ, nhưng ông bà cương quyết ra lệnh cho con gái theo cha . Đúng như đã tính trước, cha cùng mọi người an toàn ra khỏi vòng vây, cấp tốc đến nơi liên lạc. Cha biên thư giao cho ba gia nhân hộ tống Sơn Vân và Nhật Tú về Kinh Bắc, còn cha và hai người nhà tinh nhuệ và đoàn người mới tuyển về chiến địa. Mọi người khôn cầm giọt lệ. Thành trì đã tan hoang, trên cột, cở Mãn Thanh ngạo nghễ. Một thổ dân trốn thoát cho hay, sau khi cha đi chừng hai giờ, giặc đổi chiến thuật tấn công vào đầu dần, Đèo quan lang và phu nhân cùng quân sĩ còn lại đã hy sinh đến người cuối cùng . Cha quyết định hồi hương, đem theo mối ân hận nặng nề, đáng lẽ phải cương quyết bắt toàn thể mọi người ra đi ngay đêm ấy. Hình ảnh ông, bà cứ theo mãi cha trên đường xuôi Kinh Bắc . Định dùng thuyền, nhưng được tin Hắc Y Đạo đã chiếm đóng một vùng rộng lớn, ngang đường về, cha đi vòng duyên hải về nhà . Thế là từ khi từ biệt mẹ con đến ngày trở về, thấm thoát sáu tháng đã qua, cha vô cùng lo ngại, linh tính có chuyện không hay cho Sơn Vân và Nhật Tú. Đáng lẽ bọn này phải đến nhà từ hai tháng trước mà nay chẳng vân mòng . Cha căn dặn gia nhân cùng về không được hở chuyện Sơn Vân và Nhật Tú với mẹ con vì lúc đó mẹ con mới sinh con, mà con thì trứng nước . Cho dò la mấy tháng trời mà không tung tích hai trẻ . Khi con đầy tuổi tôi, cha tự mình ra đi điều ta, định tâm khi tìm thấy mới dẫn hai trẻ về cho mẹ con hay. Con ơi! không thể nói hết mối hận của cha. Vô tình cha đã lỗi thề. Nếu ông bà linh thiêng xin thứ lỗi vì cha khồng tròn lời hứa. Cha quyết tâm dành cuộc đời còn lại để tìm cho ra hai trẻ . Đặt bản doanh ở Chiêu Vân Các, gửi người đi khắp nơi, xâm nhập cả vùng Hắc y, uổng công năm sáu tháng trời. Một buổi sáng, đang đi chơi bờ hồ Thủy quân ( Hồ Hoàn Kiếm ) thoáng nghe bọn ăn chơi bàn tán đến một ca nhi mà họ gọi là «người đẹp sơn lâm» mới về phường Hàng Giấy chừng vài tháng. Cha hỏi chuyện, họ kể rằng đó là một người rất khó gặp, nếu không phải là vuông tôn công tử, hoặc triệu phú giàu sang danh tiếng. Bọn ấy lại nói, nếu không quyền thế thì phải hàng tao nhân mặc khách, nàng mới tiếp. Mà dù vương tôn, dù công tử, dù tao nhân mặc khách, tiền đưa trước cho mụ quản gia ít nhất cũng bốn năm trăm lạng vàng. Đã có người muốn chuộc nàng, nhưng tên «sở hửu nhà » là một tên cận vệ uy quyền của An Trung hầu, tự do đi lâi ở Phủ Trịnh, Cung Lê, võ nghệ cao cường, hung hãn bạo tàn, đã nhúng tay vào nhiều vụ án mạng ở kinh đô … Hắn ta họ Lê, tên Thiết Lực . Xóm ăn chơi, chưa bao giờ cha để chân. Cha đóng vai tiêu xài phóng túng, cùng vài gia nhân và mấy bạn thân, đến phường Hàng Giấy, ngay chiều hôm ấy. Quả nhiên, như lời đồn, phải bỏ ra hai lạng vàng để ghi vào danh sách những người muốn gặp. Không thuộc mánh khoé nơi ăn chơi, may có người bạn đi cùng dàn xếp, thêm ba lạng, cho được gặp ngay tối ấy . Đến giờ, cha cùng mấy người bạn vào đợi ở sảnh đường. Cha đem thêm mấy gia nhân tin cẩn, án ngữ cửa ngoài . Người hầu pha trà dâng nước, cha nóng ruột chỉ nhấp môi mà cũng không để ý cách bày trí sang trọng nơi này. Một lát hai thị nữ bước xuống thang lầu, theo sau một thiếu nữ y phục sơn cước, áo chẽn, hàng khuy tết trước ngực, xiêm đen dài phủ gót