Nghe đứa trẻ nói, Ngô Giới run lên :
- Đúng rồi ! Hai người làm thầy lang chữa độc chắc là Trường-bạch song hùng rồi. Vì phái Trường-bạch chuyên về độc công, thì họ chữa độc rất giỏi là lẽ thường.
- Thế còn bốn người nữa. Họ làm nghề gì ?
Ngô Giới hỏi :
- Họ có lấy vợ không ?
- Bốn người làm thầy phù thủy, bắt ma, trừ tà hay lắm. Họ không lấy vợ. Về già họ chết, dân làng nhớ ơn, chôn họ, lại làm miếu thờ nữa. Trước kia có hai miếu. Một miếu ở bên này sông, một miếu ở bên kia sông. Nay chỉ còn miếu bên này thôi. Miếu bên kia phá đi rồi.
- Tại sao miếu lại bị phá?
Đứa con trai kể:
- Trong hai ông lang, thì một ông lấy vợ làng tôi, có con. Hồi hơn hai chục năm trước, vợ với con ông í cải mả, đem xương hai ông í về Tầu. Nên miếu bị phá đi. Bây giờ chỉ còn cái miếu thờ bốn ông phù thủy thôi.
Nghe đứa con gái kể, Ngô Giới muốn đứng tim. Y thở hổn hển, nói nhỏ với Lưu Kỳ:
- Đúng rồi, miếu này là nơi thờ bốn vị tổ sư đấy. Còn miếu bị phá là nơi thờ Trường-bạch song hùng. Không sai đâu ! Chúng ta có nên lội bùn xuống quan sát chăng?
- Sư huynh! Không vội. Mục đích của chúng ta là đi tìm lại di hài bốn tổ thì ít, mà tìm Vô-Trung võ kinh thì nhiều. Hãy đợi thoát khỏi kẹt thuyền đã, rồi chúng ta âm thầm trở lại sau. Nếu như nay ta xuống, lỡ ra bị lộ tông tích, thì nguy lắm, vì tổng đàn phái Đông-A không xa chỗ này làm bao.
Ngô Giới công nhận lý luận của Lưu Kỳ:
- Sư đệ minh mẫn hơn ta nhiều.
Y hỏi hai trẻ mục đồng:
- Này các cháu, bao giờ thì nước lên? Trước nay, đã có thuyền nào bị mắc kẹt như thế này chưa?
Đứa con trai trả lời:
- Trước các ông đã có nhiều thuyền buôn mắc cạn rồi. Cháu biết rõ khi nào nước lên, cháu mách cho họ. Lại giúp họ đem thuyền ra khỏi con sông nhỏ này nữa.
Thấy nó đổi cách xưng hô, trước xưng là tôi, bây giờ lại xưng là cháu. Ngô Giới cũng ngọt ngào :
- Cháu nói lạ, khi nước lên, thì thuyền hết mắc cạn, tự nhiên họ rời đây dễ dàng, chứ việc gì phải nhờ các cháu giúp?
Đứa con gái cười rất tươi:
- Ông nói! Khi nước lên, thuyền hết mắc cạn, nhưng làm sao cho thuyền lùi ra sông cái ? Khúc sông này hẹp quá làm sao ông chèo được? Chèo vướng vào những cụm đài bi lớn thế kia, thì sao thuyền nhúc nhích? Vả ông chèo ngược thì thuyền lùi, nhưng bánh lái ở trước thì làm sao mà lái? Vì vậy phải nhờ chúng cháu giúpï.
- Ừ nhỉ!
Ngô Giới tiếp:
- Ta thua các cháu. Này, các cháu. Các cháu giúp chúng ta lui ra khỏi đây bằng cách nào?
- Dùng trâu kéo.
Đứa con trai giảng: Như thuyền của ông phải dùng tới tám con trâu, mỗi bờ bốn con mới kéo nổi.
Lưu Kỳ nóng nảy:
- Cháu nói cho chúng ta biết khi nào nước lên đi! Cháu có thể cho ta mượn trâu không?
- Ông nói dễ nghe nhỉ? Ông muốn cháu chỉ dẫn , rồi cho mượn trâu, ông phải trả tiền. Không thì thôi.
Nói dứt, nó cùng đứa con gái đưa tiêu lên miệng thổi, rồi thúc chân vào bụng trâu rời bờ sông.
Ngô Giới vội gọi:
- Này cháu ơi. Cháu giúp bần đạo, bần đạo tặng bạc cho cháu này.
Nói rồi , y móc túi lấy ra một nén bạc tung lên. Nén bạc chui tọt vào túi áo đứa con trai. Đứa con trai kinh ngạc, cầm nén bạc ra nhìn, rồi cười:
- Ừ, ông là Tầu buôn thực. Ông giầu có, nên mới cho cháu nhiều thế này.
