Thủ-Lý hỏi :
- Cháu nghe nói loại nhân sâm nghìn năm có thể cải tử hoàn sinh. Ai ăn được thì trường sinh bất lão. Việc ấy có đúng hay không ?
Thúc Cẩn cười :
- Đó là tiểu thuyết. Sâm có thể sống lâu đến bao nhiêu năm thì không ai biết. Nhưng củ sâm từ 4 đến 6 tuổi dùng trong việc trị bệnh thì tốt nhất. Tính vị của sâm là hơi đắng. Khi dùng thì làm ấm cơ thể. Bởi vậy những người mà cơ thể nhiệt, hoặc bị nhiệt bệnh thì không nên dùng sâm. Nếu cứ dùng bướng, thì nóng đến phát điên, đầu nhức như búa bổ, nặng thì trúng phong ngã lăn ra, rồi miệng méo, bán thân bất toại.
Tăng Khoa hỏi :
- Thưa tiên sinh, thế sâm chữa được những bệnh gì ?
- Thường sâm dùng để trị bệnh tim, phổi. Nhân sâm dùng trị bệnh tỳ, vị, can. Hồng-sâm dùng trị bệnh thận. Thái-tử sâm dùng trị bệnh cốt, tủy, não. Đấy là nói về chi tiết. Còn bàn chung chung thì bất cứ loại nào trong ba loại cũng có tính chất dược lý như sau :
« Đại bổ nguyên khí, cố thoát sinh tân, an thần định chí, lao thương hư tổn, ăn ít, ăn vào bị mửa, đại tiện lỏng bạc, hư nhược sinh ho, kinh ủy, dương ủy, mất trí nhớ, nhức đầu chóng mặt, nữ nhân bạch đới ».
Trang-Hòa than :
- Tiên sinh ơi ! Tiên sinh nói sách như vậy thì làm sao chúng cháu hiểu được. Xin tiên sinh nói dân đi...
- Xin lỗi tiểu quận chúa. Kể ra thì nhiều như vậy, chứ nhân sâm dùng để trị năm loại bệnh sau. Một là, nhân sâm dùng để trị tất cả các bệnh tiêu hóa do tỳ, vị, can, đởm, đại trường, tiểu trường suy nhược sinh ra như ăn không tiêu, ăn vào đầy ứ, ợ chua, mửa ra thực vật, tiểu tiện lỏng, đau bụng kinh niên. Hai là, nhân sâm dùng để trị bệnh tâm, phế như tim đập chậm, phế lạnh sinh ho, suyễn kinh niên. Ba là, sâm dùng để bổ thận tráng dương, nên dùng trong trường hợp phụ nữ huyết trắng, suy nhược không thụ thai, tuyệt kinh sớm ; đàn ông phòng sự suy, hiếm muộn, đi tiểu vặt. Trong y học, tâm chủ thần chí, thận chủ não, chủ tủy, vì vậy sâm dùng để trị chứng mất trí nhớ, người già hay lẫn, hư nhược sinh kinh phong, nhức đầu chóng mặt. Điều quan trọng là dùng sâm trị bệnh di truyền tất cả các chứng trên
Như-Như mừng rỡ :
- Thưa tiên sinh, đã ba đời nhà cháu làm nghề ca hát, nên bố mẹ cháu đều hay bị sưng họng, rồi kéo tới ho. Chắc sau này cháu cũng bị di chứng này. Liệu dùng nhân sâm có trị khỏi không ?
- Nếu có nhân sâm thì còn nói gì nữa, không những có thể trị cho quận chúa, mà còn có thể trị cho song thân quận chúa nữa.
Đoan-Nghi trở lại với bệnh của Thủ-Huy :
- Ban nãy tiên sinh nói rằng anh Thủ-Huy sẽ chết. Thế thì bao giờ anh ấy mới chết ?
- Đúng ra y dùng phương pháp quy liễm độc của Hồng-thiết giáo thì sau 49 ngày là thoát chết. Y đã thoát khỏi cái kỳ hạn đó.Vì sự can thiệp của Trí-Thiền, nên đến ngày thứ ba mươi sáu trở đi, thì cơn đau sẽ đến không có kỳ hạn nào, khi thì ba ngày, khi thì một tuần, có khi năm ba tháng, sau ba năm thì chết. Bây giờ cái chết của y sẽ đến bất cứ lúc nào. Có thể y sống đến hằng trăm năm, chứ không nằm trong cái hạn kỳ hơn hai chục ngày nữa.
