Khi hai con thuyền kè mạn vào nhau, thì từ bên con thuyền đinh, ba tiễn thủ ban nãy, cùng gã thuyền trưởng, tay cầm trường kiếm tung mình qua con thuyền Nhất-Liễu. Bốn người này đều mặc quần đen, áo đạo sĩ giống nhau, nhưng mang bốn mầu khác nhau : Trắng, đen, xanh, hồng. Gã thuyền trưởng mặc áo trắng.
Lão Nhất-Liễu rút trung bọc ra một chiếc tù và rồi thổi lên tu tu. Lập tức trong các khoang thuyền của lão xuất hiện hai đội võ sĩ đồng phục, một tay cầm mộc che thân, một tay cầm đao, mau chóng dàn ra trên sàn thuyền.
Đối với Thủ-Huy, Xương-Long, lão Nhất-Liễu tỏ ra lễ phép, lịch sự bao nhiêu thì đối với đám người trên thuyền đinh, lão tỏ ra hách dịch bấy nhiêu. Lão quát:
- Các người là ai? Tại sao con thuyền lớn như thế kia mà lại không có bảng tên?
Gã đạo sĩ mặc áo trắng cười nhạt:
- Hừ! Thuyền ta có bảng tên hay không, cũng không đến cái bản mặt như mi hỏi đến.
Một người đứng trên đài chỉ huy, thân thể hùng vĩ. Tuổi y tuy lớn, nhưng mặt đẹp, cằm vuông, tư thái phong lưu. Thực là một mỹ nam tử, trông gã như cây ngọc trước gió.
Gã chỉ vào mặt viên lái thuyền với Thủ-Huy:
- Này lão già Nhất-Liễu kia, ai thì lão có thể ra oai được, chứ đối với ta thì mi đừng hòng. Ta truyền lệnh cho mi phải đem nộp hai tên này để ta trừng phạt, bằng không thì ta sẽ làm thịt hết bọn mi.
Thủ-Huy bàn với Nhất-Liễu:
- Tiền bối, dường như bọn này chủ tâm gây với ta từ trước thì phải, chứ không hoàn toàn do việc lái thuyền đâu. Vì lão thuyền trưởng biết tên tiền bối. Mình phải có cách nào để khỏi đổ máu thì hay hơn.
Từ trong khoang thuyền đinh, một trung niên nam tử, trong y phục đạo sĩ khoan thai bước ra. Đạo sĩ thản nhiên nhìn hai bên tranh cãi, giống như người ngoài cuộc vậy.
Nhất-Liễu nói với Thủ-Huy:
- Đúng như thiếu hiệp bàn. Lão sẽ có cách đối phó.
Lão bước ra đứng đối diện với đám người thuyền đinh:
- Tại hạ là Thập-bát Nhất-Liễu xin được biết cao danh quý tính của chư vị?
- Ta là ta!
Gã đạo sĩ áo trắng chỉ mặt Nhất-Liễu : Cái bản mặt như mi, không đủ tư cách hỏi tên ta. Nếu mi muốn dễ dàng xưng hô, thì cứ gọi ta làø Ngọc-hoàng Đại-đế cũng được.
Nói vừa dứt thì y xẹt tới, vung tay chụp thằng Cu, rồi tung mình trở lại. Thân pháp, thủ pháp của y nhanh không thể tưởng tượng được. Nhất-Liễu quát lên:
- Để người lại!
Rồi ra chiêu Ưng-trảo chụp đối thủ. Đạo sĩ áo trắng trầm người xuống tránh, vung tay trái đẩy về sau một chưởng. Nhất-Liễu vội biến trảo thanh chưởng đỡ. Bùng một tiếng, người Nhất-Liễu lảo đảo bật lui lại sau ba bước. Lão ọe một tiếng, rồi nhổ ra một búng máu. Đạo sĩ áo trắng cười nhạt:
- Ta mới vận có ba thành công lực.
Nhất-Liễu biết đối thủ nói thực, lão vẫy tay một cái, hai đội võ sĩ đồng phục cùng múa đao tấn công gã thuyền trưởng thuyền đinh. Lập tức gã áo trắng cùng ba võ sĩ áo đen, xanh, hồng vung kiếm nhảy ra cản lại. Tuy chỉ có bốn người, một người phải đấu với năm, nhưng đội võ sĩ áo đen vẫn có vẻ thắng thế. Thoáng một cái, hai mươi võ sĩ của Nhất-Liễu bị đánh bay xuống sông, bơi lóp ngóp, nhưng không có người nào bị giết cả.