Nó nói lớn:
- Hôm nay là ngày có bẩy con nước, nên buổi sáng nước tuy rút đi, mà chiều thì lại lên cao lắm, có khi ngập tới bờ đê lận. Các ông chịu khó chờ. Từ sau Ngọ, nước bắt đầu lên.
Ghi chú của thuật giả:
Miền đồng bằng sông Hồng, nước lên xuống mỗi ngày một lần. Ngày nào nước lên cao, ngày nào nước lên thấp, lên đến độ nào rồi xuống (ròng); lúc nào lên, lúc nào đứng, lúc nào xuống... trẻ con vào tuổi lên bẩy, lên tám đã biết. Đó là cách chiêm nghiệm rất thực tế. Ngô vương Quyền, vua Lê Đại-Hành, Hưng-Đạo vương phá quân Bắc ở Bạch-đằng; vua Quang-Trung phá quân Xiêm-la ở Rạch-gầm đều lợi dụng con nước lên xuống mà thắng trận. Cách tính con nước rất phức tạp. Tôi sẽ trình bầy phần cuối bộ Anh-hùng Đông-A, trong trận Bạch-đằng.
Ngô Giới hỏi :
- Hai cháu ! Hai cháu có thể cho bần đạo biết tên không ?
Đứa con trai chỉ vào đứa con gái :
- Nó là con Hĩm. Còn cháu là thằng Cu.
Con Hĩm hỏi:
- Này ông, ông có phải là thầy phù thủy không? Ông có biết bắt ma không?
- Bần đạo là đạo sư thì việc bắt tà, bắt ma, bần đạo phải biết chứ. Cháu cần gì nào?
- Trong miếu kia có bốn con ma. Thỉnh thoảng nó hiện lên trong đêm. Không may cho ai, gặp nó là nó làm cho mê man đến sáng mới tỉnh dậy.
Ngô Giới nghĩ thầm:
- Chắc là bọn võ lâm qua lại miếu này. Khi gặp dân chúng, họ điểm huyệt đấy thôi.
Nghĩ vậy y hứa:
- Bần đạo sẽ bắt hết tà cho các cháu xem.
Thằng Cu chỉ về phía trước:
- Bây giờ các ông chờ ở đây, chúng cháu về làng gọi thêm sáu đứa mang trâu ra, đợi nước lên sẽ kéo thuyền cho ông.
Hai đứa đưa ống sáo lên miệng tấu một bản nhạc, âm thanh dìu dặt, nhẹ như mây trời trong khi hai con trâu đủng đỉnh tiến vào lùm cây xanh ngắt.
Ngô Giới than :
- Cái bọn đứng sau năm đứa con gái bầy kế bắt bốn người của mình, chắc chúng không dừng lại ở đây đâu. Trước sau gì chúng sẽ trở lại. Ta phải chuẩn bị đối phó ngay thì vừa.
Lưu Kỳ nghiến hai hàm răng vào nhau :
- Không biết bọn chúng là ai ? Nếu chúng là quan quân, thì chỉ cần đưa thẻ bài ra, là giải quyết xong. Nhược bằng chúng thuộc võ lâm Đại-Việt thì khó đối phó đấy.
Có tiếng ồn ào, tiếng chân đi, tiếng trâu rống ở đầu giòng sông. Ngô Giới phóng mắt nhìn : Đó là một đoàn người vừa đi vừa nói chuyện rì rầm. Cạnh họ, hơn chục chiếc xe do trâu kéo. Trên xe chở đầy những khúc gỗ, tre. Người nào cũng đeo dao dài, vồ, dây. Dường như họ không nhìn thấy thuyền của bọn Ngô Giới, thản nhiên cười nói. Lát sau họ khuất vào các bụi cây, rồi có tiếng chặt gỗ, chặt tre, tiếng chầy đóng chan chát. Khoảng hơn giờ sau tiếng động không còn nữa.
- Sư huynh !
Lưu Kỳ tỏ vẻ lo lắng : Đệ thấy cái đám người, dắt trâu, đẩy xe vừa đi qua, ẩn tàng một điều gì kỳ bí quá. Bởi con thuyền của chúng mình lớn thế này, mà sao chúng lờ đi như không biết, thì hẳn chúng cố tâm. Cố tâm thì có thể chúng mưu đồ gì chăng ?
- Ta cũng nghĩ như sư đệ. Tạm thời ta hãy cho mọi người ăn cơm, rồi chờ nước lên đã.
Ngô Giới ra lệnh cho tùy tùng cứ thản nhiên nấu ăn, chờ nước lên. Nhưng, sang giờ Mùi -2, mà lòng sông vẫn cạn.
Lưu Kỳ than :
- Sư huynh, đệ sợ hai đứa con nít này lấy bạc, rồi bỏ đi mất. Mình chờ ở đây mất công toi. Chi bằng mình lên bờ thám thính xem sao ?
