Lát sau, lại một người ăn mày khác. Người này trẻ hơn người trước nhiều, mặt y đẹp vô cùng. Dung quang sáng rực, mắt chiếu ra tia sáng lấp lánh, miệng không cười mà như cười . Y trang phục theo nông dân, đầu đội khăn, tay phải chống cây gậy bằng gỗ đen bóng, tay trái ngửa ra. Y vừa đi vừa hát bài ca của bọn hát xẩm xin ăn. Khi qua bàn của Thủ-Huy, y mỉm cười rất tươi :
- Công-tử, tiểu thư ! Hôm nay là ngày Trung-nguyên, ngục tù mở rộng, lòng người mở rộng. Xin công tử, tiểu thư cũng mở từ tâm.
Thụy-Hương móc túi, trong túi nàng không còn tiền, cũng chẳng có bạc. Nàng tỏ ra luống cuống, thì người ăn mày lại hát :
« Thế gian lìa sinh diệt,
Do như hư không hoa.
Lòng không thiết có, không,
Mà khởi tâm đại bi. »
Trong khi Thủ-Huy ngơ ngơ, ngác ngác, không hiểu gì về ý tứ sâu sa của bốn câu hát, thì Thụy-Hương giật mình. Vì người ăn may đã đọc đoạn đầu bài kệ, mà Bồ-tát Đại-Huệ tán thán Phật Thích-ca, khi ngài đến núi Lăng-già thuyết pháp. Nguyên văn chữ Hán như sau :
« Thế gian ly sinh diệt,
Do ư hư không hoa.
Chí bất đắc hữu, vô,
Nhi hưng đại bi tâm ».
Từ khi về Thăng-long, Thụy-Hương thường cùng Đoan-Nghi ra chùa Chân-giáo nghe các cao tăng thuyết pháp, giảng kinh Lăng-già . Bài kệ trên nàng tụng hàng nghìn, hằng vạn lần. Nên nghe người ăn mày đọc, nàng hiểu ý ông muốn nói với nàng rằng : « Trong thế gian này, cái lẽ sinh, diệt vốn như hoa hư không. Trong lòng chẳng đoái hoài. Chẳng nghĩ tới, có tiền, có bạc hay không ; thì cái tâm mới tiến tới lẽ giải thoát ».
Nàng mở to mắt ra nhìn người ăn mày, rồi không tự chủ được, nàng tháo đôi xuyến trên tay, cung cung, kính kính trao cho ông ta. Ông ta thản nhiên bỏ vào túi.
Bỗng Thủ-Huy thấy lưng đau như dao đâm vào, tai kêu bập bùng như trống thúc, mắt hoa, đầu váng. Hầu biết sang giờ Tý, thì nọc tằm độc hành hạ, đánh vào thận, cơn đau bắt đầu. Hầu nghiến răng tập trung tinh thần vận công chống đau. Tuy cơn đau có giảm, nhưng người hầu vẫn run lên bần bật.
Trong khi đau đớn gần như mê đi, thì người ăn mày vuốt tay vào ngang lưng hầu một cái. Người hầu nóng bừng lên, cái đau từ từ giảm. Tiếng người ăn mày rót vào tai :
- Công tử ! Công tử thử nghĩ xem, cái hình hài công tử hôm nay đẹp đẽ như thế này, thì giỏi lắm bẩy, tám chục năm nữa cũng thành tro bụi. Bấy giờ thì nào triều đình gà mái gáy, nào ép Tống công nhận quốc danh Đại-Việt, nào Đoan-Nghi, nào Thụy-Hương... cũng không mang theo được.
Câu nói của người ăn mày làm Thủ-Huy bừng tỉnh. Hầu nghĩ :
- Như lão nói, đúng cái lẽ Vô-thường của nhà Phật, thì cái to lớn nhất là Đại-Việt, khi ta chết cũng hết, cũng chẳng mang theo được, thì ta còn giữ tiền bạc làm gì ?
Hầu móc cái hộp trong bọc ra. Trong hộp đựng hai viên ngọc Hoàng-hậu ban thưởng cho hầu sau đêm dẹp loạn. Hầu lại sờ túi, trong túi còn hai nén vàng, một xâu tiền. Hai tay hầu cung kính trao cho ông :
- Tiếc quá, trong túi tôi chỉ còn bấy nhiêu thôi. Xin ông cầm lấy, gọi là làm duyên.
Lão già thản nhiên tiếp nhận.
Trao vàng, ngọc cho lão ăn mày rồi, thì trong tâm Thủ-Huy thấy nhẹ nhàng, khoan khoái . Bao nhiêu cái đau đớn hành hạ biến mất, mất luôn cả cái ưu uất vì sắp chết, không giúp Long-Xưởng kiến tạo Đại-Việt thành một nước hùng mạnh như Kim, Liêu, biến đi thực mau. Người hầu lâng lâng, chân khí chu lưu khắp vòng Đại-chu-thiên. Nghĩ đến đây thì dưới gan bàn chân, chỗ huyệt Dũng-tuyền của hầu, nước ri rỉ chảy ra ướt hết cả dày.
Hầu rùng mình :
- Lão này là ai, mà biết mình bị bệnh nan y sắp chết ? Lại biết tâm sự, chí hướng mình ? Lão chỉ vuốt tay một cái, nói mấy câu, khiến mình suy nghĩ, chân khí dẫn chất độc ra khỏi cơ thể ?