Thủ-Huy nhận ra bọn võ sĩ thuyền định xử dụng võ công Hoa-sơn bên Trung-nguyên.
Đạo sĩ áo trắng tung mình đến bên Xương-Long, rồi phát chiêu Long-trảo chụp vương. Nhất-Liễu, Thủ-Huy quát lên:
- Ngừng tay!
Cả hai người cùng phát chưởng tấn công y, để y phải thu tay về tự cứu mình. Nhưng gã vận công chịu chưởng của Thủ-Huy, còn tay trái gạt chưởng của Nhất-Liễu. Bình, bình hai tiếng. Nhất-Liễu bật tung lại sau, lưng lão đụng vào cánh cửa buồng lái đến rầm một tiếng. Còn Thủ-Huy thì cảm thấy trời long đất lở.
Đạo sĩ áo trắng để tay lên đầu Xương-Long rồi cười nhạt:
- Hà! Hà, Hiển-Trung vương. Không ngờ hôm nay người lại lọt vào tay ta. Phàm thức thời mới là tuấn kiệt. Vương gia mau ra lệnh cho gã đô đốc Nhất-Liễu với đám quân tôm tép của y ngoan ngoãn đầu hàng. Bằng không ta nhả kình lực thì đầu vương gia sẽ vỡ liền.
Sợ Xương-Long bướng bỉnh, thì uổng mạng vô ích, Thủ-Huy lên tiếng:
- Đại ca! Đừng chết đuối trong lỗ chân trâu. Chúng ta chưa biết họ là ai, thì hãy tạm tùng quyền. Khổng-tử còn phải chiụ đói ở nước Trần mà.
Quả Long-Xưởng định bướng thực, nhưng nghe lời Thủ-Huy, vương vội nói với Nhất-Liễu:
- Nhất-Liễu tiên sinh! Thì ra tiên sinh là đô đốc Lý Thần, chỉ huy hạm đội Âu-Cơ đấy. Tiên sinh nói dối ta từ sớm tới giờ. Kể ra gan đô đốc cũng lớn thực.
- Điện hạ minh giám, thần đã xưng tên với điện hạ rồi mà.
Long-Xưởng tỉnh ngộ, nghĩ thầm:
- Ừ nhỉ! Hắn chẳng xưng là Thập bát tử nô đó sao? Thập bát tử là chữ Lý. Nô là thần tử. Thì ra lão đã xưng là thần tử họ Lý nhà mình.
Long-Xưởng tuyên chỉ:
- Đô đốc hãy lệnh cho tùy tòng không được vọng động.
Thủ-Huy kinh ngạc hỏi Xương-Long:
- Đại ca! Cái gì là Hiển-Trung vương? Đại ca là thân vương đó sao?
Gã mặt đẹp cười nhạt:
- Này chú bé nhà quê kia ơi! Chú đã kết huynh đệ với thái-tử Lý Long-Xưởng, tước phong Hiển-Trung vương, con trai đầu lòng của vua Giao-chỉ mà chú không biết. Hôm nay y lọt vào tay ta, nhưng ta không giết y đâu. Có điều ta phải giữ y làm món hàng. Nếu chú biết điều thì ngoan ngoãn đi theo hầu hạ y, ta sẽ dành cho chú chút ít lợi lộc. Còn như chú cứ dở mấy chiêu võ mèo cào của chú ra, thì ta sẽ giết y, chứ không giết chú đâu.
Bỗng y ngây người ra, chau mày tỏ vẻ đắn đo suy nghĩ, rồi nói một mình:
- Chiêu Vân- hoành Tần-lĩnh sao lại trầm trọng như vậy nhỉ? Rõ ràng chiêu số thì là chiêu số Hoa-sơn, nhưng sao nội công lại không hoàn toàn giống nội công Hoa-sơn?
Y quay lại hỏi Thủ-Huy:
- Này chú bé, phải chăng sư phụ chú là người của phái Hoa-sơn bên Trung-nguyên? Cao danh quý tính của chú là gì ? Sư thừa là ai ?
Thủ-Huy nghĩ rất nhanh:
- Từ gã thuyền trưởng cho đến bọn võ sĩ đều dùng võ công Hoa-sơn bên Trung-quốc. Tiếng nói của y lại lơ lớ, thì có lẽ chúng là khách thương người Hoa đây. Y tưởng ta là người phái Hoa-sơn, thì ta cứ nhận bừa, để y lầm lẫn chơi cho bõ ghét.