Lòng Ngô Giới rối như tơ vò. Y gọi Hoa-nhạc tam phong là Liên-Hoa, Tiên-Nhân, Lạc-Nhạn:
- Ba sư đệ. Ba sư đệ hãy lên bờ xem đám người ban nãy đang làm gì ồn ào ở đầu sông. Nhớ không nên xử dụng võ công.
Hoa-nhạc tam-phong đeo kiếm vào lưng, tung mình lên cao, rồi đáp xuống bờ sông, tiến về đầu giòng.
Ngô Giới cùng Lưu Kỳ ngồi ăn cơm mà trong dạ bồn chồn không ít. Mặt trời bắt đầu nghiêng bóng về Tây, nhưng thủy chung mực nước sông vẫn không lên cao tý nào cả, mà Hoa-nhạc tam-phong vẫn chưa trở về.
- Chúng ta thử lên đầu giòng sông xem sao ?
Ngô Giới cũng cảm thấy dường như có biến cố gì qua cái vụ đám người dẫn trâu, kéo xe, Hoa-nhạc tam-phong đi mãi chưa về. Y nói với Lưu Kỳ :
- Quả thực là kỳ bí ! Ta đồ chừng kẻ dàn năm cô gái bắt Tứ-nhạc, với hai đứa trẻ chăn trâu, bọn nhà quê đánh xe ban nãy đều là một. Chúng chơi cái trò ú tim này với mục đích khủng hoảng tinh thần chúng ta đây. Ta quyết định : Tất cả đổ bộ lên xem sự thể Hoa-nhạc tam-phong ra sao.
Tấm ván bắc cầu được đẩy lên bờ, Lưu Kỳ ra lệnh cho Hoa-nhạc tam-nương :
- Ta để đám thuyền phu đầu bếp, tài công lại cho ba sư muội giữ thuyền. Bất cứ biến cố gì xẩy ra, các sư muội cũng không được lên bờ. Nếu có gì nguy hiểm thì các sư muội đốt pháo thăng thiên lên báo hiệu cho ta.
Ngô Giới, Lưu Kỳ dẫn đầu đoàn đệ tử đổ bộ. Đoàn người đi khoảng hơn dặm thì tới chỗ con sông uốn khúc. Ngôi miếu mà thằng Cu bảo trong đó thờ bốn con ma, lộ ra trọn vẹn. Một đệ tử kêu lên tiếng ái chà rồi chỉ vào khu vườn quanh miếu thờ :
- Sư phụ. Sao...Sao giống tổ đường của bản phái quá.
Ngô Giới , Lưu Kỳ cùng bật lên tiếng kinh ngạc. Thế là cả đoàn người cùng bỏ không tìm bọn Hoa-nhạc tam-phong nữa, mà cùng tung mình chạy lại phía miếu.
Miếu không lớn lắm, dài, rộng vuông vức khoảng ba trượng, cửa hướng về Bắc. Hai bên phải, trái sân miếu, đều có chiếc đài xây bằng gạch cao hơn trượng (2 mét ngày nay). Đài có tám bậc lên. Trên mỗi đài có bốn cái ghế đá. Đài bên phải có chữ Thế lệ đoạn trường. Đài bên trái có chữ Tiêu hồn lạc phách . Sân miếu miếu tròn, tạo thành hình Thái-cực. Trong sân lát hai thứ gạch. Một thứ mầu đỏ, một thứ mầu đen. Hai thứ gạch tạo thành hình Âm, Dương Lưỡng-nghi. Xung quanh sân miếu có tám bụi trúc. Mỗi bụi đều trồng hai thứ trúc vàng, xanh lẫn lộn. Thứ xanh xen lẫn thứ vàng, khiến tám bụi trúc hiện hình tám quẻ Càn, Khảm, Cấn, Trấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Phía sau miếu là bốn ngôi mộ, xây bằng gạch mầu đỏ, theo bốn hình uốn như tổ tò vò, nằm song song nhau.
Nhìn kiến trúc ngôi miếu, cùng tám bụi trúc, giống hệt ngôi tổ đường trên núi Hoa-sơn ; Ngô Giới, Lưu Kỳ muốn ngộp thở. Đám đệ tử cũng ngây người ra mà nhìn. Lưu Kỳ run run nói :
- Nhất định ngôi miếu này là nơi thờ bốn vị tổ sư Hoa-sơn thần kiếm thời xưa rồi. Phía sau là mộ các người. Ta quyết phải vào trong xem sự thực ra sao.
Y rảo bước tới sân, nhìn lên bức đại tự trước miếu, bằng đồng, khắc chữ rất sắc sảo :
Vô Trung, thanh hư miếu
Hai bên có đối câu đối :
Hoa-sơn, Bắc-vọng tâm vô huyết,
Tần-lĩnh, Nam-cư phúc đoạn trường.
0.