Chợt để ý đến bàn tay người ăn mày, tươi hồng, mịn như nhung. Hầu nghĩ ra một truyện, trong lòng tự chửi thầm :
- Thì ra lão là Á-khất. Á-khất là một hòa thượng. Thoáng một cái, mà ông đã cải trang thành người khác.
Hầu vội chắp hai tay vào nhau :
- A-di-đà Phật. Đệ tử lớn gan kính thỉnh Bồ-tát an tọa, để được hầu chuyện.
Người ăn mày thản nhiên ngồi xuống. Thủ-Huy cung cung, kính kính bưng bát canh Thiên-lý ngang mày :
- A-di Đà-Phật, đệ tử thành kính cúng dàng bát canh. Của ít, nhưng lòng nhiều mong đại sư phụ nhận cho.
Người ăn mày tiếp bát canh, khi tay ông chạm vào tay Thủ-Huy, thì một luồng nội lực chính đại quang minh, mạnh như bài sơn, đảo hải tràn vào người hầu. Hầu đang bứt rứt, ngực căng, hô hấp khó khăn, thoáng một cái những cảm giác ấy biến mất. Người ăn mày thu công, rồi lấy muỗm múc canh ăn.
Thủ-Huy biết vị tăng này dùng Thiền-công thượng thừa chữa bệnh cho mình. Hầu nói nhỏ :
- Đa tạ đại sư cứu khổ, cứu nạn.
Thủ-Huy chỉ vào cái bàn của bọn Đỗ An-Di :
- Đại sư phụ ! Đại sư phụ dạy Tô Thái-úy, Đỗ Thiếu-sư sơ sài như vậy, không ngờ lại thành công. Kìa ! Họ đã bầy các món chay, không uống rượu nữa kìa.
Thụy-Hương kinh ngạc :
- Lão tiên sinh đây là hòa thương ư ? Người chính là Á-khất ư ?
- Đúng vậy. Người vừa rời đây, rồi hóa trang vào trêu ghẹo những kẻ rông rài, để dạy dỗ mà thôi.
Á-hòa-thượng cười khanh khách như suối chảy :
- Hà, thí chủ đã thông minh, lại tinh tế. Bần tăng tịnh khẩu khất thực, mang giả tướng bần hàn che mắt chúng sinh đã hơn mười năm. Bần tăng nguyện rằng, khi có người nhận ra thực tướng của bần tăng thì bần tăng mới khai khẩu. Mười năm qua, bần tăng khất thực khắp đế đô, không ai nhận ra thực tướng. Hôm nay, thí chủ đã thấy thực tướng của bần tăng, bần tăng đành khai khẩu.
Ông hỏi Thủ-Huy :
- Này thí chủ, bằng vào cách nào, thí chủ nhận ra thực tướng bần tăng ?
Thủ-Huy mỉm cười :
- Bạch sư phụ, khi sư phụ lên lầu, đệ tử thấy sư phụ đội mũ, nhưng vải mũ sát đầu, thì biết là đầu không tóc, hẳn là một vị tăng. Bước chân sư phụ nhẹ như chim, sư phụ lại đi bằng gót, thì đệ tử biết sư phụ luyện Thiền-công Tiêu-sơn đến trình độ cao không biết đâu mà lường.
- Giỏi !
Thủ-Huy nhớ đến bản tấu trình của Khu-mật viện về hành trạng của một cao tăng pháp danh Trí-Thiền. Hầu nghĩ thầm :
- Ông này là Trí-Thiền bồ tát đây. Mình nói toẹt hành trạng của Á-hòa-thượng này ra, cho ông hết dấu diếm.
Hầu nói với Thụy-Hương:
- Đại sư phụ đây pháp danh Trí-Thiền, tục danh là Lê Thước, đệ tử của Thánh-tăng Minh-Không. Đại sư vốn thuộc cành vàng lá ngọc. Ông nội là Thái-tử Thiếu-phó, Phong-châu tiết độ sứ, Long-nhương đại tướng quân Trung-nghĩa quốc công dưới thời đức Thái-tông, Thánh-tông, Nhân-tông. Bà nội là công chúa Kim-Thành, con của vua Thái-tông. Công-chúa từng cùng phò mã trấn ngự Bắc-cương mấy chục năm. Phụ thân ngài là Lê Văn-Đạc, giữ chức Thái-tử thái-sư, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, tước phong Thuần-mẫn quốc công, dưới thời vua Nhân-Tông, Thần-Tông. Vì giác ngộ, muốn tìm lẽ giải thoát, đại sư nhập vào chốn không môn.
Trong khi Thủ-Huy nói, thì Trí-Thiền dùng ngón tay chỏ vạch vạch lên cái khay đồng.
Thụy-Hương kinh hãi :
- Em nghe người đời không ngớt ca tụng hạnh giáo hóa của Bồ-tát đã nhiều. Em hằng nguyện sẽ được gặp Bồ-tát. Không ngờ hôm nay em theo anh dạo chơi Thăng-long mà được toại nguyện.
Nàng chắp tay lễ ba lễ :
- Đệ tử tham kiến Bồ-tát.
Á-hòa-thượng xua tay :
- Miễn lễ. Bần tăng hỏi hơi đường đột, phải chăng cô nương là người Hoa ?
Mặt Thụy-Hương tái ngắt :
- Muôn ngàn lần không phải. Đệ tử là người Việt, sinh trưởng trên đất Việt. Phụ thân đệ tử là thị vệ thời vua Thần-tông, qua đời từ lâu.
