Long-Xưởng, Thụy-Hương giật mình tỉnh giấc, buông nhau ra, khi chuông chùa ban mai đổ. Thụy-Hương phải về phòng để đốc thúc ngự trù làm điểm tâm cho Long-Xưởng ăn, để rồi còn dự buổi thiết đại triều. Thấy con mắt soi mói của Trung-Tĩnh phu nhân, nàng nghĩ thầm :
- Cái mụ câm này tinh quái lắm. Không chừng hôm qua mụ đã thấy hết những gì ta với Long-Xưởng đã làm. Việc ta với Thủ-Huy bị Tín-Hương biết. Ta treo trên đầu nó cái án trảm thủ, mà giữ bí mật được đến nay. Vậy ta cũng phải dọa mụ này mới được.
Nàng vẫy Trung-Tĩnh :
- Trung-Tĩnh phu nhân ! Hãy theo tôi sang ngự thư phòng.
Tới ngự thư phòng, nàng chỉ bút, rồi hỏi :
- Phu nhân nói không được, mà viết được. Cái sự hôm qua đó... phu nhân định sao ? Không biết tôi phải làm cách gì để phu nhân không thể viết được. Có lẽ tôi phải cắt hai bàn tay phu nhân để sự được giữ kín.
Á-Nương viết :« Quận chúa mở từ tâm ! Từ nay tiểu tỳ sẽ kiểm soát hai bàn tay thực kỹ. Không bao giờ chúng viết bậy ».
Thụy-Hương lại nói :
- Ta nghe phu nhân có phép tiên, biến hóa thành mấy nghìn cái đầu, có đúng vậy không ?
Á-Nương viết :« Tiểu tỳ nguyện để quận chúa chặt hết. Chỉ xin quận chúa chừa cho một cái... mà ăn cơm ».
- Nhớ lấy nhé !
Thế là Thụy-Hương dùng Long-Xưởng thay thế Thủ-Huy. Bệnh nàng đã khỏi hẳn. Tuy vậy, những khi Long-Xưởng ôm nàng trong tay, nàng lại tưởng tượng đó là Thủ-Huy. Hai người sát cánh bên nhau, khi thư phòng, khi viếng thăm Ngự-xạ đài, xem binh tướng bắn tên. Thời gian kéo dài cả mấy tháng.
Hôm ấy, sau một đêm trong tẩm phòng Long-Xưởng, khi trời vừa sáng, nàng dậy trông coi ngự trù làm món ăn sáng ; xong rồi về phòng nghỉ ngơi sau một đêm dài du ngoạn trên tuyệt đỉnh Vu-sơn. Vừa bước vào phòng, đã thấy vú Mai ngồi đó từ bao giờ. Khác với mọi lần, bao giờ vú cũng tự tin, chủ động, dạy nàng làm chủ tình yêu. Lần này mặt vú tái xanh, vú cất tiếng nói giọng lạnh như băng :
- Con ngồi đó đi. Mẹ con ta phải trốn khỏi Thăng-long bằng mọi giá, rồi mai danh, ẩn tích. Nếu chậm trễ thì con sẽ bị voi dày hay ít ra cũng bị ngựa xé.
Thụy-Hương giật mình :
- Có chuyện ấy ư ? Do đâu mà ra ?
- Trước đây mẹ khuyên con nên bắt con nai Long-Xưởng, trong khi đó con cố bắt con nai Thủ-Huy ! Trong ba năm qua, con với Thủ-Huy như người mê cuộc cờ, tưởng rằng cái truyện phòng the không ai biết. Nào ngờ có rất nhiều đại thần, rất nhiều bà phi biết. Chính vì vậy mà con nai Thủ-Huy mới thoát khỏi lưới của con, mà chui vào lưới của Đoan-Nghi.
- Con không hiểu.
- Thủ-Huy là một thiếu niên võ công cao nhất trong các quan tại triều, văn chương quán thế, trí dũng khó ai bì. Y mới mười tám tuổi mà tước đã tới công. Hầu hết các đại thần các bà phi đều muốn chiêu mộ y làm con rể. Vì vậy họ bỏ tiền ra mua chuộc bọn chân tay của Huy, của con. Các bà ấy cho rằng con xuất thân ty tiện, không xứng đáng với Thủ-Huy.
- ! ! !
- Chính Thần-phi Bùi Chiêu-Dương lo sợ con chiếm mất Thủ-Huy, nên đã mật tấu việc con với Thủ-Huy lên hoàng-hậu. Đúng luật ra, hoàng-hậu là chúa hậu cung, khi nghe việc mà bà cho rằng ô uế diễn ra trong Đông-cung, thì lập tức bà truyền bắt con cho voi dầy, ngựa xé. Nhưng bà sợ dư đảng của thái-hậu nhân đó đàn hặc Đông-cung, vì vậy bà lờ đi. Bà muốn chiêu mộ Thủ-Huy cho triều Lý, cho Long-Xưởng, do vậy mới có chỉ dụ khẩn cấp gả Đoan-Nghi cho Thủ-Huy. Thế là dù Thủ-Huy yêu thương con đến đâu, y cũng phải tuân chỉ. Huống hồ...
- Con vẫn không hiểu !