Ghi chú của thuật giả:
Hoa-sơn, tên dãy núi, tại huyện Hoa-âm, tỉnh Thiểm-tây, còn có tên là Thái-hoa sơn. Hoa-sơn là ngọn núi đứng về phía Tây của năm ngọn núi được tôn là Ngũ-nhạc. Hoa-sơn có ba ngọn núi chính. Ngọn đứng giữa là Liên-hoa phong. Ngọn ở phía Đông gọi là Tiên-nhân chưởng. Ngọn phía Nam tên là Lạc-nhạn phong. Văn nhân Trung-quốc gọi chung ba ngọn này là Hoa-nhạc tam-phong. Ngoài ra, còn có ba ngọn nhỏ nữa, mang tên Vân-đài, Công-chúa, Mao-nữ gọi chung là Hoa-nhạc tam nương. Núi Hoa-sơn là nơi phát tích ra võ phái Hoa-sơn. Võ phái này được lập ra từ đời nhà Đường. Trong thời Ngũ-đại, đạo sĩ Trần Đoàn giúp đỡ anh em Triệu Khuông-Duẫn, Triệu Khuông-Nghĩa lúc hàn vi. Sau Khuông-Duẫn trở thành Thái-tổ, Khuông-Nghĩa trở thành Thái-tông nhà Tống, thì phái này trở thành phái lớn nhất Trung-quốc. Chính vì vậy mà các vua nhà Tống đều sùng Lão-giáo. Các bà hoàng hậu, phi tần đều được phong tước mang tên như những nữ đạo sĩ.
Tần-lĩnh, còn có tên là Tần-sơn, Chung-Nam sơn . Núi khởi từ huyện Thiên-thủy, tỉnh Cam-túc, gồm nhiều ngọn nối tiếp nhau chạy dài về hướng Đông, tới Thiểm-huyện, tỉnh Hà-Nam. Ngọn chính là ngọn nằm tại huyện Trường-an, tỉnh Thiểm-tây. Chữ Tần-lĩnh trong đôi câu đối trên lấy ý trong thơ của Hàn Dũ. Hàn là nhà văn lớn đời Đường, nhân dâng biểu can vua không nên sùng bái Phật-giáo, ông bị đầy. Trên đường đi đầy, qua núi Tần-lĩnh, đường bị tuyết phủ đi không được. Ông làm bài thơ, trong đó có hai câu tuyệt bút :
Vân hoành Tần-lĩnh, gia hà tại.
Tuyết ủng Nam-quan, mã bất tiền.
MâytrôingangquanúiTần,nhàtaởđâu?
Trong truyện Kiều Nguyễn Du, đoạn Kiều ở với Từ Hải nhớ nhà có câu :
Đoái thương muôn dăm tử phần,
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa.
Lưu Kỳ tiến tới cửa miếu. Cửa không khoá. Y sẽ đẩy cửa, hai cánh cửa kêu đến kẹt một tiếng, rồi mở tung ra. Ngay cửa miếu là cái bàn thờ, dài, rộng khoảng gần trượng. Trên bàn thờ có cái đỉnh hương bằng đồng, hai bên là hai cái chân nến cũng bằng đồng, tạc giống hình con hạc, ngửa cổ lên. Kế tiếp là giá bằng gỗ sơn son thiếp vàng, trên gác bốn thanh kiếm. Sau giá kiếm là tượng bốn đạo sĩ, y phục bốn mầu trắng, đen, xanh, hồng trong tư thế ngồi luyện công.
Từ Ngô Giới cho tới những đệ tử thấp nhất đều cảm động đến nỗi chân tay run lên bần bật ; Giới nói với Lưu Kỳ :
- Chuyến đi của chúng ta chỉ với mục đích tìm bộ Vô-Trung kinh. Muốn tìm Vô-Trung kinh, thì phải tìm ra di tích bốn vị tổ sư. Trong mật thư các tổ gửi về nói rõ : Nếu sau này các tổ qua đời rồi, Vô-Trung kinh sẽ cất ở trong miếu thờ. Bây giờ ta phải tìm cho ra.
Lưu Kỳ cầm một thanh kiếm trên giá thờ lên xem, thuận tay y rút ra khỏi vỏ. Aùnh thép tỏa ra lạnh toát, y nhìn chuôi kiếm có khắc chữ Đông-nhạc Hoa-sơn. Y bật thành tiếng kêu :
- Không phải kiếm thờ bình thường, mà là di kiếm của tổ để lại.
Y cầm ba thanh kiếm còn lại, rút ra khỏi vỏ, thì quả nhiên ba thanh còn lại là Bắc-nhạc Hành-sơn, Đông-nhạc Thái-sơn và Nam-nhạc Hằng-sơn.