- Như vậy bần tăng nhận lầm người rồi.
Trí-Thiền nắm lấy tay Thủ-Huy, một luồng nội lực mạnh muốn nghiêng thành đổ núi dồn vào người hầu. Hầu vội vận khí chống trả, nhưng cũng cảm thấy như bị ngoặm một miếng đau thấu tim gan . Trí-Thiền cười :
- Tưởng ai, hóa ra cháu nội của cố tri Tự-Kinh. Thế nào, ông vẫn an lạc chứ ?
- Đa tạ đại sư, ông nội đệ tử vẫn mạnh ...
Tuy miệng hỏi thăm mà Trí-Thiền vẫn dồn Thiền-công vào người Thủ-Huy, làm hầu đau điếng người.
Trí-Thiền nhăn mặt lắc đầu:
- Xưa nay phái Đông-a thường tự hào là đệ nhất danh môn Nam-phương, không bao giờ cho đệ tử luyện võ công phái khác. Thế mà bần tăng thấy dường như thí chủ còn luyện thêm võ công Hoa-sơn, Không-minh tâm pháp của phái Mê-linh. Lại luyện cả Huyền-âm nội lực của phái Trường-bạch nữa. À, phen này gặp người bạn già Thủ-Kinh, bần tăng phải hỏi cho ra lẽ mới được.
Thủ-Huy càng tỏ ra lễ phép :
- Bạch sư phụ ! Đệ tử chỉ luyện nội công Đông-a mà thôi. Nội công của bản môn để lại, dù đệ tử luyện cả đời cũng không hết, thì làm sao có thời giờ luyện nội công các phái khác ?
Trí-Thiền bẹo tai Thủ-Huy :
- Rõ ràng thí chủ luyện võ công Hoa-sơn ! Dấu bần tăng sao được ?
Thủ-Huy giật mình :
- Quả đệ tử có luyện võ công Hoa-sơn, chứ không luyện nội công Hoa-sơn. Đó chẳng qua là đạo hiếu, mà đệ tử phải luyện.
- Có thế chứ. Sự việc ra sao ?
- Nguyên thái tổ mẫu của đệ tử là công chúa Huệ-Nhu, xuất thân là đệ tử Hoa-sơn...
- Bần tăng hiểu rồi, hồi ấy phái Đông-a cầm tù Hoa-sơn tứ đại thần kiếm. Bị giam lỏng trọn đời không được hồi hương, Tứ đại thần kiếm nghiên cứu, viết ra bộ Vô song vô đối Trung-nguyên võ kinh. Gọi tắt là Vô-trung kinh. Khi sắp qua đời, họ dấu tại một nơi bí mật nào đó, rồi làm kệ gửi về cho đồ tử, đồ tôn sang tìm. Việc này không qua mặt được Kinh-Nam vương, với công chúa Huệ-Nhu. Công chúa bí mật lấy Vô-Trung kinh đem về đọc. Gốc là đệ tử Hoa-sơn, công chúa đọc qua, người hiểu liền. Công chúa sợ rằng sau khi mình hoăng rồi, e rằng tâm huyết của mấy chục đời phái Hoa-sơn sẽ mai một. Người xin với Kinh-Nam vương cho phép mỗi thế hệ của phái Đông-a, gia ân một người luyện võ công Hoa-sơn, hầu sau này có dịp đem về Trung-nguyên truyền cho đồ tử, đồ tôn phái Hoa-sơn ... chắc thí chủ thuộc thế hệ thứ năm được ban ân luyện võ công Hoa-sơn ?
- Kiến thức đại sư thực mênh mông.
- Thế sao trong nội tức thí chủ lại có Không minh tâm pháp, nội công Âm-nhu của phái Mê-linh, lại có cả Huyền-âm công của phái Trường-bạch bên Trung-nguyên ?
Tuy đối thọai, mà Trí-Thiền vẫn tiếp tục dồn Thiền-công sang người Thủ-Huy. Thủ-Huy phải vận công trấn nhiếp, không nói được nữa. Thụy-Hương thấy mồ hôi hầu toát ra, nàng thay hầu kể cho Trí-Thiền nghe về tất cả những biến cố : Công-chúa Đoan-Nghi luyện võ công Mê-linh, rồi hút nội công của Tô-lịch nhị tiên ra sao... Thủ-Huy phát tâm Bồ-đề cứu Đoan-Nghi thế nào.
Trí-Thiền à lên một tiếng, rồi nắm chặt tay Thủ-Huy hơn. Không trấn tĩnh được cái đau, Thủ-Huy bật lên tiếng kêu, rồi giật tay lại, đưa lên xem, thì thấy cổ tay sưng vù. Hầu kinh hãi định hỏi, thì thấp thoáng một cái, Á-hòa-thượng đã biến mất.
Thụy-Hương hỏi :
- Nhị ca bị trúng độc ư ?
- Không, trái lại, anh cảm thấy người khoan khoái vô cùng.
Thị vệ Nguyễn Hữu-Duệ chỉ vao cái khay :
- Thưa Thiếu-bảo, dường như đại sư dùng tay viết gì vào cái khay này thì phải.
Thủ-Huy cầm cái khay lên, thì ra Á-hòa-thượng đã dùng chỉ lực viết lên bài kệ :
Đạm nhiên tự thủ,
Duy đức thị vu.
Hoặc vân thiện ngôn,
Quyền quyền nhất cú.