Nghĩ vậy nó trả lời:
- Hoa-sơn thì đã sao. Tôi họ Trần tên Thủ-Huy. Tôi không có sư phụ. Tôi học võ với ông nội tôi.
Đám thủ hạ của Nhất-Liễu đã được vớt lên thuyền.
Từ đầu đến cuối, đạo sĩ không nói, không rằng, bây giờ y mới lên tiếng :
- Phải chăng chú em là đồ tử đồ tôn của Hoa-sơn tứ đại thần kiếm ?
Thủ-Huy biết Hoa-sơn tứ đại thần kiếm là bốn cao thủ bậc nhất của Trung-nguyên gần trăm năm trước. Vào thời vua Lý Nhân-tông bên Đại-Việt, bên Trung-nguyên là đời vua Tống Thần-tông. Bấy giờ vua Thần-tông nhà Tống dùng Tân-pháp của Vương An-Thạch, làm cho Trung-nguyên trở thành hùng mạnh, quốc sản dư thừa. Nhà vua có ý đánh chiếm ba nước hùng mạnh xung quanh. Bắc là Liêu, Tây là Hạ, Nam là Đại-Việt. Vì Liêu ép Tống cắt đất , cống vàng lụa. Hạ thì bất không chịu xưng thần, đem quân phạm cạnh. Đại-Việt thì nhiều lần xuất quân vượt biên ép Tống. Đúng ra nhà vua đợi cho Tân-pháp thi hành trên mười lăm năm, rồi mới ra binh. Nhưng trong chín năm thi hành, Tân-pháp bị các Nho-thần, danh sĩ chống đối quá. Vương An-Thạch bàn với nhà vua đem quân đánh chiếm Đại-Việt, để dằên mặt cái mầm chống đối nội bộ. Cuộc chuẩn bị cực kỳ tinh vi, trong đó có việc nhà vua khuất thân thỉnh tất cả các đại tôn sư võ lâm Trung-quốc theo giúp ; rồi cử Quách Quỳ làm chánh tướng, Triệu Tiết làm phó tướng, đem 40 vạn chính binh, 60 vạn bảo binh, dân phu đánh Đại-Việt. Các danh môn đều cử những đại cao thủ theo trong quân. Phái Thiếu-lâm gửi Thập đại thần tăng, phái Trường-bạch cử Trường-bạch song hùng, phái Liêu-Đông cử Liêu-Đông tam ma, phái Hoa-sơn cử Tứ đại thần kiếm. Nhưng các cao thủ đều bị võ lâm Đại-Việt đánh bại. Liêu-Đông tam ma bị giết. Thập đại thần tăng bị hai Bồ-tát Minh-Không, Đạo-Hạnh, tiên nương Bảo-Hòa bắt sống ở Như-nguyệt. Trường-bạch song hùng bị phò mã Thân Thiệu-Thái với công chúa Bình-Dương bắt ở Yên-dũng. Hoa-sơn tứ đại thần kiếm bị Mộc-tồn, Viên-Chiếu hòa thượng cầm tù ở Kháo-túc. Sau chiến tranh, duy Thập đại thần tăng được tha về. Còn Hoa-sơn tứ đại thần kiếm với Trường-bạch song hùng bị Kinh-Nam vương cầm tù cả đời ở Thiên-trường 0.
Tuy biết vậy nhưng Thủ-Huy vẫn làm bộ như không biết :
- Đạo sư lẩm cẩm rồi. Tại sao là người phái Hoa-sơn lại cứ phải là đồ tử đồ tôn của Hoa-sơn tứ đại thần kiếm ?
Đạo sĩ càng tỏ ra khách khí :
- Nếu đúng chú là đệ tử phái Hoa-sơn, thì chú có biết chiêu này không?
Nói rồi y rút kiếm đánh liền hai chiêu Độc-tích Hoa-sơn, Thương-tùng nghênh khách. Thủ-Huy mỉm cười, nó nghĩ thầm:
- Đây là bài kiếm trấn môn của phái Hoa-sơn. Đối với ai thì nó huyền ảo, chứ đối với ta thì không có gì là lạ cả. Ừ, sao chiêu thức y đánh ra lại chỉ biến hóa có hai bậc, trong khi thực sự biến đến bốn bậc? Đã vậïy, ta đánh hai chiêu tiếp hai chiêu Độc tích Hoa-sơn với Thương tùng nghênh khách với đầy đủ biến hóa cho lão điên đầu chơi.