- Huống hồ đàn ông toàn một bọn tham dâm, hiếu sắc, có mới nới cũ. Sau ba năm ngụp lặn truy hoan với con, Thủ-Huy đã chán. Được chỉ dụ, y có cớ quay mặt đi, mà con không thể trách cứ y.
- Chuyện con với Thủ-Huy đã qua... Nhưng tại sao mẹ nói chúng ta sắp chết, phải trốn đi,
- Cái truyện con với Long-Xưởng diễn ra mấy tháng qua trong Đông-cung ai cũng biết cả rồi. Tin này đã tới tai hoàng-hậu. Trước kia, hoàng-hậu biết truyện con với Thủ-Huy bà đã mắng chửi mẹ là con đĩ, nên đẻ ra đứa con như con. Con là đồ dâm bôn, trốn chúa, lộn chồng. Bà cau mặt đòi đoạt tước quận-chúa của con, cũng may Bùi thần phi can gián, vì làm như vậy danh dự Thủ-Huy sẽ mất, e không thể kết hôn với Đoan-Nghi. Bây giờ lại nghe truyện con với Long-Xưởng, hơn nữa Long-Xưởng sắp xin phong con làm vương phi...thì mẹ e bà sẽ đem con ra chợ cho voi dầy hay ngựa xé. Hoặc giả để giữ thể diện của Long-Xưởng, bà sẽ ban mật chỉ giết mẹ con ta không chừng.
- Mẹ đừng sợ . Anh Long-Xưởng là người cầm đại quyền. Anh đã cương quyết xin phong con làm vương phi, như vậy thì hoàng-hậu không thể hạ con được.
- Tại vì Long-Xưởng không biết truyện của con với Thủ-Huy. Nếu Long-Xưởng mà biết, thì y sẽ kinh tởm con ngay. Con hãy tưởng tượng xem, tin con ăn nằm với Long-Xưởng đến tai hoàng-hậu, bà sẽ gọi Long-Xưởng vào cung, kể hết chuyện con với Thủ-Huy cho Long-Xưởng nghe. Bấy giờ bà muốn giết con, hay băm vằm con, mẹ chắc Long-Xưởng cũng vui lòng, hả dạ.
- Con không sợ, hoàng-hậu kết tội con, thì cái ngôi thái-tử của con bà cũng mất. Còn như bà sai người ám sát con ư ? Với bản lĩnh võ công của con, dễ gì ai hại ngầm con ? Bất quá, mẹ con ta sẽ rời Đông-cung về Đăng-châu sống là cùng.
- Con nói ! Tỷ như bà ban chỉ bắt con phải tự tử : Hoặc bằng kiếm, hoặc bằng thuốc độc, hoặc bằng giải lụa thắt cổ ; như vậy con có chống được không ? Con mà chống chỉ dụ, thì hàng trăm thị vệ sẽ nhảy vào băm vằm con ra như băm chả ngay.
- Vậy mẹ bảo con phải làm gì?
- Có một uy quyền trên hoàng-hậu, trên Long-Xưởng. Nếu như con ẩn vào trong uy quyền này, thì mới thoát nạn.
- Ý mẹ muốn nói ?
- Uy quyền nhà vua. Cái ông vua này tuy đần độn, nhưng về vấn đề đàn bà thì khỏe lắm. Tuổi ông lại chưa tơí bốn mươi, nếu như con...
Có tiếng cung nga nói vọng vào :
- Thưa quận chúa ! Có kiệu của Đỗ Thục-phi đón quận chúa nhập cung.
Thụy-Hương lên tiếng :
- Người nói với kiệu phu chờ. Ta trang điểm xong là ra ngay.
Vú Mai nói nhỏ :
- Con vào cung Thục-phi, thế nào cũng gặp hoàng-thượng. Nếu như con làm được với hoàng-thượng những truyện như đã làm với Long-Xưởng, thì bao nhiêu tai nạn cũng thoát. Bấy giờ nào hoàng-hậu, nào phi tần, nào các phu nhân không ai có thể nói ra nói vào về con nữa. Ngược lại họ phải rạp mình trước con.
Rồi vú Mai ghé miệng vào tai Thụy-Hương giảng một lúc. Bà kết luận :
- Triều Lý định rằng hoàng đế có hoàng-hậu và bảy bà phi. Trước đây hoàng-thượng đã có Chiêu-Linh hoàng hậu, Thần-phi Bùi Chiêu-Dương, Quý-phi Hoàng Ngân-Hoa, Thục-phi Đỗ Thụy-Châu, Đức-phi Đỗ Kim-Hằng, Hiền-phi Lê Mỹ-Hoa, Giai-phi Chế Bì-la-bút. Còn chức Tuyên-phi vẫn bỏ trống. Nếu như, khi hoàng-thượng bị con bắt, trong lúc ngài đang say tình, con ỏn thót xin ngài ban chế phong con làm Tuyên-phi. Khi chế ra rồi, thì từ hoàng-hậu cho tới bọn mặt dơi tai cũng đành câm miệng hến . Con nên nhớ, hiện hoàng-hậu với các bà phi, không ai trẻ đẹp bằng con. Họ lại khù khờ, chỉ biết dâng hiến, chứ không có một chút bản lĩnh phòng the nào. Trong khi đó con rất giỏi, lại trải hai lần kinh nghiệm qua Thủ-Huy, Long-Xưởng. Khi hoàng-thượng lọt lưới của con, thì với trí thông minh, với văn tài , với võ công cao. Bấy giờ, chính con mới là vua, chứ không phải hoàng-thượng.