Tâm vô bỉ ngã,
Ký tuyệt hôn mai.
Nhật dạ trắc giáng,
Vô hình khả trú.
Như ảnh, như hưởng,
Vô tích khả thú.
Tam niên chi hậu,
Sinh tử khả luận.
Ghi chú của thuật giả:
Bài kệ này, tôi lấy trong Thiền-uyển tập anh. Đồ-Nam tử dịch như sau :
Lấy đức làm trọng,
Thanh đạm giữ mình.
Một lời nói phải,
Ghi nhớ đinh ninh.
Lòng không bỉ, ngã,
Sáng sủa quang minh.
Đêm ngày cảm cách,
Chẳng thấy tâm hình.
Như vang, như bóng,
Vết sạch sành sanh.
Ba năm về sau,
Sống, chết mới luận.
Vàng ngọc của Thủ-Huy đôi xuyến của Thụy-Hương ngài để lại cạnh bàn.
Thủ-Huy ngẫm nghĩ về mấy câu kệ của Trí-Thiền :
« ...Bốn câu đầu ngụ ý đạo đức rõ ràng. Nhưng còn hai câu :
Tâm vô bỉ ngã,
Ký tuyệt hôn mai.
Sao giống yếu quyết trong Không-minh tâm pháp quá. Như ý ngài, nếu bỏ ra cái hình hài của ta, không phân biệt ta với người, thì sẽ không còn nhiều người. Như kinh Kim-cương nói : Vô nhân tướng, vô ngã tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng. Nghĩa là bỏ ra hình hài người, bỏ ra hình hài ta, bỏ ra hình hài chúng sinh, bỏ ra hình hài vạn vật. Nhưng ngài chỉ khuyên ta bỏ ra ngoài ta, người cũng đủ. Còn hai câu : Nhật dạ trắc giáng, vô hình khả trú, thì ngài dạy ta ngày đêm không thấy thân mình nữa, rõ ràng là vô ngã tướng. Kể ra bỏ cái ta cũng không khó. Nếu ta làm đươc như vậy, thì sau ba năm mới biết rằng mình sống hay chết . Như vậy thì cái hạn 49 ngày sẽ chết của Ngự-y Phương-Thanh sẽ kéo dài tới ba năm nữa».
Hầu tập trung thần chí, người như mê đi không biết gì nữa. Mồ hôi vã ra như tắm ? Lát sau hầu cảm thấy khoan khoái không bút nào tả xiết.
Thủ-Huy gọi tửu bảo tính tiền, rồi cùng Thụy-Hương xuống lầu. Đôi giầy của hầu ướt sũng, vì nước từ huyệt Dũng-tuyền vẫn ri rỉ chảy ra trong khi cơn đau bắt đầu hành hạ. Hầu biết rằng sắp sang giờ Dần, nọc độc trong can phát tác, cơn đau sẽ ghê gớm lắm. Hầu bảo Nguyễn Hữu-Duệ :
- Phiền huynh đánh xe trở về càng mau càng tốt .
Chiếc xe vọt lên trong đêm khuya. Xe tới Đông-cung, thì cơn đau của Thủ-Huy càng mãnh liệt. Chân hầu cơ hồ không nhắc lên được. Thụy-Hương bồng Thủ-Huy đưa vào tẩm phòng. Trong cơn đau, mơ mơ tỉnh tỉnh, đầu hầu ấp vào ngực nàng. Hương thơm trinh nữ từ hai đóa hoa trà mi rực mùi thơm, càng làm cho hầu trở thành mơ hồ hơn. Hầu nhắm mắt, trấn nhiếp tâm thần. Trong cơn mơ, hai tay ôm lấy cổ nàng.
Vào thời gian này, Nho-giáo đã có chỗ đứng rất vững trong triều đình, ngoài dân dã, trải hơn trăm năm. Thế nhưng hai người cùng quên đi những gì của luân lý Nho-giáo cấm kỵ: Trai gái không được cầm vật gì trao cho nhau (Nam nữ thụ thụ bất tương thân). Họ quên cả bộ Hình-thư định rằng : Khi không có sự ưng thuận của cha mẹ thì hôn nhân không thành. Rằng chưa treo cưới mà trai gái gần nhau thì sẽ bị tội trượng, nam thì xung quân, nữ thì bị gọt đầu sơn vôi, đem đi bêu diễu cho dân chúng xem. Điều này dễ hiểu, bởi Thủ-Huy là con một đại tôn sư võ học, vượt ra ngoài những ràng buộc phiền tạp. Còn Thụy-Hương thì không những mẹ không cấm đoán, mà còn dạy nàng thuật bắt nai.
Ghi chú của thuật giả
Để độc giả có một ý niệm về Nho-giáo du nhập vào Đại-Việt, tôi xin ghi ở đây mấy giòng về diễn tiến của văn hóa này :
Tháng 8 niên hiệu Thần Vũ thứ hai đời vua Lý Thánh-tông 0, cho lập Văn-miếu, tạc tượng Chu Công, Khổng Tử, Tứ -phối (Nhan Uyên, Tăng Sâm, Tử Tử, Mạnh Tử) vẽ hình Thất-thập nhị hiền (72 học trò giỏi của Khổng Tử) ở cửa Tây-Nam hoàng thành Thăng-long. Bốn mùa cúng tế. Vua chọn nho thần uyên thâm dạy cho thái-tử Càn-Đức.