Đoan-Nghi chắp tay vái Thúc-Cẩn liên tiếp :
- Xin tiên sinh ra tay tế độ cứu nhị sư huynh !
- Công chúa ơi. Thủ-Huy là con của sư huynh tôi, thì tôi phải hết sức cứu chữa. Bây giờ chúng tôi xin đem y đi.
Bà Anh-Hoa nói với Long-Xưởng :
- Chúng tôi về đây bằng thuyền. Vậy xin thái-tử cho chúng tôi tự do. Khi Thủ-Huy khỏi bệnh, thì chúng tôi sẽ đưa y về giúp thái-tử.
Long-Xưởng cung tay :
- Bá mẫu đã định như vậy, thì xin các vị cứ tự tiện.
Thủ-Huy được Vỵ-xuyên ngũ tiên về phòng giúp đỡ, thu xếp hành trang. Nhưng vừa về đến nơi thì Trung-Tĩnh nương đã chuẩn bị sẵn rồi. Hai giọt nước mắt chảy lên má, nàng dùng tay viết lên bàn tay hầu mấy chữ :
« Nhất nhật bất khiến như tam thu hề ». (Ba thu dọn lại một ngày dài ghê).
Thủ-Huy an ủi :
- Tôi đi trị bệnh mấy ngày rồi lại về. Á-nương đừng buồn.
Nàng lại viết :
« Ta ngã hoài nhân » ( Than ôi. Ta nhớ thương người).
Thủ-Huy biết người tỳ nữ này có cảm tình với mình. Hầu an ủi :
- Mấy hôm nữa tôi về.
Huyền-Mi cười :
- Tiểu sư đệ có một tỳ nữ thông kinh Thi, nhưng tiếc rằng nó bị câm. Hai câu trên nó lấy từ kinh Thi ra. Phục thực.
Không biết Tín-Hương nương đã chuẩn bị từ lúc nào, mà thoáng một cái, nàng đã kết hoa ngọc lan, hoa nhài thành một vòng. Khi tiễn Thủ-Lý ra khỏi Đông-cung, nàng choàng vòng hoa vào cổ chàng, rồi nói bằng giọng thiết tha :
- Thần-nông sứ ! Người thoáng đến rồi lại thoáng đi như bóng chim. Biết ngày nào tiểu tỳ mới gặp lại người.
Bà Anh-Hoa đã nghe nói về Tín-Hương, bà an ủi :
- Khi nào nương nương có thời giờ, xin phép thái-tử rồi về Thiên-trương chơi. Thủ-Lý sẽ dẫn nương nương đi thăm non Côi, sông Vỵ.
Long-Xưởng truyền tấu nhạc tiễn khách.
Cả đoàn đi trên hai chiếc xe bốn ngựa. Xe đến bến Bắc-ngạn, nơi con thuyền của phái Đông-a đang đậu, mọi người xuống. Con thuyền nhổ sào, kéo buồm, rời bến. Trong con thuyền, Đại-Việt ngũ tuyệt đều hiện diện. Thủ-Huy biết rằng bố mẹ, cùng các sư thúc muốn họp riêng với mình, nên mới bầy ra việc trị bệnh.
Vũ Tử-Mẫn hỏi :
- Cháu Thủ-Huy ! Cháu hãy trình bầy chi tiết tình hình triều đình cho chúng ta nghe để chúng ta có thể làm được những gì cho Đại-Việt.
Thủ-Huy cứ thực sự kể hết mọi biến cố trong triều, tính tình, hành trạng của nhà vua, hoàng-hậu, thân-vương, thái-tử, các phi tần, các công chúa, cho đến các đại thần. Cuối cùng công kết luận :
- Lạ một điều, xét về xuất xứ, hầu hết các đại thần không xuất thân từ khoa cử, thì cũng xuất thân từ các cuộc tuyển võ. Họ đều là người có chân tài. Thế nhưng, họ đều ù ù, cạc cạc như vịt ; ù lỳ, mũ ni che tai, thành ra Đông-cung triều trở thành triều đình.