chân, cực kỳ diễm lệ. Đã hơn hai năm rì, cha đang lưỡng lự không chắc là nàng thì, nhìn thấy cha, bất chầp những người trong phòng khách, nàng chạy đến ôm cha khóc nức nở. Cha bấy giờ mới biết là Đèo Sơn Vân. Nàng có thay đổi nhiều, cao hơn trước, thành một giai nhân sắc nước hương trời. Lời đồn đại không ngoa. Có các bạn chứng kiến, nàng kể lại chuyện từ khi rời an toàn khu cùng ba gia nhân lên đường xuống đồng bằng. Sau mấy ngày bằng yên, một hôm nàng cùng gia nhân chúng ta và bé Nhật Tú gặp một đoàn mấy trăm quân binh mang cờ Trịnh Phủ. Đoàn quân này vừa rời khu Mường Then, sau mấy trận giao phong cùng quân lực Hoàng Công Chất. Đoàn trưởng cho giọ nàng vào hỏi han điều tra thường lệ. Nàng và ba gia nhân nhà ta cứ sự thực trình bày, nói thêm là giặc Mãn Thanh vây hãm thành Tà Lùng, Đèo quan lang cùng bộ hạ cố thủ. Nay tiện đây xin Đoàn trưởng cử binh tiếp viện. Đoàn trưởng hay nàng là con gái Đèo quan lang đi cùng em trai Nhật Tú, định cho người tiếp đãi vào hàng tân khách, thì một viên võ quan ghé tai nói thầm hồi lâu. Đoàn trưởng bỗng thay đổi thái độ, quát tháo : -Chúng bay là quân phiến loạn, vừa liên lạc với Keo Chất, muốn xuống đồng bằng làm gián điệp cho giặc, ta phải bắt giam để tra cứu . Tức thì ra lệnh bắt trói cả nàng và ba giai nhân, giao cho viên võ quan ấy giải đến gửi ngục thất tri phủ sở tại. Võ quan ấy ở lại phủ này tiếp tục hỏi cung đánh đập tra tấn ba gia nhân chúng ta cực kỳ tàn nhẫn, lại bắt nàng chứng kiến những cuộc tra tấn ấy, doạ nạt bắt nàng kỳ tên tờ nhận tội, nếu nhận tên ấy tha cho gia nhân. Nàng đành ký tên. sáng sớm tinh sương hôm sau, tên ấy vào mở cửa ngục dẫn ba gia nhân đi, nói trả lại tự do. Nàng lấy làm lạ, trả tự do, sao còn phải trói tay và đeo gông . Thì ra đó là mưu kế giảo quyệt của tên ấy, người ta nói với nàng ba gia nhân bị hành quyết ngay khi đến khu rừng gần đó . Cha không cầm được giọt lệ thương xót ba người mà mấy người bạn cũng vô cùng tức giận. Nàng nói rõ ba người võ nghệ cao tường, nhưng quá tin quân đội chính quy Phủ Trịnh nên rơi vào bẫy, hết cách chống trả. sau mới hiểu ra võ quan ấy tên Hồ Đức Kỷ phụ trách điệp quân của quân đoàn. Hắn ta biết đồn Tà Tùng đã thất thủ từ mấy ngày trước. Đèo quan lang có cho người đến cầu viện Trấn Thủ Sơn Hà, mà vị này án binh bất động, bỏ mặc Tà Lùng. Việc này nếu đến tai chúa Trịnh Doanh, chắc chắn Trấn Thủ Sơn Hà sẽ mang tội nặng, mà vị Trấn Thủ Sơn Hà lại thuộc cánh Đoàn trưởng, nên Hồ Đức Kỷ mới bày ra chuyện ấy, chủ tâm tiêu diệt năm người kể cả nàng và bé Nhật Tú, cho mất hết bằng chứng. Nhưng khi nhìn thấy nàng có nhan sắc, Hồ Đức Kỷ nổi tà tâm thêm bực nữa. Tự hắn giải nàng và Nhật Tú về đến phủ Từ, vào một làng hẻo lánh, quê hắn, giao cho người vợ canh giữ. Người đàn bà này cũng không kém phần ác nghiệt. Thực là chồng nào vợ nấy. Nghe nói mụ này có tội nặng, không biết tội gì trốn tránh Kẻ Chợ, về ẩn náu nơi đây. Mụ canh giữ nàng ác nghiệt, nàng chưa có cách vượt ngục thì Hồ Đức Kỷ trở về, bế Nhật Tú mang đi. Nàng kêu khóc phản đối, Hồ Đức Kỷ mặt lạnh như đồng, xách bé Nhật Tú lên ngựa đi thẳng. Mấy hôm sau trở về, giao cho vợ mấy chục lượng bạc, nói là tiền bán Nhật Tú cho một gia đình miền Duyên