Đến niên hiệu Thái-ninh thứ tư (DL.1075, Aát Mão), cho mở khoa thi Mình-kinh bác học và khoa thi Nho-học tam trường. Lê Văn-Thịnh đỗ đầu khoa Minh-kinh, được vào cùng học với vua Lý Nhân-tông.
Niên hiệu Anh-vũ Chiêu-thắng nguyên niên, đời vua Lý Nhân-tông 0 lập Quốc-tử giám 0.
Niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ 8 (DL.1170, Canh Dần) đời vua Lý Anh-tông, lại lập miếu thờ Khổng Tử ở phía Nam thành Thăng-long.
Sang đời Trần, Lê, Quốc-tử giám vẫn được duy trì. Chu Văn-An -78 xuất thân từ đây.
Kể từ đời Lý, cho đến hết đời Lê, các thí sinh trúng tuyển thi Hội, thì Đình đều được bái yết ở Văn-miếu, Tổng cộng có 187 khoa thi, và 2991 thí sinh trúng tuyển tiến sĩ.
Tháng 2 năm Giáp Thìn, niên hiệu Hồng-đức thứ 15 (DL.1484), vua Lê Thánh-tông sai dựng bia tiến sĩ ở Văn-miếu. Sai thượng thư bộ Lề là Quách Đình-Bảo soạn bộ sách chép tiểu sử các thí sinh trúng tuyển tiến sĩ. Sai Đông-các đại học sĩ Thân Nhân-Trung, Đỗ Nhuận ; Đông-các hiệu thư Đào Cử, Đàm Văn-Lễ, Ngô Luân...soạn văn bia. Lại sai khắc bia, ngày 15 tháng tám năm ấy thì tạc xong, sai dựng ở sân Văn-miếu. Các triều đại kế tiếp, soạn bia những khoa thi sau.
Kể từ năm khởi công, tạc từ khoa 1442 đến khoa 1779 có 82 bia, khắc 1323 tên tiến sĩ. Như vậy có 1668 tiến sĩ không được khắc tên trên bia đá.
Đến triều Nguyễn, lại lập Văn-miếu nữa ở Huế cũng có bia tiến sĩ theo quy mô của Văn-miếu Thăng-long.
Tất cả những di tích này ( 1997) hiện vẫn còn tại Hà-nội, được bảo quản rất kỹ, lấy làm biểu tượng cho nước Đại-Việt văn hiến. Hình bìa bộ Anh-linh thần võ tộc Việt, tôi đã đùng hình Văn-miếu Thăng-long làm bìa.
Độc giả muốn thâm cứu thêm về Văn-miếu Thăng-long, có thể tìm đọc các sách (Chữ Hán) sau :
ĐVSKTT, bản kỷ 3 và 7.
ĐNNTC.
Nhị hoàng di ái lục.
Hoàn-long huyện chí.
Hà-nội địa dư.
Hoàng Việt địa dư chí.
Thăng-long cổ tích khảo.
Thăng-long sự tích khảo
Long-biên bách nhị vịnh.
Hà-nội sơn xuyên phong vực.
Văn miếu kiến tạo thời Lý, nay vẫn còn tại Hà-nội
Thụy-Hương ôm Thủ-Huy vào phòng. Bị Thủ-Huy ôm chặt lấy cổ, đầu nàng quay mòng mòng, miệng khô, chân tay bải hoải. Nàng định đặt Thủ-Huy xuống giường, nhưng lòng lại không muốn. Nàng tự hỏi :
- Thủ-Huy ôm lấy mình, vì muốn tìm nguồn an ủi trong cơn đau, hay cũng đang say tình ?
Hình ảnh nàng ngã vào lòng Thủ-Huy trên xe đến bến Ngọc-thụy, làm lòng nàng ấm áp kỳ lạ :
- Người này say mê nàng.
Những lời mẹ giảng giải về phương cách bắt con nai văng vẳng bên tai. Thụy-Hương rùng mình : Ta phải tỉnh táo, làm chủ cho cuộc đi săn này. Ta không thể để mất cơ hội. Dù ta có được làm vợ Thủ-Huy hay không, ta cũng phải hưởng những gì trời cho trước mắt. Mẹ ta dạy ta cách cho Long-Xưởng hưởng hương thơm đào hoa, nếm mùi suối Đào-nguyên, nay ta cho Thủ-Huy.
Nghĩ vậy, nàng ngồi lên giường, đặt Thủ-Huy nằm xuống, tay nàng ấp chặt đầu Thủ-Huy vào ngực mình. Trong cơn mơ mơ màng màng vì đau, Thủ-Huy lại tưởng người ngồi cạnh mình, ôm lấy mình là Đoan-Nghi. Hầu gục đầu vào ngực nàng. Đôi lứa thiếu niên cùng say, cùng say...cùng mơ mơ... cùng buông lỏng hết...Môi kề môi.
Thụy-Hương nhớ lời mẹ dặn, nàng trồi dần người lên đầu giường... Mặt Thủ-Huy trườn xuống thấp, xuống thấp...Đến đây cơn đau của Thủ-Huy đã dứt. Hầu say sưa hưởng hương thơm, uống nước của ngọn suối Đào-nguyên.
Cứ như vậy...
Đêm khuya trôi đi như giòng suối Thiên-thai vô tận.
Cuối cùng Thụy-Hương buông lỏng cuộc đời, ngắt nhụy đào duy nhất của đời con gái cho tình quân.