Ngay trước tượng Tứ đại thần kiếm có chiếc tráp. Ngô Giới chỉ tráp :
- Trong tất cả đền, miếu của Đại-Việt, đều có một cuốn phổ chép hành trạng của vị thần được thờ. Cuốn phổ chép thần tích của tứ tổ chắc đựng trong cái tráp kia.
Lưu Kỳ mở tráp ra, quả trong có một tập sách mỏng, ngoài bìa viết chữ triện :
Tống-triều, Hoa-sơn tứ linh thần phổ
Y đọc qua, thì thấy nội dung thuật tiểu sử bốn vị tổ không sai với sự thực làm bao. Duy một điều y chú ý là bốn tổ sư quá thọ. Cả bốn người đều tiêu dao vào tuổi trên chín mươi.
Y vừa bỏ cuốn phổ vào tráp, rồi bàn với Ngô Giới :
- Sư huynh. Trong mật thư gửi về, tổ dặn võ kinh dấu ở đâu ?
- Khi tổ viết thư thì các ngài mới có bẩy chục tuổi. Cứ như cuốn phổ này thì hai mươi năm sau các tổ mới du tiên cảnh. Trong thư chỉ thuật việc các ngài soạn võ kinh, và dặn sau khi các ngài tiêu dao tiên cảnh hãy sai người sang tìm ở miếu thờ. Ta có ba thắc mắc. Một là, với bản lĩnh nghiêng trời lệch đất của Tứ-tổ, các ngài không bị giam trong tù, mà tại sao lại không trốn đi ? Hai là, trong khi còn tại thế, các tổ biết mình sắp ra đi, hẳn sẽ đem võ kinh dấu tại nơi nào đó, chứ có đâu giữ bên mình cho đến chết ? Ví dù các ngài giữ bên mình, thì khi qua đời võ kinh sẽ về tay dân chúng quanh vùng. Vậy thì võ kinh không có ở trong miếu này. Ba là, miếu, với mộ của Tứ-tổ hẳn lập sau khi Tứ-tổ quy tiên, thì người lập sẽ là dân xung quanh đây. Vậy ta phải khéo léo hỏi dân làng này, may tìm ra manh mối.
Ngô Giới trầm tư, chưa có ý kiến gì, thì một đệ tử vào cung tay :
- Thưa sư phụ, thằng Cu, con Hĩm cùng sáu đứa trẻ nữa dẫn trâu tới tìm ta.
Ngô Giới Lưu Kỳ chạy ra sân. Thằng Cu lớn tiếng :
- Này ông đạo, chúng cháu trả lại bạc cho ông đây.
Ngô Giới kinh ngạc :
- Sao, cháu chê ít à ?
- Bố mẹ cháu dạy rằng, phàm người ta nhờ mình việc gì mà mình nhận tiền, thì có làm mới được lấy công. Còn như mình không làm được, thì phải trả người ta.
- Thì cháu chưa làm mà !
- Đúng thế ! Cháu đi tìm thêm sáu đứa nữa, đem trâu kéo thuyền cho ông. Nhưng khi chúng cháu tới, thì các ông đã đem thuyền đi mất rồi.
- Sao ?
Ngô Giới hoảng hốt :
- Thuyền của chúng ta vẫn còn đậu ở ấy mà.
Con Hĩm lắc đầu :
- Đâu có. Chúng cháu trở lại, thì không thấy thuyền của các ông đâu cả.
Kinh hoảng, Ngô Giới, Lưu Kỳ tung mình, dùng khinh công chạy trở lại chỗ con thuyền mắc cạn, thì chỉ thấy con sông uốn khúc, nước ngập tới bờ đê, chảy cuồn cuộn, đục ngầu như mầu máu. Còn con thuyền thì biến mất.
Lưu Kỳ ngẩn người ra suy nghĩ. Y hỏi Ngô Giới :
- Sư huynh ? Cái gì đã xẩy ra ? Chúng ta rời thuyền mới hơn giờ, mà đã có biến cố gì xẩy ra ? Trên thuyền ngoài Hoa-nhạc tam nương võ công cao cường, còn tới hơn mười người nữa. Ai mà có bản lĩnh khống chế bằng ấy người một lúc, rồi cướp thuyền đem đi ?
Ngô Giới cũng nghĩ không ra. Y chỉ dòng sông :
- Nếu thuyền bị cướp, thì ắt kẻ cướp mang thuyền ra sông cái. Vậy chúng ta, cứ theo bờ sông con đi ngược trở ra, may có thể tìm được vết tích gì chăng ?
Thế là Ngô Giới, Lưu Kỳ đi trước, một đoàn đệ tử lếch thếch theo sau. Vượt qua chỗ con sông uốn khúc, thì thấy phía trước, đầy những gỗ, tre, đất gạch để ngổn ngang.
Cả đoàn lại lội bộ, gần nửa giờ thì tới bờ sông Hồng. Vừa nhìn ra sông, bất giác cả bọn cùng reo lên : Con thuyền của họ đang xuôi dòng trôi về hướng Đông. Trên mui không một bóng người, chỉ thấy thấp thoáng có người ngồi ở vị trí lái thuyền.