Nó cung tay hướng tên thủ hạ mặc áo trắng của đạo sĩ :
- Xin đại huynh cho mượn kiếm ?
Gã áo trắng đưa mắt nhìn đạo sĩ như hỏi ý kiến. Đạo-sĩ gật đầu. Gã trao kiếm cho Thủ-Huy.
Thủ-Huy rút kiếm đánh hai chiêu Sơn đầu tùy phong và chiêu Lạc-nhạn thu phân, hai chiêu biến thành bốn, tức biến hóa bậc hai, rồi miệng đọc quyết :
Khí trầm đơn điền,
Tâm hư bất động,
Tự Tốn chuyển Càn.
Tự Càn hựu Khảm.
Khívềđơnđiền,
Trong khi kiếm biến từ bốn thành mười sáu, mười sáu thành hai trăm năm mươi sáu, tức biến hóa bậc ba, bậc bốn; đoạn nó thu kiếm đứng nhìn đạo sĩ, như muốn hỏi xem đạo sĩ có biết hai chiêu đó không?
Mặt vị đạo sĩ nhợt nhạt, trông thực nghiêm trọng, tay y vung kiếm đánh lại hai chiêu Sơn đầu tùy phong và Lạc nhạn thu phân, nhưng chỉ biến thành mười sáu chứ không biến thêm được nữa.
Y hỏi lại Thủ-Huy:
- Tiểu công tử! Tiểu công tử có thể diễn lại hai chiêu vừa rồi cho bần đạo xem một lần nữa không?
Thấy đạo sĩ đổi cách xưng hô, từ gọi nó là chú em đổi sang tiểu công tử ; Thủ-Huy đưa kiếm lên, từ từ diễn lại hai chiêu trên. Miệng giảng giải :
- Trời ơi ! Đạo trưởng đứng im mà vận khí thì sao kiếm chiêu có lực mà biến hóa được ? Trong khi phát chiêu, thì chân phải đổi phương vị chứ !
Đạo sĩ, gã mặt đẹp, cùng đám tùy tùng mở to mắt ra quan sát, tay múa kiếm theo Thủ-Huy, chân đổi phương vị. Sau khi diễn xong biến hóa của hai chiêu Sơn đầu tùy phong, Lạc nhạn thu phân, nó thu kiếm lại mỉm cười liếc nhìn : Trên sàn thuyền ngoài đạo sĩ thủ lĩnh, gã mặt đẹp, còn có ba trung niên đaọ sĩ, ba trung niên đạo cô.
Đạo sĩ thủ lĩnh hỏi:
- Chỉ mấy chiêu đó thôi, chưa thể coi như thiếu hiệp là người phái Hoa-sơn. Xin thiếu hiệp biểu diễn thêm ít chiêu nữa.
Thấy đạo sĩ đổi cách xưng hô, y đang gọi nó là chú em, chuyển sang tiểu công tử, rồi bây giờ là thiếu hiệp, giọng nói càng tỏ vẻ khách khí, Thủ-Huy cũng dùng lời lẽ ôn tồn:
- Cái đó thì không khó !
Trong khi nó nghĩ thầm :
- Bọn này là người phái Hoa-sơn , nhưng dường như chúng không học được bài kiếm trấn môn. Vậy ta biểu diễn hết bài này cho chúng lé mắt chơi. Ta không đọc kiếm quyết thì làm sao chúng học được ?
Nói rồi tay nó bắt kiếm quyết, chân bước theo phương vị Tiên-thiên bát quái, kiếm quay tròn, ánh sáng lấp lánh như sao sa. Từ đạo sĩ, gã thuyền trưởng cho tới bọn võ sĩ đều ngây người ra mà nhìn.
Sau khi đánh hết 72 lộ Hoa-sơn kiếm, Thủ-Huy ngừng laiï, bái tổ, rồi tra kiếm vào vỏ đến cách một tiếng.
Nó giảng :
- Bài kiếm trấn môn của bản phái có bẩy mươi hai lộ. Căn bản biến hóa là Thái-cực sinh Lưỡng-nghi tức Aâm, Dương, đó là biến hóa bậc một. Vì vậy 72 lộ thành 144 chiêu.