Thụy-Hương như người mù được mở mắt, nàng run run đáp :
- Con hiểu. Nhưng con sợ hoàng-thượng đưa vụ này ra đình nghị, thì mấy lão nho thần lại đem chuyện cũ của mẹ ra làm nhục con.
Vú Mai cười :
- Hoàng thương có hai cái ấn. Con ơi ! Con có biết rằng phàm khi ban chỉ, thì phần hành của bộ nào, do bộ ấy soạn rồi chuyển sang tòa Trung-thư lệnh, để trình Tể-tướng duyệt, và kiềm ấn. Cái ấn này để ở điện Càn-nguyên. Sau đó chuyển lên tòa Thượng-thư lệnh. Tòa Thượng-thư lệnh sẽ đệ lên hoàng-thượng ký. Còn như ban chế phong hậu cung thì do bộ Lễ soạn, rồi chuyển qua cung Chiêu-Linh hay Đông-cung cho hoàng-hậu, thái-tử duyệt, đệ lên hoàng-thượng thự rồi kiềm ấn. Aán thứ hai này để ở cung Long-thụy, tẩm cung của hoàng-thượng.
- Việc này con biết. Người coi tòa Trung-thư lệnh là Tăng Khoa, người coi Thượng-thư lệnh là Thủ-Huy. Nếu như hoàng-thượng phong con làm Tuyên-phi, thì chế chuyển qua hai tòa này , nhất định Thủ-Huy, Tăng Khoa sẽ không cản trở. Vì Tăng Khoa biết chuyện của con với Thủ-Huy, sau khi Thủ-Huy lấy vợ, nó an ủi con luôn. Còn Thủ-Huy, thì dù sao nhị ca...nhị ca... cũng muốn con yên phận, để lương tâm được yên ổn. Con chỉ sợ khi chế tới hoàng-hậu, Đông-cung, e gặp trở ngại.
Vú Mai tát yêu con gái :
- Thủ tục đó sở dĩ đặt ra như vậy, vì có nhiều vị vua không biết soạn chế, nên phải qua hai chặng. Còn như con, khi hoàng-thượng đồng ý phong con làm Tuyên-phi, lập tức con tự soạn chế, lấy ấn ở cung Long-thụy đóng vào, rồi sai thái-giám hầu ở Ngự-thư phòng ban hành. Khi chế ban rồi, thì không ai có thể dị nghị nữa.
Vú nhấn mạnh :
- Trước đây mẹ đã bảo rằng, nếu con bắt được con nai Chính-long Bảo-ứng, thì vạn vạn lần hơn con nai Thủ-Huy, Long-Xưởng. Nay cơ hội tới rồi, hãy cố gắng. Phải cố gắng, cố gắng hơn nữa.
Thụy-Hương lên kiệu nhập Hoàng-thành. Thục-phi Đỗ Thụy-Châu ở trong cung Ngọc-lan. Nguyên cung này được làm vào thời vua Thánh-tông, dành cho Ỷ-Lan phu nhân ở, nên mang tên Ỷ-Lan. Sau Ỷ-Lan được thăng lên Thần-phi rồi Linh-Nhân hoàng thái hậu, mới đổi tên thành cung Ngọc-Lan. Thục-phi Đỗ Thụy-Châu thân ra cổng đón Thụy-Hương.
Lễ nghi tất.
Thục-phi cầm tay Thụy-Hương :
- Thụy-Hương chẳng nên đa lễ. Mình tuy là Phi, Hương tuy là quận-chúa, nhưng mình không hơn Hương làm bao tuổi. Mình nghe nói, Hương đàn ngọt, hát hay, cử bút thành văn, mà võ công lại xuất chúng. Thực là hào kiệt trong đám nữ lưu.
- Đa tạ Thần-phi quá khen. Không biết hôm nay Thần-phi muốn dâng hoàng-thượng món gì ?
- Bây giờ đang là mùa hè, theo Thụy-Hương thì nên tiến thời trân nào ?
- Tâu Thần-phi, thần nghĩ, thì có lẽ hoàng-thượng chưa từng ngự món bún riêu bao giờ. Hôm nay dâng bún riêu, ngày mai bún chả, ngày kia gỏi cá.
Thụy-Châu ban chỉ cho một cung nữ hầu cận :
- Người xuống ty Thượng-thiện gọi viên ngự trù lên cho ta.
Lát sau, viên ngự trù tuổi trên bốn mươi lên. Y hành lễ, báo danh là Tân, rồi chắp tay đứng chờ lệnh. Thụy-Châu ban chỉ :
- Này Tân, hôm trước ta sai người làm mấy món ăn bình dân dâng lên hoàng thượng. Người bảo người không biết làm. Nay ta mời Ôn-huệ Nhu-mẫn quận chúa đây ra tay tiên. Vậy người hãy nghe cho kỹ, rồi còn làm...
- Dạ.
Thụy-Châu nói với Thụy-Hương :
- Món bún riêu hấp dẫn đấy. Thụy-Hương viết ra tờ giấy, cần những vật liệu gì, để Tân sẽ đi chợ mua.