Hải, nàng cố nghe tên mà không rõ. Sau cùng hai vợ chồng Hồ tặc mở tiệc rượu ăn mừng việc bán Nhật Tú. Tới đêm khuya, hai vợ chồng say rượu, đánh nhau. Đức Kỷ nổi cơn điên đánh vợ chết ngất, rồi hắn ta phá cửa vào phòng giam. Nàng chống cự, nhưng bị đánh ngất đi. Khi tỉnh dậy, đau đớn ê chề, biết đã bị ô nhục, nàng muốn tự tử cho xong, nhưng nghĩ đến Nhật Tú lại thôi. Hồ tặc đã ra đi từ sáng sớm. Mụ vợ lúc đó mới tỉnh nhìn nàng biết chuyện đã xảy ra. Mới đầu chửi mắng nàng thậm tệ, sau bỗng nhiên đấu diu, dẫn nàng đi ngay ra tỉnh để tìm Nhật Tú . Khi đến ngang Kẻ Chợ, mụ ta không cùng Sơn Vân qua đò ngang. Đi ngược lên phía Bắc gửi nàng ở một quán trọ, hẹn mấy ngày trở lại cho biết tung tích Nhật Tú . Chờ ba ngày không có tăm hơi, nàng hỏi thăm chủ quán, một người cao lớn dáng vũ phu, da đen, mắt trắng dã, môi thâm sì. Hắn ta ngửa mặt lên trần, cười lớn, khoe bộ hàm răng mái hiên : -Thế ra cô không biết gì à? Mụ Hồ Kỷ đã bán cô cho ta lấy ba chục lạng bạc. Bây giờ cô phải ở đây, ta bảo gì phải nghe, nếu không … Nàng vừa mở miệng phản đối thì tên ấy ra oai, tát đánh làm nàng ngã lăn. Hắn xách tay kéo nàng lên phòng trên lầu, khóa cửa . Một mình trong phòng suy nghĩ, thấy hối tiếc đã không ở lại cùng mẹ cha từ miền thượng du trong sạch đến nơi đồng bằng tội lỗi, từ tuổi hiền từ ngây thơ đến giao đoạn phải chống đối với ác ôn xảo quyệt. Kiểm điểm phương tiện tự vệ thì chẳng có gì. Về võ nghệ thì chỉ biết cưỡi ngựa ném đao ; về tiền bạc thì không có một xu nhỏ ; mười viên bảo ngọc, năm hồng, năm bích mà mẹ giao cho làm của phòng thân thĩ đã bị Hồ Đức Kỷ tìm thấy và cướp mất trong đêm ô nhục, còn mấy trăm lượng bạc, vàng, bố giao cho ba người hộ tống đều bị Hồ Tặc, nha lại và cơ quan sở tại chia nhau lấy hết ; chỉ còn lại hai thứ quý giá : sắc đẹp và trí khôn . Nàng quyết định sẽ dùng hai khí giới lợi hại này để trả thù bọn ác quỉ sau này. Suy luận nàng đoán chắc mụ Hồ nói dối với chủ quán nàng còn đồng trinh, nên tên này bỏ vốn mua, sẽ bán cái tuyết trinh ấy với giá cao hơn gấp bội, cho nên vừa rồi tát đánh nàng không quá tay, sợ hư hỏng món hàng chưa bán cho người «tiêu thụ » . Nàng gọi chủ quán. Hắn ta lên cùng người vợ mới đi chợ về. Quan sát dáng điệu hai người, nàng thấy quyền hành hẳn ở mụ vợ . Nàng nói : Ông bà hãy nghe con nói, ông bà không cần canh phòng đánh đập. Con cũng chẳng biết đi đâu mà trốn tránh .Con xin ở lại đây với ông bà . Con sẽ giúp ông bà trông nom quán trọ. Con biết nấu bếp, nhiều món ăn mạn ngược chắc sẽ đắt hàng. Năm nay con mới mười bốn, nếu muốn bán con sang năm chắc chắn sẽ nhiều tiền hơn … mấy trăm lượng sẽ đền bù công ơn ông bà, thân này đâu đáng kể ! Mụ vợ : “ Con bé này ăn nói được, tôi bằng lòng. Từ nay là việc riêng của tôi, ông không được đụng chạm. Nuôi lợn cũng phải chờ lớn mới bán được tiền ” ! Dứt lời đuổi chồng đi xuống, dẫn nàng sang một căn phòng ngay cạnh buồng riêng hai vợ chồng chủ quán, cho nàng ở đây, và cho phép dùng quần áo trong rương da của một thiếu phụ bỏ lại. Người này giận chồng sang đây, cắt tóc đi tu ở chùa làng . Thay đổi y phục, quần áo kinh kỳ, nàng xinh đẹp bội phần, mụ chủ hài lòng, từ đó lúc nào cũng có nàng bên cạnh, ra vẻ dậy nàng học tập