Tiếng trống cầm canh vọng lại, đâu đó tiếng chim ăn đêm lạc loài thoảng trong canh tàn. Nhưng trong căn phòng nhỏ của Đông-cung, thành Thăng-long, có đôi thiếu niên quên hết mọi vật xung quanh. Họ bơi lặn trong rung động, trong say sưa, họ chìm đắm vào nhau.
Tiếng trống ở tòa Khâm-thiên giám báo đã sang giờ Mão, Thụy-Hương bừng tỉnh trước. Ánh sáng ban mai lọt qua khung cửa sổ, hai người nhìn nhau, không ai nói lời nào, mà như cùng nói với nhau rất nhiều. Thụy-Hương thì thỏa mãn tràn đầy, cho dù có chết ngay, nàng cũng cam tâm. Còn Thủ-Huy, ngay từ đầu cuộc hành trình vào Thiên-thai, người thiếu niên mơ mơ, hồ hồ tưởng đâu mình đang đi với Đoan-Nghi trong giấc mộng Vu-sơn. Bây giờ giáp mặt đôi ta thì lại là Thụy-Hương, mà là thực tại chứ không phải là giấc mơ nữa. Thủ-Huy nhìn nàng:
- Thì ra là em à ?
Thụy-Hương đang say men tình, nàng không chú ý đến câu hỏi của Thủ-Huy.
- Anh nghỉ nghe.
Nàng nói bằng giọng nhẹ như gióp thoảng : Em phải vào bếp trông coi Ngự-trù nấu cháo cho đại ca, nhị ca ăn rồi còn dự buổi thiết Đông-cung triều.
Thụy-Hương trở về phòng mình, thì vú Mai đã ngồi đó từ bao giờ. Bà mỉm cười tinh quái nhìn con gái :
- Giỏi ! Con đã thành công với Thủ-Huy. Bây giờ con đang bơi trong hạnh phúc. Nhưng con ơi ! Thủ-Huy chỉ là một thiếu niên ngây thơ, chưa từng nếm mùi trái chua, thì con bắt y dễ dàng. Vì vậy, mẹ phải dạy con thêm, để con có bản lĩnh bắt bất cứ người đàn ông nào cũng phải quỳ gối cho con sai bảo.
- Mẹ ơi ! Thủ-Huy là một đấng thiếu niên anh tài, làm vợ anh ấy cũng không uổng tấm hồng nhan. Như mẹ nói, mẹ chỉ là một vú em, con chỉ là con một thị vệ. Bây giờ nếu con là vợ Thủ-Huy thì cũng đường đường ngôi mệnh phụ, con nghĩ như vậy cũng là quá rồi ! Mẹ muốn con phải thế này, thế nọ chi cho mệt tấm thân.
- Con không hiểu gì cả.
Vú Mai nói bằng giọng thiết tha :
- Con nói rằng Thủ-Huy là một đấng thiếu niên anh tài, mẹ cũng đồng ý với con. Võ công y cao, trí tuệ siêu phàm, văn chương quán thế... gì chăng nữa, y vẫn là tay mơ trong tình trường, một đứa con nít trong phòng the. Y không thể đem con đến tuyệt đỉnh rung động, tuyệt đỉnh Vu-sơn. Mẹ muốn dạy thêm cho con ít bản lĩnh, để con tiến xa hơn, để làm việc ấy...
Thụy-Hương rùng mình ngồi ngay ngắn lại :
- Con nghe lời mẹ.
- Điều con nên nhớ, đàn ông có thể là vua, là văn quan, là võ tướng... là anh lái buôn, là anh thợ cầy. Nếu cứ nhìn vào địa vị, tài năng của họ, thì họ khác nhau rất nhiều. Nhưng họ có chung một huyệt đạo, con chỉ cần điểm trúng là họ sẽ biến thành con mèo con, con chó ngoan, con nai hiền lành. Huyệt đạo đó là năm cái cao ngạo « Tự ái, tự cao, tự hào, tự thị, tư tôn ». Con ạ. Tự ái có thể ví như con sư tử. Tự cao ví như con đại bàng. Tự hào ví như con gấu. Tự thị ví như con cọp. Tư tôn ví như con chó sói. Nếu ta biết mềm, biết vuốt ve năm cái tự đó, thì ta có thể biến con sư tử, con hổ, thành con chó ngoan ngoãn. Biến con gấu, con sói thành con mèo nhu mì. Biến con đại bàng thành con chim sáo trong lồng. Họ mạnh đến có thể tay không giết cọp. Họ uy quyền đến độ có thể ra một lệnh, khiến núi tan, khiến đất rung chuyển, khiến người chết như rạ. Thế nhưng, những loại người đó lại dễ bị sắc đẹp làm cho tan nát sự nghiệp. Khi đứng trước họ, bề ngoài ta dùng cái nhu nhã, dùng làn môi, dùng sóng mắt, dùng lời ngọt ngào đưa đẩy. Còn bề trong, ta tự coi mình là Quan-thế-âm, họ là những Phật-tử, đến trước ta quỳ gối để cho ta sai khiến.
- Muốn thế, mình phải làm gì trước, làm gì sau?
- Này con nghe cho kỹ. Có bẩy bước.
Thế rồi vú Mai ghé miệng vào tai Thụy-Hương giảng giải. Mẹ thì nói, con thì gật đầu.