- Vật liệu chính làm bún riêu cần thiết là : Cua đồng hay rạm, rau muống, tía tô, kinh giới, bún, tôm. Nhưng anh Tân đây chưa làm bún riêu, thì đi mua không đúng phẩm, e không ngon.
Tân cung tay :
- Xin quận chúa dạy cho, những vật liệu ấy phải như thế nào ?
- Phàm bún riêu có ngon hay không phải biết chọn cua đồng. Cua phải mẩy, loại cua móc trong hang mới béo, nhiều gạch, riêu mới nổi, mới chắc. Lại phải là loại cua mới bắt, to vừa thôi, chứ cua to quá, nhỏ quá cũng không ngon. Rau muống thì phải là loại ống nhỏ, lá dài, xanh nhạt. Chứ rau muống tía, lá lớn, ống to, thì dù chẻ nhỏ, ngâm lâu ăn cũng thấy chát.
Đỗ Thục-phi vốn là một tiểu thư đài các, con một đại thần. Đến con cua cũng chưa từng nhìn thấy, chứ đừng nói là làm bún riêu. Nay nghe Thụy-Hương nói, lắc đầu :
- Không ngờ món bún riêu mà cũng cầu kỳ quá. Còn kinh giới, tía tô chắc cũng phải lựa chọn.
- Vâng. Rau muống phải ăn với kinh giới. Bởi rau muống trồng dưới bùn, tính chất y học của nó là mát, thuộc loại co rút, lại hăng. Ăn rau muống nhiều thì dễ bị nặng bụng, nên phải ăn với kinh giới, để hóa giải mùi hăng. Y tính của kinh giới là cay, nên phát tán, có thể chống lại tính co rút của rau muống . Ăn rau muống luộc hay xào với kinh giới thì được rồi. Còn như ăn rau muống sống, với riêu cua , nên ăn thêm với tía tô. Tía tô tính vị là hơi đắng, hơi cay, nó có thể làm giảm mùi tanh của riêu cua. Cuối cùng là không dùng muối, mà dùng mắm tôm. Tục ngữ có câu « Thịt không hành, canh không mắm ». Riêu là một loại canh, nên phải dùng mắm tôm.
- Nghe Thụy-Hương nói mà mình đã thèm nhỏ dãi ra rồi. Thế cách làm riêu ra sao ? Chắc là cầu kỳ lắm ?
- Trước hết là làm riêu. Cua phải rửa thực sạch, sao cho hết rêu bám ngoài, rồi xé mai với thân ra. Khi xé phải lật ngửa con cua lên, để khi cua bị bửa làm hai, nước trong cua không bị chảy mất, hoặc khi xé, thì xé trên một cái bát, để hứng nước cua chảy xuống. Cho thân cua vào cối dã thực nhuyễn, rồi dùng rá mà đồ lấy nước mầu. Nước mầu để trong bát khoảng một khắc cho sạn lắng xuống, bấy giờ mới gạn lấy nước. Còn mai cua, thì dùng tăm ngoáy lấy gạch vào cái bát hứng nước khi xé cua.
Thụy-Hương nói tới đâu, thì ngự trù Tân gật đầu lĩnh hội tới đó. Thụy-Hương hỏi :
- Anh Tân, từ trước đến giờ anh từng làm rau muống chẻ, thế anh chẻ ra sao ?
- Thưa quận chúa, dùng dao sắc chẻ dọc cọng rau thực nhỏ, rồi ngâm vào nước pha mấy hạt muối. Ngâm như vậy khoảng hơn giờ thì vớt ra, rửa sạch, dùng rá vảy khô nước. Còn tía tô, kinh giới thì nhặt lấy lá, dùng dao thái thực nhỏ.
- Giỏi ! Này anh Tân này, nếu dùng dao thái nhỏ quá, thì khi cho tía tô, kinh giới vào với riêu, mùi thơm, vị cay hòa lẫn với riêu, làm mất cái vị thơm, ngọt của riêu đi. Muốn tránh cái lẫn lộn đó, thì chỉ cắt đôi, cắt ba ra thôi. Khi ăn, và một miếng bún với riêu, mùi vị bốc lên, vừa ngon, vừa ngọt. Bấy giờ mùi tanh xông lên, cũng là lúc nhai rau, tía, tô, kinh giới. Hương của hai gia vị này mới lẫn vào mùi thơm, làm mất cái tanh tanh của riêu cua.
- Thưa quận chúa thế nấu riêu ra sao ?
- Nước cốt cua lọc bỏ vào nồi. Nếu là nồi đất thì tốt, cho vào một khểu mắm tôm. Khi nước vừa sôi, thì đổ gạch cua vào. Đợi cho sôi hai nhịp thì tắt lửa. Bởi để lâu quá, e riêu tan hết.
Tân rùng mình :
- Đa tạ quận chúa dạy.
- Xin phi cho thần đi chợ với anh Tân để mua sắm vật liệu.
Thụy-Hương phụ trách điều khiển ngự trù Đông-cung đã mấy năm dư, nàng thường đích thân đi chợ, nên việc mua sắm không lạ lùng, khó khăn. Rồi trở về, đích thân nàng xé cua, dã cua, lọc cua, ngoáy gạch, nấu riêu. Khi vừa nấu xong, thì cũng là lúc nhà vua từ gác Ánh-vân trở về cung Ngọc-lan. Thục-phi Thụy-Châu đã trang điểm, chờ đợi sẵn.