làm ăn. Nàng vâng dạ, được lòng mụ chủ . Dần dần nàng thay mụ chủ, điều khiển bếp nước, chỉ huy xếp đặt phòng ăn. Nàng viết chữ Hán, Nôm trên giấy hồng điều chiêu hàng ngoài cửa, và những món ăn trên tường phòng ăn, Chữ viết tuyệt đẹp, khách hàng lịch lãm đều trầm trồ ngợi khen, ai cũng muốn gặp «cô gái nuôi » chủ tiệm . Ngoài cửa hàng nàng treo đôi câu đối của người xưa, bằng lối viết thảo cực kỳ bay bướm : Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu. Thoại bất đàu cơ bán cú đa (Rượu gặp bạn ngàn ly cũng thiếu. Chuyện không đúng lúc thì nửa câu cũng thừa .) Thiên hạ tưởng quán đối chủ, chắc chắn là một văn nhân nào thay thế, sau biết là nàng, khách hàng càng thêm dập diều tấp nập. Có mấy tháng trời tiếng đồn đến tận kinh kỳ. Nàng bắt đầu thấy sức mạnh của mình. Lão chủ quán khả ố không dám sàm sỡ một điềumột vì sợ vợ, hai vì vây cánh vô hình của nàng … còn mụ chủ tối tối đếm tiền thâu nhập thấy nàng chẳng thèm tơ hào xu nhỏ, nên càng để ý chăm nom săn sóc con người làm ra của . Mặc khách tao nhân đến quán ai cũng muốn thảo luận văn chương với người đẹp, tặng nàng nhiều sách quí, cho nên nàng càng tiến bộ văn học . Thấy nàng có tài kỵ mã, có người cho nàng một bích câu. Nàng thường dùng ngựa đi thăm các vùng lân cận, hy vọng tung tích Nhật Tú. Mỗi lần ra đi, vợ chồng lão chủ ra cửa, vô cùng lo lắng, nhưng lại thấy trở về, nên lão chủ cũng bỏ ý định bán con ngựa của nàng. Con ngựa giúp nàng luyện tập cơ thể. Dưới đất thì nàng yếu đuối không đủ sức tự vệ, trái lại trên mình ngựa, nếu không vô địch, cũng là đối thủ không thể coi thường. Mười con dao nhỏ, lưỡi mỏng lá tre, bén sắc, là vũ khí phòng thân rất công hiệu Tài nghệ riêng ấy nàng giữ kín. Khi nào gặp Hồ Đức Kỷ sẽ ra tay. Những lưỡi dao làm ở quê nàng bị tịch thu ngay hôm bị quân phủ Trịnh bắt. Đến nay tìm được thợ rèn làm ra đúng kiểu, lại có phần tốt hơn, đem tập luyện ở khu rừng vắng vẻ trong mấy tháng trời, người ngựa ngoài trăm bước trúng hồng tâm cả mười con . Thế rồi việc phải đến đã đến . Thấm thoát một năm qua, nàng qua tuổi trăng tròn, dáng dấp đổi thay, nhan sắc lộng lẫy, «cá lặn chim sa ». Rắp ranh bắn sẻ chẳng thiếu người. Tính ra tiền của vào nhà quá nhiều nên hai vợ chồng lão chủ không nhắc đến lời hứa bán của nàng. Mà thực ra thì cũng không dám nhắc, vì ai ai cũng kính nể, nữa là hai vợ chồng lão chủ … khách hàng, sang hèn chẳng ai dám một lời nói hay một cử chỉ thô tục trước mắt nàng . Trong đám người ngưỡng mộ giai nhân, có Lê Thiết Lực, cận vệ của An Trung Hầu phủ Trịnh, thường kiếm cớ quân vụ sang sông đến quán . Thiết Lực, thuộc hạng «văn hóa có hạn». Thường thường chén chú chén anh cùng vài đồng đội ở một bàn góc phòng, nhưng cấm các bạn không được nói to cười lớn, chỉ sợ giai nhân nghe thấy thì biến mất cái vẻ tao nhân mặc khách mà anh ta cố tạo vẻ mặt . Một buổi trưa, mọi người đang vui vẻ trước bàn ăn thì một sĩ quan, theo sau có bốn người đồng phục cảnh vệ, bước vào phòng . Nàng nhận ra ngay Hồ Tặc, nhưng trấn tĩnh như không . Tên ấy đập bàn quát tháo : - Ta phụng mệnh Tả quân Hà Hòa đoàn trưởng, đến đây bắt nữ can phạm Đèo Sơn Vân, trốn tránh hơn năm nay, tội gián điệp cho Keo Chất và bọn phản tặc Lê Duy Mật .