Lưu Kỳ kinh hãi :
- Như vậy là chúng ta bị cướp mất thuyền rồi.
Ngô Giới giải thích cho Lưu Kỳ :
- Có thể như thế này. Bọn người đánh xe, dắt trâu ban nãy, đã đóng cọc, đắp đất ngăn không cho nước dâng vào chỗ thuyền mắc cạn. Vì vậy qua giờ Mùi, mà ta vẫn không thấy nước lên. Khi chúng ta rời thuyền ra đi, thì chúng phá đập cho nước vào, rồi đánh úp, kiềm chế người của chúng ta. Sau đó, chúngï đẩy thuyền ngược chiều nước, đem thuyền ra đi.
Ngô Giới dậm chân than :
- Ta hiểu rồi ! Chúng ta bị lọt vào tay một thế lực nào đó, ngươiø nhiều, võ công cao siêu, trí tuệ vô biên. Bởi vậy họ biết việc ta bắt Long-Xưởng. Họ nhanh chóng dàn năm cô gái cứu bọn chúng, bắt Tứ-nhạc của ta trên sông, rồi đưa chúng ta vào nhánh sông nhỏ, làm kẹt thuyền. Sau đó họ cho người đắp đập ngăn nước, bắt Hoa-nhạc tam phong. Cũng người của họ thình lình bắt Hoa-nhạc tam nương, phá đập đem thuyền ra đây.
Lưu Kỳ bứt rứt, y văng tục :
- Con bà nó ! Nghĩ lại vừa ức, vừa đau. Ức vì không biết đối thủ là ai ? Ý đồ ra sao ? Đau vì không được đánh một chiêu võ, mà trước sau mười đại cao thủ bị bắt như bắt ba ba trong rọ vậy !
Trời đã nhá nhem tối, muỗi rừng từng đàn bay lại, bu xung quanh đám người lạ mà đốt. Đám đệ tử cứ phải rung động chân tay để muỗi không bám vào người. Một đệ tử than :
- Sư phụ. Chúng ta phải trở lại miếu tứ tổ hay vào làng kiếm nhà dân mua gạo nấu cơm, rồi qua đêm. Chứ ở đây vừa đói, vừa muỗi, thì không ai chịu nổi.
Một con đò mũi sơn trắng, trên cánh buồm có vẽ hình con cá chép, cạnh chữ Hồng-hà cực lớn. Thuyền từ hướng Đông chạy ngược chiều với con thuyền của Ngô Giới. Trên mũi thuyền có hai chữ Thiên-an. Một đệ tử nói :
- Sư phụ, thuyền kia là thuyền chở thuê của bang Hồng-hà. Ta gọi chúng lại, mướn chúng chở ta về bến Vỵ-hoàng. Ở đó là huyện lỵ Thiên-trường, có khách điếm. Chứ ở đây giữa rừng này, không tìm đâu ra chỗ trú ngụ.
Ngô Giới gật đầu ưng thuận . Tên đệ tử đó chạy ra mé sông vẫy tay gọi :
- Thuyền kia ! Mau ngừng lại. Chúng tôi cần chở một số người về huyện lỵ Thiên-trường.
Cánh buồm bị kéo ngang, lập tức con thuyền Thiên-an từ từ ngừng lại. Tài công cho thuyền áp sát gần bờ. Một thiếu nữ, hai thiếu niên xuất hiện trên sàn. Thiếu nữ hỏi :
- Tiểu nữ là Ninh-Quy, phụ trách tiếp tân trên con thuyền Thiên-an này. Quý khách có bao nhiêu người ? Hành lý bao nhiêu cân? Có thú vật không ?
- Chúng tôi chỉ có hai mươi hai người, không hành lý, không thú vật.
- Thuyền của thiểm bang có đầu bếp nấu ăn cho quý khách. Quý khách có cần xơi cơm, uống rượu không ?
- Nếu vậy thì tốt quá.
- Tiền chở mỗi người là mười đồng. Mỗi bữa ăn hạng nhất là năm mươi đồng. Còn rượu thì mỗi cân là hai đồng.
- Chúng tôi đồng ý.
Hai thiếu niên cầm sào chống xuống lòng sông. Con đò ghé mũi vào bờ. Cái cầu gỗ được bắc lên bờ. Ngô Giới dặn mọi người bằng tiếng Hàng-châu :
- Tuy là thuyền chở thuê, nhưng tất cả phải cẩn thận. Từ thức ăn, thức uống, cho đến chỗ ngồi.