Nghe xong, Thủ-Lý cười :
- Không phải các quan trong triều đều ù lỳ, mũ ni che tai cả đâu ; chẳng qua hoàn cảnh mấy chục năm nay đã tạo cho họ thành người như vậy. Nếu như họ có ý kiến sắc bén, ta e họ không bị giết như Lý Sơn, Lý Long-Vũ, thì cũng như bọn Vũ Đái, Nguyễn Dương, Dương Tự-Minh mà tan nhà nát cửa. Bây giờ cái ông vua thì chỉ biết có gái, ăn với ngủ. May mắn còn có hoàng-hậu, thái-tử Long-Xưởng, công chúa Đoan-Nghi... Nhưng anh chắc cái nếp ù lỳ, sống chết mặc bay của các đại thần trên 80 năm qua, nó đã ăn sâu vào tủy não rồi. Vua thì lười biếng, ham chơi, các quan thì chỉ mong có ông vua như vậy để nắm quyền, nên họ chủ trương cúi đầu trước bọn Tống thì là điều bình thường. Anh nghĩ chú nên cáo quan, về Thiên-trường nuôi trâu, cầy ruộng với anh, còn hơn là phí sức đi xây lại cái nhà đã đổ nát.
- Đôi khi em cũng nghĩ như anh, nhưng ít ra, những cố gắng của em cũng mang lại ít nhiều kết quả.
Thủ-Lý lắc đầu cười. Trong khi Tự-Hấp than :
- Ta sợ một truyện là, thái-tử hành sự vốn cẩn trọng, thế mà mấy phen hút chết vì tin tức bị lộ. Nhất định quanh thái-tử có một con rắn độc, chuyên cắn trộm. Nó là ai ? Phải tìm cho ra.
- Thưa bố ! Con hết sức theo dõi, mà vẫn chưa tìm ra tung tích. Trong Đông-cung, ngoài Đại-Việt thất tiên còn có vú Loan, vú Mai, Tăng Quốc, vợ chồng Đào Duy... Tất cả những người này đều sống chết với Đông-cung. Nếu như Đông-cung có bị tai vạ gì, thì họ cũng bị táng gia bại sản theo.
Tử-Giác lắc đầu :
- Cháu luận như vậy thì không được. Trong vụ này cháu phải nghi tất cả, ngoại trừ Long-Xưởng với cháu.
- Dạ, cháu hiểu. Cứ như sư thúc dạy, cháu xin đưa ra trường hợp từng người. Đầu tiên là Đoan-Nghi. Nếu là nàng, thì không phải tự tâm nàng, mà do mẫu thân là Thần-phi Bùi Chiêu-Dương chủ động. Đặt vấn đề : Tương lai, khi Long-Xưởng lên ngôi, thì Trang-Hòa nghiễm nhiên trở thành hoàng-hậu, mẫu nghi thiên hạ ; anh của Thần-phi là Bùi Kinh-An thành quốc trượng, toàn gia cực vinh hiển. Long-Xưởng lại yêu thương Đoan-Nghi. Vậy Thần-phi làm việc này với mưu đồ gì ?
- Có thể trước đây bà bị thái-hậu áp chế, cũng có thể mưu phế trưởng lập thứ. Ta nghe, Đoan-Nghi có người anh là Lý Long-Minh tài trí không kém gì Long-Xưởng.
- Thưa sư thúc, Long-Minh được phong tước Kiến-Ninh vương, rất hợp tính với Long-Xưởng, luôn phục tùng anh. Chắc không có chuyện dành ngôi đâu.
Bà Anh-Hoa tiếp :
- Rồi, bây giờ tới vú Loan ?
- Nếu là vú Loan thì quá nguy hiểm, bởi chồng vú trông coi ty Mật-sự thuộc Khu-mật viện, có bổn phận phòng gian, theo dõi mọi hoạt động của tông thất, các quan, kể cả Đông-cung. Con của vú là Tăng Khoa lĩnh chức Mật-thư tỉnh sự, mới đây thăng lên Trung-thư lệnh. Bao nhiêu bí mật triều đình đều nằm trong tay gia đình vú cả. Nhưng, từ vú Loan cho tới Tăng Quốc, Tăng Khoa làm gian tế cho ai ? Khi làm gian tế họ được hưởng gì ?
Tử-Mẫn hỏi :
- Còn vú Mai ?