Về phần Thủ-Huy. Khi Thụy-Hương ra rồi, hầu mới thực sự tỉnh táo. Người thiếu niên nghĩ thầm :
- Mình đã làm một việc bất hiếu đối với cha mẹ. Một việc phạm pháp, một lỗi lớn với Đoan-Nghi.
Nhưng tưởng lại cái thời gian vừa qua, người thiếu niên vẫn cảm thấy ngọt ngào, hạnh phúc hơn là hối hận. Hầu lại chìm mình vào trong giấc ngủ.
Thủ-Huy tỉnh giấc thì mặt trời đã lên cao. Hầu choàng dậy, chạy ra ngoài, thì vừa gặp tỳ nữ thân tín là Trung-Tĩnh nương. Hầu hỏi :
- Chết rồi ! Tôi ngủ mê, quên cả dự thiết Đông-cung triều. Dễ thường sang giờ thìn rồi cũng nên.
Trung-Tĩnh nương dùng ngón tay viết lên lòng bàn tay hầu :
- Thiếu-bảo yên tâm. Sáng nay, Thái-tử ban chỉ không cho tiểu tỳ đánh thức Thiếu-bảo, để Thiếu-bảo ngủ. Thái-tử đang thiết Đông-cung chiều.
Thủ-Huy súc miệng, rửa mặt, thay y phục, rồi sang nghị sự đường. Đông-cung triều đang nghị về việc bổ nhiệm các thí sinh trong kỳ thi võ vừa qua. Trong Đông-cung, công chúa Đoan-Nghi, quận chúa Trang-Hòa, Như-Như, Thụy-Hương, đều được ngồi phía phải của Long-Xưởng. Tăng Khoa ngồi phía trái. Thủ-Huy ngồi vào ghế dành cho mình
Binh-bộ thượng thư Phí Công-Tín đang tâu :
.... Có tất cả 1938 ứng sinh. Không có ứng sinh nào đủ điều kiện trúng đại đô, trung đô, hạ đô (trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa). Lấy 72 thượng vệ (tiến sĩ), 144 trung vệ (phó bảng), 288 hạ vệ (Cử nhân). Có 18 dứng sinh dưới 18 tuổi khai tăng tuổi ; 36 ứng sinh gái giả trai; 72 ứng sinh thuộc các sắc dân Mường, Thái, Nùng, Mèo, Lô-lô, không biết nói tiếng Việt ; 120 ứng sinh gốc người Chàm, người Lào, người Hoa. Tất cả đều bị loại.
Long-Xưởng hỏi :
- Chư khanh nghĩ sao ?
Quan Kiểm-hiệu Thái-úy Tô Hiến-Thành tâu :
- Khi triều đình ban chỉ tuyển võ, đã nói rõ rằng : Ứng sinh phải trên 18 tuổi, là trai, phải biết nói tiếng Việt. Thế mà trong các cuộc sơ tuyển tại các trấn, tuyển quan không chịu tuân chỉ, tuyển cả thiếu niên. Thần xin triều đình ban chỉ giáng các tuyển quan địa phương hoặc sơ xuất, hoặc vi chỉ. Riêng các ứng sinh khai tăng tuổi, gái giả trai, truyền đánh ba mươi côn, thích chữ vào mặt.
Thủ-Huy bàn :
- Trước hết ta hãy xét từng trường hợp, chứ không nên giải quyết chung. Đầu tiên là các ứng sinh dưới mười tám tuổi . Họ còn trẻ, khai man tuổi ứng thí, thì họ phải có tài mới dám làm vậy. Tuổi trẻ, tài cao, thì đó là những tinh hoa của đất nước. Thần xin điện hạ chuẩn tấu trao họ cho Binh-bộ dạy thêm binh pháp, xung phong, hãm trận, cùng luyện võ, học văn. Đợi tới 18 tuổi sẽ tùy tài, đức bổ dụng.
Dao-thụ Thái-phó Ngô Lý-Tín tâu :
- Từ xưa đến giờ, các đấng nhân quân thường dùng lễ để giáo hóa hơn là hình pháp. Lời bàn của Trần Thiếu-bảo thực hợp với đạo lý. Thần xin điện hạ chuẩn tấu đề nghị của Trần Thiếu-bảo.
- Cô gia chuẩn tấu. Bây giờ tới các ứng sinh nữ giả trai.
Quan Hình-bộ thượng thư Trần Trung-Tá tâu :
- Xưa nay nữ nhân thương là mối họa cho xã tắc. Vì vậy các thánh nhân như Tam-hoàng, Ngũ-đế chưa từng dùng nữ quan. Ở nước ta, từ khi đức Nhân-Tông băng đến giờ, triều đình bị cái nạn nữ nhân xen vào việc triều chính, khiến xã tắc bao phen nguy như trứng chồng. Thế mà còn có đến 36 gái giả trai dự thi. Như vậy rõ ràng các y thị coi thường phép nước. Thần xin điện hạ chuẩn đề nghị của Tô Thái-úy.
Nghe Trung-Tá tâu, các quan đồng quay lại nhìn công chúa Đoan-Nghi, quận chúa Trang-Hòa, Thụy-Hương, Như-Như. Công-chúa Đoan-Nghi đứng dậy nói :
- Quan Gián-Nghị đại phu nói như vậy e quá đáng. Điều mà đại phu nói, nếu ở bên Trung-nguyên thì thực là hợp với đạo lý. Nhưng đối với Đại-Việt ta thì lại xa đạo lý.