- Tâu bệ hạ, hôm nay cung Ngọc-lan dâng lên bệ hạ một món ăn rất ngon, mà bệ hạ chưa từng ngự bao giờ ?
- Món gì vậy ? Thất-bảo hỏa tửu chăng ?
- Tâu không phải. Món này tên là bún riêu, bất cứ người dân nào cũng đều ăn. Nhưng bệ hạ thì chưa từng.
Đến đây nhà vua đã vào Ngự-thiện đường. Thụy- Châu hô :
- Tiến lễ.
Thụy-Hương bưng cái khay bạc vành nạm vàng, trên đựng hai bát bún riêu khói bốc lên nghi ngút. Giữa khay, một cái đĩa sứ viền vàng, trên đựng rau muống chẻ, tía tô, kinh giới. Nàng cúi đầu hành lễ, tiến đến án thư, tay bưng bát thứ nhất để trước mặt nhà vua, bát thứ nhì để trước mặt Thục-phi, rồi lùi lại khoanh tay đứng hầu sau lưng phi.
Đúng lễ nghi, thì nàng phải đứng sau lưng nhà vua, sẵn sàng để Thục-phi sai bảo. Nhưng nhớ lời mẹ dặn, nàng đứng sau phi, để nhà vua có dịp ngắm nhìn sắc đẹp của mình.
Nhác thấy Thụy-Hương từ trong bước ra, nhà vua đã giật mình, vì sắc đẹp huyền ảo, mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm, như có như không, mà không một phi tần nào của ngài được như vậy cả. Nàng lại tập võ, nên thân hình, chỗ nảy nở thì nảy nở tối đa. Chỗ thon, thì thon tối thiểu. Nhà vua phóng con mắt nhìn từ đầu xuống ngực, chân của nàng một lượt. Dù là Đại-Việt hoàng đế, dù đã đi vào tuổi bốn mươi, dù đã trải qua không biết bao nhiêu người đẹp, thế mà nhà vua cũng cảm thấy luống cuống. Trong lòng ngài nghĩ thầm :
- Hỡi ơi ! Người con gái này tiến cung bao giờ mà ta chưa từng thấy qua ? Bằng không, ta đã phong nàng làm phi, chứ có đâu để nàng làm một cung nga hèn hạ thế này ? Dường như ta đã gặp nàng rồi thì phải ! Trông quen quen quá !
Tuy vậy để giữ thể diện của đấng chí tôn, ngài làm ra vẻ thản nhiên ngự bún riêu. Sau khi ngự hai bát, ngài nhìn thẳng vào khắp người Thụy-Hương. Bốn mắt gặp nhau, hồn phách ngài như bị hút mất. Không giữ nổi vẻ nghiêm túc của đấng chí tôn, ngài hỏi :
- Có phải người nấu bún riêu là mỹ nhân đây không ? Mỹ nhân từ cung nào trên thượng giới giáng trần vậy ?
Đúng ra ngài phải đặt câu hỏi với Thục-phi, thế mà ngài lại đặt với Thụy-Hương. Qua kinh nghiệm Thủ-Huy, Long-Xưởng, qua biết bao nhiêu lần mẹ giảng dạy, Thụy-Hương quan sát sơ, cũng biết rằng con nai Chính-long Bảo-ứng đã chui đầu vào lưới của nàng. Tiếng mẹ giảng vang lên trong tâm:« Dù văn nhân, dù tôn sư võ học, dù vương hầu, dĩ chí vua chúa, khi ta biết xử dụng sắc đẹp, thì có thể biến họ thành con chó con cho ta sai khiến ».
Biết cái thời gian quan trọng nhất đời là lúc này, nàng liếc mắt đưa tình, rồi sẽ hít hơi, lồng ngực nàng chuyển động, khiến cho nước miếng nhà vua đầy ứ trong miệng. Nàng đáp bằng âm thanh nhẹ như gió thoảng :
- Tâu bệ hạ, nô tỳ thuộc Đông-cung, tước Ôn-huệ Nhu-mẫn quận chúa, họ Từ tiểu danh Thụy-Hương.
Nhà vua chợt nhớ ra :
- Phải rồi, ba năm trước trẫm đã gặp quận chúa trong ngày đánh đuổi bọn mật sứ Tống. Ừ, hôm ấy quận chúa chỉ huy một đội cao thủ tiến đánh điện Càn-nguyên, rồi trấn tại đây. Hồi đó quận chúa còn nhỏ tuổi, nay đã dậy thì, lại xinh đẹp, làm trẫm tưởng đâu là một nàng tiên giáng trần. Trẫm nghe nói, ngoài tay thần hóa phép ra những món ăn tuyệt trần, quận chúa lại rất giỏi âm nhạc. Trẫm từng ước mong có dịp được nghe tiếng đàn Trương Chi của quận chúa.
Thục-phi Thụy-Châu kinh ngạc không ít, khi thấy nhà vua khách sáo với Thụy-Hương như một nho sinh đa tình trước một giai nhân. Phi im lặng quan sát nhà vua say tình.
Về phía Thụy-Hương, lời mẹ dặn lại vang lên:
« Khi gặp những kẻ quyền thế, mà họ ngỏ lời ngợi khen ta, hay họ hạ thể trước ta, ta càng tỏ ra khiêm nhượng, thì họ càng sa lầy. Bằng như ta nhận lời khen quá đáng của họ, thì họ lại chán ghét ta ngay ».