- Nếu là vú Mai với Thụy-Hương thì không nguy hiểm cho lắm, vì hai người này vốn cô đơn, gia đình họ hàng đều thuộc thành phần dân dã. Vú lại bị các nho thần không ưa, vì lý do Thụy-Hương ra đời trong hoàn cảnh nghi ngờ. Tuy vậy con cũng cứ theo dõi vú.
- Con không nghi ngờ gì Đào Duy, Như-Yên với Như-Như ư ?
Thủ-Huy chỉ vào Lê Thúc-Cẩn :
- Không ! Vì ông bà là đệ tử của Lê sư thúc. Lê sư thúc đưa vào cung giúp con, thì con nghi ngờ sao được ?
Thủ-Lý vỗ vai Thủ-Huy :
- Bây giờ thế này. Trong các đường dây nghi ngờ, mỗi đường dây ta gài một cái bẫy, như thế thì biết rõ thủ phạm là ai ngay.
- ? ! ? ! ? !
- Em với Long-Xưởng đưa ra ba mật sự. Mật sự thứ nhất chỉ bàn với vú Loan, Tăng Khoa. Nếu như mật sự này bị tiết lộ ra, thì gian tế là nhóm này. Cũng tương tự, mật sự thứ nhì bàn với Đoan-Nghi, Trang-Hòa, mật sự ba bàn với vú Mai và Thụy-Hương...
Anh-Hoa xua tay :
- Ba cái bẫy mà anh con đưa ra đó, chỉ với mục đích tìm hiểu sự thực mà thôi. Bởi trước đây, họ làm gian tế cho thái-hậu, mà nay thái-hậu đã rời quyền hành rồi, thì ta không còn lo nữa.
Tự-Hấp ngồi ngay ngắn lại :
- Hôm trước, nhân chị Thanh-Tước lên thăm con, thái-tử với con có đãi tiệc chị ấy. Con có nhớ không ?
- Vâng. Con còn nhớ.
- Sau tiệc, thái-tử gửi chị ấy một mật thư trao tận tay cho bố. Xin bố làm cách nào cho thái-tử gặp riêng, tại một nơi bí mật.
- Ái chà ! Sao đại ca không cho con biết ?
- Vì thái-tử sợ nhờ con gửi thư, e con rắn độc biết thì mưu cơ bị lộ. Vì vậy chúng ta mới bầy ra việc đem con xuống thuyền trị bệnh. Rồi thái-tử sẽ âm thầm tới đây nghị sự với chúng ta.
- Như thế đại ca nghi ngờ hết mọi người, trừ con mà thôi.
Bà Anh-Hoa mỉm cười nhìn Thủ-Huy :
- Đúng thế. Việc mật nghị sẽ bàn sau. Bây giờ mẹ muốn báo cho con một tin quan trọng .
- ? ? ?
Bà nắm lấy tay Thủ-Huy :
- Bố mẹ về Thăng-long báo cho con biết hai tin vui. Tin thứ nhất là : Cuối tháng này bố mẹ sẽ làm lễ vu quy cho năm chị Vỵ-xuyên. Bố mẹ cũng làm lễ hỏi Tô Phương-Lan cho anh Thủ-Lý, làm lễ đính hôn cho Tá-Chu với Kim-Ngân. Con chuẩn bị về dự đám cưới.
Thủ-Huy nhìn năm bà chị nuôi, hầu trêu :
- Chà ! Không biết năm người nào tốt phúc được làm chồng năm bà chị tiên nga của con ? À, hôm qua con gieo quẻ, thấy tiền kiếp của năm ông ấy đều là hòa thượng !
Thanh-Tước tát yêu em :
- Cậu hai này ! Bộ thiên hạ hết người rồi hay sao mà bố mẹ gả chị cho sư phá giới ?
Thủ-Huy nắm lấy bàn tay ngà của Thanh-Tước :
- Chị nóng tính quá. Em nói tiền kiếp chứ đâu có nói kiếp này ?
- Thì ra thế ! Ta Thanh-Tước xin rửa tai nghe tài Quỷ-Cốc của cậu.
- Có gì lạ đâu ! Nếu tiền kiếp các ông ấy không là hòa thượng, gõ thủng mười tám cái mõ, thì sao kiếp này lại được làm chồng năm tiên cô Vỵ-xuyên ? À năm ông ấy là ai vậy ?