Lưu Kỳ vốn nóng tính. Y xuống thuyền đầu tiên. Tiếp theo là các đệ tử. Ngô Giới xuống cuối cùng. Cô gái mở cửa khoang thuyền rồi đi trước dẫn đường. Trong khoang thuyền đã có bẩy người khách ngồi đó từ bao giờ. Họ lãnh đạm, ngồi dựa lưng vào vách thuyền ngủ gà, ngủ gật.
Cô gái liếc nhìn qua, đã biết Ngô Giới là người thủ lĩnh. Cô cung tay :
- Thưa đạo sư, trên thiểm thuyền có gà, tôm, cá, mực. Xin đạo sư cùng các vị chờ vài khắc, sẽ có cơm dâng các vị.
Thuyền bắt đầu quay mũi, buồm kéo lên.
Cả bọn Ngô Giới trải qua một ngày mệt mỏi, cho nên vừa xuống thuyền, là nhắm mắt dưỡng thần. Phải hơn khắc sau cô gái, trở lại với hai cô nữa. Ba cô bưng ba mâm, trên mỗi mâm có hai đĩa thịt gà luộc, với một cái bát con đựng muối tiêu, lá chanh thái nhỏ như sợi tóc, hai đĩa cá kho, hai đĩa chả mực, hai đĩa tôm càng bóc vỏ rim thịt ba rọi, một liễn cơm lớn, một bát canh rau ngót nấu với cá rô. Một thanh niên bưng ra hũ rượu lớn.
Bốn người đem bát đũa bầy thành năm mâm. Ninh-Quy chắp tay :
- Xin mời đạo sư cùng các vị xơi cơm.
Bọn Ngô Giới cùng nhau ăn uống, cười nói để cố quên đi những nguy hiểm, những lo âu đang chờ đón.
Cơm vừa xong, thì có tiếng tù và thổi tu tu vọng lại. Ninh-Quy nói với khách :
- Xin quý khách đâu ngồi yên đó. Vì thuyền sắp đến huyện lỵ Thiên-trường, nên quan quân kiểm soát trước khi cho thuyền cập bến.
Bọn Ngô Giới cùng nhìn ra ngoài cửa sổ, trời đã tối hẳn. Một con thuyền nhỏ, trên chở năm người lính thủy binh, với một viên quan võ. Thuyền áp mạn vào con thuyền Thiên-an.
Viên quan còn trẻ. Y hỏi Ninh-Quy :
- Thế nào, người đẹp. Hôm nay thuyền có đông khách không ?
- Cũng khá. Xin anh vào xét qua, rồi em sẽ cho cập bến.
Viên quan với năm người lính vào trong khoang thuyền. Vừa thấy bọn Ngô Giới y đã kêu lên :
- Các người là ai, mà lại đeo kiếm thế này ? Các người có biết rằng phép nước rất nghiêm, cấm không ai được mang vũ khí. Ngay Phụng-quốc vệ, Thiên-tử binh muốn lấy vũ khí trong kho ra, cũng phải có chiếu chỉ của đức vua.
Ngô Giới xuất thẻ bài, trao cho viên quan :
- Chúng ta là Thiên-sứ không phải tuân theo luật lệ của vua Giao-chỉ.
Viên quan đem thẻ bài lại sát ngọn đuốc, đọc qua rồi cau mặt :
- Các người phải theo ta về huyện lỵ, để Tuyên-vũ sứ định liệu.
Lưu Kỳ quát :
- Người không được vô phép. Lấy lý do gì, người bắt chúng ta nào ?
- Thứ nhất, xưa nay sứ thần dù Tống, dù Chiêm, dù Chân, dù Xiêm, tới biên giới, sẽ có quan tiếp dẫn sứ dẫn quân hộ tống về Thăng-long. Đây các người đi dân thuyền, thì tin sao được ? Thứ nhì, nếu sứ thần muốn đi đâu, sẽ có quan quân hộ vệ, đây các người quần áo lôi thôi lếch thếch hành lý không có. Ba là, chỉ khâm sai của triều đình, khi ra ngoài mới mang lệnh bài của Đông-cung, của Khu-mật viện, chứ có đâu thẻ bài của thái-hậu ? Thái-hậu không thể ban phát lệnh bài. Đây là lệnh bài giả.
Ngô Giới nói với các đệ tử :
- Thôi được. Chúng ta hãy theo họ tới huyện lỵ. Chứ lý luận với mấy người này cũng vô ích.
Viên quan ra lệnh :
- Các người phải để chúng ta thu vũ khí, trước khi cho thuyền cập bến.
Luật lệ phái Hoa-sơn từ khi mới lập ra đến giờ là : Bất cứ trường hợp nào, đầu có thể chặt, chứ không để mất kiếm. Vì vậy nghe viên quan đòi thu vũ khí, cả bọn cùng rút kiếm ra khỏi vỏ, tỏ ý muốn ăn tươi nuốt sống viên quan. Viên quan vẫn bình tĩnh :
- Các người định dùng võ ư ? Như vậy là các người làm loạn rồi. Các người nhớ rằng, đây là trấn Thiên-trường, chưa từng có giặc cướp nào nổi lên mà sống được.