Đạo-sĩ nhìn gã mặt đẹp gật đầu liên tiếp. Thủ-Huy lại nói tiếp :
- Khi tay ra các lộ biến hóa thành Lưỡng-nghi, thì chân phải chuyển từ Càn là thuần dương sang Khôn là thuần âm. Bằng không thì chân khí tuyệt, chân khí tuyệt thì kiếm chiêu trở thành chậm chạp. Chậm chạp thì không còn là Hoa-sơn thần kiếm nữa.
Đạo sĩ hỏi :
- Rồi sao ?
- Thì Lưỡng-nghi sinh Tứ-tượng. Dương biến thành Thái-dương, Thiếu-dương. Aâm biến thành Thái-âm, Thiếu-âm. Như vậy 144 chiêu thành 288 chiêu. Cuối cùng Tứ-tượng sinh Bát-quái thành 576 chiêu. Bát quái biến hóa với tám quẻ Càn, Khảm, Cấn, Trấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, vô cùng, thành 4.608 chiêu. Trong phép biến hóa thì có khi tam hư thất thực, thành 13.824, có khi thất hư tam thực...số chiêu thành 32.256. Cộng chung có 46.080. Nhưng cái khó khăn là làm thế nào đang hư lại biến ra thực ? Làm thế nào để nối các chiêu lại với nhau ?
Đạo-sĩ run run hỏi :
- Thiếu hiệp ! Thì ra thiếu hiệp là truyền nhân của phái Hoa-sơn. Xin thiếu hiệp đọc cho bần đạo nghe bài quyết biến hóa với bài kiếm trấn môn này. Nguyện không bao giờ quên.
Thủ-Huy thấy trêu bọn Hoa-sơn như vậy cũng đủ rồi, nó đáp :
- Dĩ nhiên là được. Rõ ràng đạo sư với chư vị đây cùng là người đồng môn với tiểu bối. Đã đồng môn sao lại ỷ lớn hiếp nhỏ? Sao lại làm khó dễ nhau?
- Tại sao thiếu hiệp biết ta là người phái Hoa-sơn ?
- Có gì mà không hiểu.
Thủ-Huy chỉ vào đạo sĩ : Phái Hoa-sơn đặt tổng đường trên Hoa-nhạc. Hoa-nhạc là một trong Ngũ-nhạc. Cho nên đời nào cũng có năm người vai vế tối cao mang tên Ngũ-nhạc. Người chưởng môn là Trung-nhạc Tung-sơn, luôn luôn mặc áo vàng. Đạo-sư chính là chưởng môn phái này.
Nó chỉ vào bốn đạo sĩ áo trắng, đen, xanh, hồng :
- Đạo-sư với bốn vị này hiện diện tại đây, thì ra phái Hoa-sơn kéo hết Ngũ-nhạc, tinh hoa sang Đại-Việt, ắt có mưu đồ lớn chứ không bình thường đâu. Vị mặc áo trắng chắc là Tây-nhạc Hoa-sơn. Vị mặc áo đen là Bắc-nhạc Hằng-sơn. Vị mặc áo xanh là Đông-nhạc Thái-sơn. Còn vị mặc áo hồng kia chắc là Nam-nhạc Hành-sơn.
Không thấy đạo sĩ áo vàng nói gì , biết rằng mình đoán đúng. Nó chỉ vào ba đạo sĩ trung niên:
- Trong dãy Hoa-sơn có ba ngọn cao nhất là ba ngọn trống, mang tên Liên-hoa, Tiên-nhân, Lạc-nhạn, gọi chung là Hoa-nhạc tam-phong. Cho nên ba người có vai vế cao mang tên này. Chắc là ba vị.
Nó chỉ vào ba đạo cô :
- Ngoài ra, dãy Hoa-sơn còn có ba ngọn nhỏ hơn, là Vân-đài, Công-chúa, Mao-nữ, gọi chung là Hoa-nhạc tam nương, hay ba ngọn mái. Ba vị đây chắc mang tên này. Vị mặc áo tím tên là Vân-Đài, vị mặc áo trắng tên là Công-Chúa, vị mặc áo xanh tên là Mao-Nữ.
Nghe Thủ-Huy nói, Long-Xưởng chợt để ý đến đạo cô Vân-Đài. Bà này đứng ở phía sau mấy đạo sĩ. Mặt bà ta hơi xạm đen, da dăn deo, nhưng da cổ, bàn tay thì trắng ngần, mịn như mỡ. Nhất là cái lưng ong tuyệt đẹp. Nhìn chung dáng dấp của bà, rất quen thuộc, rất thân ái, mà trong nhất thời Long-Xưởng không nhớ đã gặp bà ta ở đâu ?