Bà Anh-Hoa nhìn Lê Thúc-Cẩn :
- Là năm cao đồ của Lê sư thúc.
- Con biết rồi, thì ra Hồng-sơn ngũ tiên, dường như năm ông có tên là Đương-Quy, Phòng-Phong, Cam-Thảo, Kỷ-Tử, Bạch-Truật thì phải. Hồng-sơn ngũ tiên kết hôn với Vỵ-xuyên ngũ tiên thì đẹp quá rồi. Có điều Hồng-sơn ngũ tiên đeo túi vân du thiên hạ cứu người, chả biết Vỵ-xuyên ngũ tiên có chịu đi theo không ? Aùi chà...
Hoàng-Anh hỏi :
- Tiểu sư đệ. Tại sao tiểu sư đệ lại ái chà ?
- Chị khéo giả bộ. Ông yêu thương năm chị vô cùng tận ! Bất cứ lúc nào, dù ăn, dù dạo chơi sơn thủy, cụ cũng mang năm chị đi theo. Bây giờ năm chị đi lấy chồng, thì người buồn lắm.
Đại hiệp Tự-Hấp ngồi ngay ngắn lại, ông nói với Thủ-Huy :
- Ông nội có gần bốn chục cháu nội, cháu ngoại, cháu nuôi. Nhưng người đặc biệt sủng ái năm chị Vỵ-xuyên, Thủ-Lý, với con. Mấy năm trước, vì quốc sự, ông phải cho con về Thăng-long, mà ngày ngày ông nhớ nhung con...ông nhắc đến con luôn. Nay cả việc con bị trúng độc, bố cấm tuyệt, không ai được nói cho ông nghe. Bây giờ Vỵ-xuyên đi lấy chồng, nên bố muốn cưới vợ cho con. Vợ con sẽ thay con phụng dưỡng ông nội.
Nghe bố nói đến ông nội, Thủ-Huy bùi ngùi cảm động. Vì ông bà Tự-Hấp tuy là đại tôn sư võ học, nhưng đại hiệp Tự-Kinh lại đích thân dạy dỗ các cháu. Cho nên ngoài tình ông cháu ra, giữa ông và các cháu còn có tình sư phụ, đệ tử. Càng ngày ông càng cảm thấy tuổi mình một cao, mà ông muốn đem tất cả kiến thức của mình truyền cho các cháu. Vì vậy, khi ăn, lúc dạo chơi, ông đều mang các cháu theo để dạy dỗ. Từ hồi Thủ-Huy về Thăng-long, mỗi khi có miếng ngon, vật lạ, hay những gì quý giá, công đều sai thân binh phi ngựa đem về dâng lên ông. Hóa cho nên, gần như ngày nào, ông cháu cũng có thư tín qua lại.
Công ứng lời cha :
- Con thực là đứa cháu bất hiếu, không ở gần để phụng dưỡng ông. Còn việc lấy vợ...
Đến đây công nghĩ đến Thụy-Hương, Đoan-Nghi, không biết mình phải trả lời sao với cha mẹ.
Thấy con im lặng, Anh-Hoa tưởng Thủ-Huy xấu hổ, bà vuốt tóc con :
- Bố mẹ sắp cưới vợ cho con, vì con đã lớn. Con cần có vợ, rồi dọn ra phủ đệ riêng mà ở, chứ không thể ở mãi trong Đông-cung. Mẹ đã định xong, cuối năm nay thì cưới.
Thủ-Huy giẫy nẩy lên :
- Mẹ hỏi vợ cho con bao giờ ? Mẹ hỏi ai ? Tại sao mẹ không hỏi ý kiến con ?
Bà Anh-Hoa phóng đôi mắt sắc như dao, nhìn con :
- À ! Bây giờ cậu làm quan to rồi, cậu muốn vượt ra ngoài quyền hành của cha mẹ hả ? Này, thiên kinh, địa nghĩa, phàm việc dựng vợ gả chồng của trai gái phải do cha mẹ đứng làm chủ. Ngay việc lập vương phi cho thái-tử Long-Xưởng cũng phải do hoàng-hậu ban chế, cậu hiểu chưa ?
Bị mẹ đem đạo lý ra mắng, Thủ-Huy đành cúi đầu im lặng chịu trận. Bà Anh-Hoa tiếp :
- Còn trong nhà, tôi là mẹ, tôi đi hỏi nàng dâu về, tôi lại phải hỏi ý kiến ai nhỉ ?