Nàng cúi đầu e lệ :
- Bệ hạ ban lời vàng ngọc, quá khen, khiến tiểu tỳ có chết đến mấy lần cũng can tâm. Hôm nay, tiểu tỳ xin tấu mấy khúc, mong được bệ hạ, với phi mở lượng trời biển xá cho cái tội mạo phạm.
Nói rồi nàng cầm cây đàn tranh treo trên tường, kéo ghế ngồi sát cửa, tay cầm vạt áo để lên đùi, rồi đặt đàn trong lòng, tay lên dây, dạo mấy tiếng. Cử chỉ mềm mại, thanh nhã, càng làm cho nhà vua say đắm nhìn nàng như muốn nuốt cả thân hình vào. Miệng ngài khô, môi nóng bỏng. Ngài nghĩ thầm :
- Ta có hoàng-hậu, có sáu bà phi, với hàng trăm cung nga, nhưng so với giai nhân này thì vẫn như không có gì cả. Phải chi ta được làm chủ người con gái này, thì dù có đổi cả ngai vàng ta cũng không tiếc.
Thụy-Hương hơi nghiêng nghiêng đầu, khiến mái tóc dài trên hai vai uốn lượn theo. Nàng nhỏ nhẹ :
- Tiểu tỳ xin tấu bản « Tình khúc Trương Chi » hầu bệ hạ với phi. Bản này Trương Chi làm khi được vời vào gặp Mỵ-Nương lần đầu
Thế rồi nàng để hết tâm thần vào mười đầu ngón tay. Biết nhà vua với Thục-phi đang nhìn mình, nên nàng cúi đầu xuống. Khi khúc hát hết, nàng mới ngửng đầu lên, nở một nụ cười
- Tâu, sau khúc hát này, thì Mỵ-Nương đuổi Trương Chi ra khỏi dinh tể tướng, vì chàng xấu trai quá. Bây giờ tiểu tỳ xin tấu một khúc khác.
Nàng lại lượn tay trên phím đàn. Bản nhạc buồn quá, nhà vua nhìn Thục-phi, ngỏ ý hỏi nguồn gốc của nó. Thục-phi lắc đầu. Bản đàn dứt, nhà vua hỏi :
- Bản nhạc mà khanh vừa tấu là bản gì vậy ? Do ai làm ra
- Tâu bản này mang tên Trường-hận ca. Tiểu tỳ thấy bài Trường-hận ca của Bạch Cư-Dị lời lời tao nhã, khóc thương cho Dương phi chết oan, nên đem phổ nhạc.
Nhà vua không thể chịu được nữa, ngài tuyên chỉ với Thục-phi :
- Trẫm còn hơn hai chục tấu chương phải duyệt. Vậy trẫm trở lại gác Ánh-vân. Nghe quận chúa là bậc văn chương lỗi lạc, trẫm muốn đem quận chúa đến Ngự-thư phòng, để quận chúa đọc cho trẫm duyệt.
Nhà vua đứng dậy đi trước. Thụy-Hương theo sau, trong lòng nàng rộn lên một niềm hân hoan :
- Không ngờ bắt con nai gộc lại dễ dàng đến thế. Trước đây ta bắt con nai Thủ-Huy phải hàng chục lần. Con nai Long-Xưởng phải năm sáu lần. Còn con nai này chỉ có một lần thôi. Mẹ ta đã dặn: « Khi người đàn ông say mê, choáng váng ngay từ lần đầu, thì y say mê thực, nhưng tỉnh cũng mau. Muốn làm cho họ say mê đến tim, đến gan, thì khi họ muốn, ta phải dằng dai, thoái thác không cho ngay ».
Tới gác Ánh-vân, nhà vua bảo viên thái giám hầu cận :
- Có quận chúa giúp ta rồi, cho người lui.
Viên thái giám già cúi đầu lùi khỏi gác. Khi xuống thang, y kín đáo đóng cửa lại. Đúng ra thì Thụy-Hương phải kéo long ỷ cho nhà vua ngồi, rồi đứng sau hầu. Nhưng, nhà vua kéo long ỷ cho Thụy-Hương ngồi cạnh ngài. Ngài chỉ tấu chương thứ nhất :
- Mắt trẫm mệt quá rồi. Mỹ nhân đọc lên cho trẫm nghe.
Thụy-Hương từng giúp Long-Xưởng duyệt phê tấu chương ba năm qua, nàng đã quen với lối văn khách sáo cung đình, quen với đường lối giải quyết, nên nàng không hề bỡ ngỡ. Không e dè, nàng cầm một tấu chương lên, cất tiếng đọc. Đó là tấu chương của trấn Nghệ-an về việc bọn du thủ, du thực gốc Chiêm thuộc vùng châu Lâm-bình 0, Minh-linh 0, Bố-chính thường hay tụ tập, tuyên bố phục hồi cố thổ. Chúng chém giết dân Việt. Quan quân bắt được hơn hai trăm tên, xin triều đình phát lạc. Nhà vua hỏi Thụy-Hương :
- Mỹ nhân nghĩ gì về vụ này ?