Công-chúa nhỏ nhẹ :
- Bên Trung-nguyên, từ khi Hán Cao-tổ Lưu Bang dựng nước, đã dùng Nho làm chủ đạo trị nước. Mà Nho thì trọng nam, khinh nữ. Hơn nữa trong lịch sử Trung-nguyên chỉ có những nữ nhân làm cho nước loạn, mà không có nữ nhân làm cho nước thịnh ; thì việc dùng nữ quan là điều không nên.
Các đại thần đều gật đầu công nhận lời của Đoan-Nghi là có lý.
- Còn bên Đại-Việt ta, từ khi dựng nước, các vua Hùng, vua An-Dương đều dùng đạo lý tộc Việt, thường đươc gọi là chủ đạo tộc Việt trong việc trị nước. Nho chỉ có chút bóng dáng từ thời Đinh, Lê. Mãi tới khi bản triều lập chính thống, mới được dùng một phần. Từ đời đức Thánh-Tông, mới có hẳn chỗ đứng, mà người chủ trương dựng tượng thánh Khổng cùng 72 tiên hiền, xây Văn-miếu là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Hiện triều đình vẫn dùng chủ đạo tộc Việt trong phép trị dân. Chủ đạo này, lấy từ chủ đạo cổ, một phần Nho, một phần Thích. Khi dùng chủ đạo của ta, thì nên dẫn chứng thời vua Hùng, vua An-Dương , vua Trưng hay năm vị tiên đế bản triều, chứ không nên, không cần dẫn chứng Tam-hoàng, Ngũ-đế.
Một số đại thần chủ đem Nho trị dân bẽn lẽn, trong lòng không phục. Đoan-Nghi biết vậy, tiếp :
- Thời vua Hùng ta có công chúa Tiên-Dung, thời vua Trưng ta có không biết bao nhiêu nữ anh hùng. Sau vua Trưng tới Lệ-hải bà vương Triệu-thị Trinh. Đến bản triều, thì nhiều vô kể, nào Quốc-mẫu Thanh-Mai, nào tiên nương Bảo-Hòa, Thiếu-Mai, nào Ngũ-long công chúa, nào Hồng-hà ngũ long, nào các phu nhân của Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt, nào công chúa Thiên-Thành, Động-Thiên, Thiên-Ninh. Các vị ấy qua đời, mà nay dân chúng còn hương khói tôn thờ... Các vị không nên vì hai người đàn bà, mà bỏ phí cả tài năng của con cháu vua Trưng.
Công chúa nhìn Long-Xưởng :
- Đối với 36 thiếu nữ giả trai, triều đình không nên nhìn vào khía cạnh họ phạm luật, mà chỉ nên xét đến cái thiện ý của họ. Trước hết, họ phải có tài, mới dám ứng thí, mới lọt qua kỳ thi tại các trấn. Họ lại có lòng son, muốn đem tài lương đống ra phò tá quân phụ. Họ là người đến với triều đình, nên trọng dụng họ, chứ không nên xua đuổi họ.
Thái-bảo Ngô Nghĩa-Hòa tỏ vẻ không bằng lòng :
- Tâu điện hạ, ngặt vì trong triều không có ngạch nào dùng nữ quan, thì đặt các nữ quan này vào đâu ?
Thủ-Huy tâu :
- Không khó. Tiều đình chọn những người ưu tú nhất để dạy dỗ cung nga, thái giám. Còn lại dùng làm nữ thị vệ, làm nữ quan của Khu-mật viện, làm giáo đầu dạy nữ tù, dạy thiếu nhi mồ côi.
- Cô gia chuẩn của công chúa, của nhị đệ. Truyền tha tội cho các ứng sinh gái giả trai. Truyền trao cho công chúa Đoan-Nghi xét tài năng bổ dụng. Bây giờ tới các ứng sinh Bắc-cương và ứng sinh Hoa, Chàm, Lào.
Thủ-Huy tâu :
- Các ứng sinh thuộc sắc dân Bắc-cương không biết nói tiếng Việt mà bị gạt ra ngoài thì e uổng mất các tinh hoa của đất nước. Từ thời đức Thái-tổ, triều đình luôn ưu đãi các sắc dân này. Chả vậy mà các công chúa Hồng-Châu, Lĩnh-Nam Bảo-Hòa, Bình-Dương, Kim-Thành, Trường-Ninh, Thiên-Thành... được gả cho hào kiệt Bắc-biên. Hơn trăm năm qua, Bắc-cương luôn là ải địa đầu trấn giặc Bắc. Thần xin đề nghị, đặc cách cho các ứng sinh Bắc-cương không cần thi, ban cho đỗ thượng vệ, lưu họ lại Thăng-long một thời gian, dạy họ học tiếng Việt, rồi bổ nhiệm sau. Còn các ứng sinh gốc người Hoa, Chàm, Lào. Họ đều sinh trưởng trên đất Việt, thì họ là người Việt. Xin triều đình xét, cho họ thi. Nếu có tài, thì cũng lấy đậu như người Việt.
Long-Xưởng tuyên chỉ :
- Cô gia thuận đề nghị của Trần Thiếu-bảo. Truyền Binh-bộ, Lễ-bộ thi hành tất cả chỉ dụ hôm nay.
Long-Xưởng hỏi Tăng Khoa :
- Bây giờ nghị tới vấn đề gì ?
- Khải, bãi triều.
Long-Xưởng cùng Đoan-Nghi lui vào hậu điện.