Ghi chú của thuật giả:
Độc giả còn trẻ, hoặc sống ở ngoài lãnh thổ Việt-Nam đừng kinh hãi vì lý luận của bà Anh-Hoa. Bởi đây là nét đặc thù của văn hóa tộc Việt. Văn hóa Nho-giáo định rằng việc dựng vợ, gả chồng trong gia đình là do trưởng tộc. Khi áp dụng văn hóa Nho-giáo, thì tộc Hoa dành toàn quyền cho ông, cha, hay bác, chú ; chứ bà, mẹ, cô, thím không có quyền gì cả. Còn văn hóa Nho-giáo du nhập vào Đại-Việt đã bị Việt hóa đi rất nhiều. Khi quyết định việc vợ chồng cho con cái, thì mẹ-cha toàn quyền ; tuy rằng nếu ông-bà còn sống, thì mẹ-cha cũng trình với ông-bà, chú-bác, cô-dì lấy lệ. Bà mẹ trong gia đình Việt xưa (1945 về trước), gần như toàn quyền hỏi vợ cho con trai, gả chồngcho con gái, ông bố chỉ ừ hự cho có lệ. Ngay đến thời thuật giả, mẫu thân học chưa quá trình độ biết đọc, biết viết, còn phụ thân thì học thức cực uyên bác, ra đời uy quyền áp chúng nhân. Ấy vậy mà khi gả chồng cho con gái, hỏi vợ cho con trai -10, cụ bà quyết định hết, cụ ông chỉ có nhiệm vụ coi Tử-vi xem con dâu, con rể có hợp tuổi với con trai, con gái của cụ hay không ?
Thủ-Huy thu hết can đảm :
- Thưa mẹ, thế mẹ đã hỏi ai cho con ?
- Là thứ nữ của sư thúc Tô Trung-Sách, tên Phương-Liên. Trưởng nữ của người là Phương-Lan, mẹ đã hỏi cho anh Thủ-Lý rồi.
Thủ-Huy giẫy nẩy lên :
- Ái già ! Phương-Liên ư ?
- Con không thích nó à ? Phương-Liên bằng tuổi con, lại xinh đẹp, nết na, văn học uyên bác, võ công do chính ông nội truyền thụ. Hồi bé, con với nó nô đùa, chơi với nhau, hiểu tính nhau rồi mà.
Nghe mẹ nói, Thủ-Huy nghĩ thầm :
- Ta có nên nói thực truyện của ta không ? Mẹ đâu có biết những gì giữa ta với Đoan-Nghi, Thụy-Hương ?
Trong hai người anh, thì Kim-Ngân thân với Thủ-Huy hơn Thủ-Lý. Vì Thủ-Lý tính tình nghiêm nghị, ít nô đùa. Bây giờ thấy bố mẹ nghị việc hỏi vợ cho Thủ-Huy, mà công dẫy nẩy lên như đỉa phải vôi, thì ắt có lý do trọng đại gì đây. Nàng hỏi anh :
- Từ hồi bé đến giờ, trong bẩy chúng mình, lớn nhất là anh Lý, thứ đến anh Trung-Từ, Tá-Chu, với anh. Nhỏ hơn một chút là chị Phương-Lan. Cuối cùng là em với Phương-Liên. Chúng mình cùng học võ với ông nội, học văn với mẹ ; lại cùng ăn, cùng vui đùa với nhau ; bây giờ anh Lý chị Lan ; em với anh Chu... sắp thành vợ chồng. Vì vậy mẹ mới định hỏi chị Liên cho anh. Tại sao anh lại không vui ? Hay là anh bị cô công chúa, quận chúa nào bắt mất hồn rồi ?
Thấy con tần ngần, bà Anh-Hoa ngạc nhiên :
- Con nghĩ gì vậy ?
Lê Thúc-Cẩn đã tiếp xúc với Đại-Việt thất tiên, ông cũng nghe Ngự-y Trần-thị Phương-Thanh, vợ chồng Đào Duy nói nhiều lần về tình cảm giữa bẩy thiếu niên trong Đông-cung, ông đoán ra tâm sự Thủ-Huy đến chín phần mười. Ông nói với bà Anh-Hoa:
- Bà mẹ thương con đi hỏi vợ cho con, bà mẹ có biết đâu con mình đã có nơi rồi. Khi con nai bị lọt lưới, còn có thể thoát ra, chứ con trai lọt lưới tình, thì có chạy đằng trời.