- Trước đây đức Thánh-tông đem quân bình Chiêm, bắt được vua Chiêm là Chế Củ mang về Thăng-long. Củ xin dâng ba châu này để chuộc tội. Khi vua Chiêm dâng cho ta, thì không thể nói rằng ta cưỡng chiếm. Nay bọn du thủ, du thực Chiêm mượn cớ phục hồi cố thổ mà tụ tập cướp bóc. Nếu ta giết chúng chẳng hóa ra quàng cho chúng cái hào quang yêu nước ? Xin bệ hạ ban chỉ đem chúng về Thăng-long, an ủi, rồi huấn luyện cho chúng biết nói tiếng Việt, sau đó sai chúng về làm những chức dữ tợn như kiểm soát dân chúng, thúc thuế, bắt nhân công. Chúng là quân trộm cướp, thì khi quyền vào tay, chúng sẽ ra oai với đồng bào chúng. Thế là chúng thành tay sai của ta, mà dân chúng Chiêm sẽ oán ghét chúng. Bấy giờ ta nhân đó kết tội, giết chúng. Như vậy vừa an dân, vừa trừ bạo, lại làm tiêu ma cai ý phục hồi cố thổ của bọn Chiêm .
Nhà vua khen :
- Khanh thực là minh mẫn.
Thụy-Hương biết nhà vua như cá cắn câu, nàng có làm gì, thì ngài cũng không cản. Nàng cầm bút phê :
« ... Phải đối xử thực tử tế với đám tù này. Cấp lương thực, đưa chúng về Thăng-long dạy tiếng Việt, sẽ có chỉ dụ sau ».
Nhà vua tưởng Thụy-Hương sẽ đệ cho ngài duyệt, không ngờ nàng dám phê. Ngài đâu biết rằng nàng từng giúp Long-Xưởng làm việc đó.
Cứ thế mỗi tấu chương nàng đọc cho nhà vua nghe, rồi không đợi nhà vua cho ý kiến, nàng cầm bút phê, rồi đệ cho nhà vua ký. Đối với ông vua cục bột này, cái gì ngài cũng ngơ ngơ ngác ngác, chỉ duy vấn đề phòng the là khôn khéo mà thôi, Thụy-Hương muốn phê, muốn ban chỉ gì cũng được. Ngài chỉ biết gật đầu, rồi ngồi ngắm nàng và... nuốt nước miếng.
Ngài ban chỉ :
- Thôi, ta ngừng thôi. Khanh hãy đem đống tấu chương này sang cung Long-thụy giải quyết với trẫm
Thụy-Hương im lặng tuân chỉ, trong tâm nàng nghĩ :
- Ông vua này muốn đưa ta sang cung Long-thụy là chỗ ngủ của ông, để làm thịt ta đây ! Hà, chưa biết ai làm thịt ai !
Cung Long-thụy không xa gác Ánh-vân làm bao. Tới nơi, Thụy-Hương để chồng tấu chương lên án thư, tiếp tục phê duyệt. Sau khi duyệt phê hết chồng tấu chương, Thụy-Hương đứng dậy bưng đến đặt trước mặt nhà vua. Nàng đứng sau ngài, lật từng hồ sơ cho ngài đọc và thự (ký tên). Đợi nhà vua ký ba hồ sơ, sang hồ sơ thứ tư nàng cố tình để ngực chạm vào đầu ngài. Nhà vua cảm thấy trời đất quay cuồng, chân tay ngài tê liệt. Cây bút trên tay ngài rơi xuống án thư. Ngài dựa đầu vào ngực nàng. Thụy-Hương chỉ chờ có thế, tay phải nàng vòng qua đầu ngài, ép đầu ngài vào ngực nàng ; tay trái nàng vuốt má ngài. Nhà vua cũng quay lại, hai tay ngài ôm lấy ngang hông nàng.
Gác Ánh-vân giữa trưa mùa hè rực hoa, véo von tiếng chim hót, văng vẳng tiếng cuốc kêu, tiếng ve rên rỉ. Thụy-Hương vừa chủ động, vừa buông lỏng cuộc đời, dẫn Chính-long Bảo- ứng Hoàng đế vân du cung Quảng, viếng bãi cỏ xanh non trên đảo Bồng-lai, uống nước suối Đào-nguyên. Cuối cùng, ngài bồng nàng lên long sàng, tay cởi nút áo. Thụy-Hương chỉ chờ có thế, nàng dùng thân pháp Mê-linh, sẽ vùng vẫy, đã thoát khỏi tay nhà vua :
- Xin bệ hạ đại xá. Tiểu tỳ chỉ là một đứa con gái xuất thân hèn hạ, lại là tỳ nữ của thái-tử. Tiểu tỳ đã trao cuộc đời cho thái-tử, thân phận của tiểu tỳ với bệ hạ định rồi : Tiểu tỳ là con dâu của bệ hạ. Giữa tiểu tỳ với bệ hạ, có khoảng cách lớn. Bệ hạ không nên để tiểu tỳ bất trinh với thái-tử.
Từ năm nhà vua mười lăm tuổi, đến nay đã trải hai mươi lăm năm, không biết bao nhiêu giai nhân, sau khi được tuyển cung đều ước mong được dâng hiến cuộc đời cho ngài. Duy lần này, ngài mới thực sự bị đưa đẩy vào mê lộ, rồi cuối cùng, giữa lúc ngài say đắm cùng cực, thì lại bị... hụt. Ái tình của vua chúa, quan lại, phú gia, bần dân... đời nào cũng vậy, khi đã bị say tình, càng gặp trở ngại, người ta càng lao đầu vào cho đến khi tuyệt vọng hoặc đạt mục đích mới thôi.