Lưu Kỳ biết rằng tình thế hôm nay phải dùng võ công, bằng không sẽ bị làm nhục. Y đưa mắt cho một đệ tử. Tên đệ tử này lạng người tới. Thấp thoáng một cái y đã điểm huyệt viên quan với năm người lính. Tuy bị điểm huyệt, mà sáu người vẫn bình tĩnh như thường. Viên quan hỏi Ninh-Quy :
- Ninh-Quy, em cứ đưa bọn cướp này vào bờ, xem chúng có chạy thoát không ?
Ninh-Quy nói với Ngô giới :
- Trời ơi ! Quý khách dám đụng đến quan quân ư ? Tôi không dám đưa quý khách vào bờ đâu. Vì tôi đưa quý khách vào, thì e bị chặt đầu.
Lưu Kỳ ỷ mình là tình nhân của thái-hậu. Y bàn :
- Sự đã ra thế này, chúng ta hãy dùng thuyền này về Thăng-long, rồi ta xin chỉ dụ của thái-hậu, đem đại binh xuống đây, tìm võ kinh, cũng như cứu Tứ-nhạc, Tam-phong Tam-nương. Chứ đổ bộ bây giờ thì ta không địch nổi hiệu binh Thiên-trường.
Ngô Giới ra lệnh cho Ninh-Quy :
- Tiểu cô nương. Phiền tiểu cô nương cho chúng tôi về Thăng-long, bao nhiêu tiền tôi cũng xin trả.
Ninh-Quy lắc đầu liên tiếp :
- Thưa đạo trưởng, cháu cũng muốn đưa đạo trưởng cùng quý cao đồ đi để có nhiều tiền. Nhưng, đêm tối thế này làm sao nhìn thấy sông, nước mà đi ? Nếu đạo trưởng muốn thì sáng mai, cháu xin đưa đạo trưởng đi thực sớm.
Thình lình có tiếng quát :
- Con thuyền Thiên-an sao không áp vào bến, mà lại đậu giữa lối ra vào thế kia ?
Ninh-Quy nói với Ngô Giới :
- Thuyền quan quân đi tuần sông. Xin đạo sư lên lý luận với họ.
Ngô Giới, Lưu Kỳ, cùng lên trên mũi thuyền quan sát, không thấy có gì khác lạ cả. Hai người còn đang ngơ ngác tìm xem người hạch sách là ai. Khi quay lại, thì chỉ còn kịp thấy bẩy người khách, viên quan, năm người lính, Ninh Quy, với sáu người nhà đò, mỗi người xớt một đệ tử rồi nhảy ùm xuống sông lặn mất tích. Trong khi đó, con thuyền không người điều khiển trôi lềnh bềnh trên sông.
Lưu Kỳ vội lại cầm lái, thì bánh lái đã bị đánh gẫy từ bao giờ. Y gầm lên :
- Tổ bà nó ! Không biết bọn khốn nạn nào bầy ra vụ này. Đồ hèn hạ.
Ngô Giới than :
- Cái bọn bầy mưu này, thực không tầm thường. Nó đã tính trước, chúng ta có hai chục đệ tử, thì chúng cho đúng hai chục người hành sự. Này nhé, bẩy người khách, bẩy người nhà đò, năm người lính một viên quan...Bây giờ một liều ba bẩy cũng liều. Chúng ta cùng xuống con thuyền nhỏ của bọn quan binh, chèo vào bờ rồi sẽ liệu.
Hai người xuống con đò nhỏ, con đò chòng chành muốn lật. Dù sao hai người cũng là đại tôn sư võ học, biết khinh thân giữ thăng bằng, nên con thuyền cũng không đến nỗi bị lật. Con đò nhỏ rời mạn con thuyền lớn, từ từ hướng vào bờ.
Thình lình, cách, cách, cách ba tiếng, đáy con đò thủng một lỗ bằng miệng cái đĩa lớn, nước ào ào vọt lên. Rồi cách, cách hai tiếng nữa, con đò bị vỡ làm bốn mảnh. Hai người vốn là dân miền Bắc Trung-nguyên, chưa từng tập bơi lội. Bây giờ con đò chìm, thì chỉ còn biết bám vào tấm ván. Nhưng người thì nặng, mà ván thì nhỏ, nên cả hai bị chìm nghỉm. Cả hai cùng dẫy dụa, người vừa nổi lên, thì bị một cái lưới chụp xuống đầu. Rồi hai cái, ba cái. Thế là cả hai bị nằm thẳng cẳng trong mấy cái lưới, dù võ công cao đến đâu cũng không thoát ra được. Trong khi hơi thở đã tận. Cả hai uống đầy một bụng nước, rồi ngất đi không biết gì nữa.