Đạo-sĩ áo vàng đưa mắt nhìn gã mặt đẹp, rồi đánh trống lảng :
- Thôi thì cứ coi bọn bần đạo là người phái Hoa-sơn, tức cùng môn hộ với thiếu hiệp đi.
- Bây giờ đạo sư đã nhận là người phái Hoa-sơn rồi phải không ? Đã cùng môn hộ sao các vị lại ỷ lớn hiếp nhỏ. Như vậy coi có được không ?
- Thì ngôn ngữ Việt chả có câu đánh nhau vỡ đầu rồi mới nhận họ đó sao?
- Thôi cũng được. Nhưng xin đạo sư cho tiểu bối biết cao danh quý tính đã !
- Bần đạo họ Ngô, tên Giới, đạo hiệu là Trung-nhạc Tung-sơn.
Nhất-Liễu cũng như đám tùy tùng của lão cùng bật lên tiếng ủa đầy vẻ thán phục. Thủ-Huy cung tay vái:
- Thì ra đạo sư nguyên là một trong Trường-giang ngũ hùng đấy, hèn chi tư thái khác phàm.
Ngô Giới kinh ngạc vô cùng, vì muôn ngàn lần y không thể tưởng tượng được rằng, một đứa trẻ ở xứ Nam-man này mà lại có thể biết tiếng tăm của y. Y hỏi lại:
- Tiểu công tử biết gì về Trường-giang ngũ hùng?
Thủ-Huy cũng đổi cách xưng hô:
- Dĩ nhiên là tiểu bối biết, lại biết rất nhiều, rất kỹ nữa. Này Ngô đạo sư, nếu như tiểu bối nói ra được hết hành trạng của Trường-giang ngũ hùng, thì đạo sư không được làm khó dễ đại ca của tiểu bối nữa. Đạo sư nghĩ sao?
Đoán chắc Thủ-Huy không thể biết thêm gì về Trường-giang ngũ hùng, Ngô Giới gật đầu:
- Được, bần đạo xin hứa.
Thủ-Huy mỉm cười:
- Trường-giang ngũ hùng gồm năm người là Ngô Giới, Ngô Lân, Hàn Thế-Trung, Nhạc Phi và Trương Tuấn.
Ngô Giới kinh ngạc đến ngây người ra. Y hỏi :
- Thiếu-hiệp biết gì về ta nào? Thiếu-hiệp hãy nói nghe thử !
- Đạo sư tự là Tấn-Khanh, quê ở Lũng-can. Thủa nhỏ cực thông minh, bất cứ sách nào, chỉ liếc qua là đã hiểu được đại lược. Đạo sư cùng em là Ngô Lân được Thiên-Hư đạo sư chưởng môn phái Hoa-sơn thu làm đệ tử. Năm mười chín tuổi, cùng em trai, đã nổi tiếng văn chương quán thế, võ công vô địch, lầu thông Lục-thao tam lược, Tôn Ngô binh pháp. Lúc đầu, hai anh em bỏ tiền nhà cùng em tổ chức đội hương binh. Khi hai vua Huy-tông, Khâm-tông của Tống triều bị Kim bắt đem về Bắc, thì con Huy-tông là Triệu Cấu vượt Trường-giang, chạy xuống Nam lập lại triều Tống ; thường gọi là triều Nam Tống. Nhưng sĩ dân, võ lâm thiên hạ khổ vì các vua triều Tống hôn ám, quan lại tham nhũng, nên không ai theo Cấu. Do vậy, y bị tướng Kim là Ngột -Truật đuổi cho chạy bán mạng, vô sở bất chí.
Ghi chú của thuật giả:
Đoạn này tôi thuật theo Tống-sử, quyển 366, trang 11 399, Lưu Kỳ, Ngô Giới, Ngô Lân liệt truyện.
Thủ-Huy biết rằng Ngô là danh tướng của triều Nam Tống, nên nó gọi tên tục của Thiệu-Hưng hoàng đế Tống ra, để cho y tức giận. Thế mà y với thủ hạ không hề phản ứng.
Nó tiếp:
- Sau dân Tống nghe tin, Kim đem hai vua làm trò giải trí như: Đeo lục lạc trên người, bắt ngồi trên vỉ sắt, rồi đốt lửa dưới vỉ; trong khi hai vua bị nóng quá nhảy lên choi choi, thì chúa tôi Kim ngồi uống ượu ăn thịt, cười khoái trá.