Thụy-Hương nói mặc Thụy-Hương nói, nhà vua không nghe thấy gì nữa. Ngài vòng tay ôm nàng. Nàng lách mình một cái lại thoát khỏi tay ngài :
- Xin bệ hạ đại xá. Trước đây, mẫu thân tiểu tỳ đã bị triều đình kết tội là bất trinh, không được ở lại trong cung hầu hạ công chúa Đoan-Nghi. Bây giờ tiểu tỳ không thể làm ô uế một đấng chí tôn.
Mắt nhà vua đỏ ngầu, ngài thở hổn hển :
- Khanh yên tâm, khi trẫm sủng ái khanh, thì dù khanh có ô uế, khắp Đại-Việt ai cũng phải kính trọng khanh.
Nói rồi nhà vua quơ tay vồ Thụy-Hương. Lần này nàng để cho nhà vua bắt. Ngài bế bổng nàng lên mà hôn như muốn ăn tươi nuốt sống, rồi ngài lại mở nút áo nàng mà hôn khắp cơ thể. Nhưng khi ngài lần tay mở rút quần, định lên tuyệt đỉnh Vu-sơn... ăn trái ngọt, thì nàng lại lách mình khỏi tay ngài, tay cài nút áo lại :
- Xin bệ hạ khoan dung. Tiểu-tỳ sẵn sàng dâng hiến cả sinh mệnh cho bệ hạ. Nhưng quần thần biết được việc tiểu tỳ mất trinh, biết được việc tiểu tỳ từng dâng hiến cho thái-tử, rồi bây giờ lại dâng hiến cho bệ hạ... Như vậy là làm ô uế một đấng chí tôn, làm đảo lộn luân thường như Dương quý phi đời Đường, thì toàn gia thiếp sẽ bị chết chém. Nếu như bệ hạ quả thực tình sủng ái tiểu tỳ, thì xin trước hết ban chỉ cho tiểu tỳ được chính danh, rồi chọn ngày giờ tốt... để dâng hiến cho bệ bạ.
Tuy bị hụt hẫng, nhưng nhà vua cũng thông cảm nỗi lo sợ của Thụy-Hương. Ngài gật đầu :
- Được rồi, trẫm sẽ ban chế phong cho khanh bất cứ chức gì khanh muốn.
Chỉ chờ có thế, Thụy-Hương cầm bút viết một tờ chế phong cho mình làm Tuyên-phi. Như vậy trong hậu cung nàng chỉ đứng sau có Chiêu-Linh hoàng hậu, Thần-phi Bùi Chiêu-Dương ; ở trên các bà Quý-phi, Thục-phi, Đức-phi, Hiền-phi, Giai-phi, và tất cả các bà Tu-dung, Tu-nghi, Uyển-nghi, Tài-nhân, Mỹ-nhân, cung nga... Nàng lại viết một chỉ dụ phong tước cho tiền nhân. Ngũ đại tước nam, tứ đại tước tử, tam đại tước bá, bố tước hầu, mẹ tước nhất phẩm phu nhân, rồi trao cho nhà vua ký. Không cần đọc xem nàng viết gì, nhà vua ký ngay.
Thụy-Hương lấy ấn đóng lên, rồi mở cửa lầu, gọi vọng xuống :
- Có thái giám nào đó không ?
Một thái giám mở cửa bước vào cung tay chờ lệnh. Thụy-Hương trao tờ chế, tờ chỉ cho y :
- Người đưa sang tòa Thượng-thư lệnh nói rằng, phải ban chỉ nội ngày hôm nay.
Viên thái giám cung kính tiếp hai tờ giấy, rồi xuống lầu. Bấy giờ Thụy-Hương mới ngả vào lòng nhà vua.
Ghi chú của thuật giả:
Trời mưa mãi rồi cũng nắng. Đêm mãi rồi cũng sáng dần. Thụy-Hương chống đỡ mãi rồi cũng buông lỏng cuộc đời. Chuyện gì giữa nhà vua với Thụy-Hương diễn ra trong cung Long-Thụy vào mùa hè rực nắng sau đó, xin để độc giả tự đoán. Thuật giả quả thực không hiểu nổi, không tưởng tượng nổi, dĩ nhiên không đoán nổi. Bởi Chính-long Bảo-ứng hoàng đế triều Lý là một ông vua ù lỳ, một cục bột luộc, bất cứ việc gì ngài cũng dở, cũng mũ ni che tai. Duy truyện phòng the là ngài rất khỏe, rất giỏi và thích.
Và kể từ lúc này, coi như sự nghiệp hai trăm năm của núi Tiêu-sơn đã tiêu tan. Tại sao ? Xin xem các hồi sau.
Một huyền thoại nói rằng, khi Thụy-Hương được sủng ái quá đáng, được phụ tá cho nhà vua, nàng đã ban ân cho một vài vùng ngoại ô Thăng-long, nên quanh Hà-nội ngày nay có rất nhiều vùng mang tên Thụy như làng Thụy- Khuê, Thụy-Hương. Tôi không tin thuyết này.