- Thúc thúc nói sao ? Cháu đã lén lút lấy vợ rồi à
- Bảo rằng chưa, thì cũng chưa. Bảo rằng rồi, thì cũng rồi.
Ông nói với Thủ-Huy :
- Cháu ạ ! Cha mẹ thương con, bao giờ cũng muốn cho con mình hạnh phúc. Cháu còn đợi gì mà không kể hết tâm sự ra, để bố mẹ cháu định liệu cho.
Thủ-Huy nhắm mắt suy nghĩ. Hình ảnh truyện cũ trở lại trong ký ức công:
« ... Sau cái đêm được Thụy-Hương cho hưởng hương thơm hai đóa trà mi, được biết mùi vị ngọn suối Đào-nguyên, lên tuyệt đỉnh Vu-sơn... Bao nhiêu tình ý dành cho Đoan-Nghi từ từ phai nhạt. Ngay hôm sau, hầu phải đi Kinh-Bắc chủ tọa cuộc thi tuyển thị vệ. Thụy-Hương tự coi mình như một người phụ tá của hầu. Nàng truyền lệnh dóng xe, rồi đeo kiếm đi cùng hầu. Dọc đường hai người nói truyện với nhau, không điều gì mà không hợp, không lời nào mà không ưa. Tối hôm đó, Thụy-Hương lại vào phòng Thủ-Huy. Đôi thiếu niên đang lúc say tình, họ lại quên cả lễ nghi, quên cả luật pháp, quên luôn uy quyền phụ mẫu.
Truyện hai người chỉ một mình vú Mai biết. Nhưng vốn là một danh ca xuất thân, vú coi sự đó là thường tình. Hơn nữa là một chiến thắng của con gái.
Từ hơn 80 năm qua, việc thao luyện binh mã của các trấn bị bỏ phế, mười hai hiệu Thiên-tử binh bị giải tán. Nay Long-Xưởng nắm được quyền, tái lập Thiên-tử binh, công việc thao luyện binh sĩ các trấn...lại như xưa. Nghĩa là cứ hai ngày nghỉ, tám ngày luyện tập : Bắn cung, cỡi ngựa, tập võ, xung phong, hãm trận, học binh pháp. Công việc này đích thân Long-Xưởng với Thủ-Huy phụ trách thiết kế, kiểm soát. Long-Xưởng coi Thủ-Huy như một người phụ chính toàn quyền. Khi có cuộc thao luyện binh mã, nếu Long-Xưởng đích thân đi vùng này, thì Thủ-Huy đi vùng kia. Mỗi lần đi như vậy, thì vương mang Đoan-Nghi, Trang-Hòa theo. Việc Đông-cung triều, Khu-mật viện trao cho Thủ-Huy, Tăng Khoa, Thụy-Hương, Như-Như. Ngược lại vùng khác Long-Xưởng trao cho Thủ-Huy đại diện. Hoặc vương đi không đi được, thì vương trao cho Thủ-Huy thay thế, dẫn theo Tăng Khoa, Thụy-Hương, Như-Như.
Nhất là thời gian Thủ-Huy dàn quân ở Bắc-biên làm áp lực cho sứ đoàn sang Tống, Thụy-Hương luôn ở cạnh công. Ban ngày, thì hai người là sư huynh sư muội, nhưng đêm đến, họ sống với nhau như cặp vợ chồng, mà Long-Xưởng, Đoan-Nghi không biết gì ! Vô tình, vì sủng ái em gái, mà Long-Xưởng khiến cho Đoan-Nghi cách xa Thủ-Huy. Hơn nữa, Thụy-Hương lại được gần người yêu. Lúc đầu, Thủ-Huy nghiêng về phía Đoan-Nghi, nhờ cái đêm hôm ấy, Thụy-Hương thắng thế một bước... Thế là hai người ngang nhau. Sau thời gian ở Bắc-biên, thì Thủ-Huy chỉ còn biết có Thụy-Hương ».
Bây giờ bị mẹ mắng, được Thúc-Cẩn mở đường cho, nhưng Thủ-Huy cũng không dám nói thực cái chuyện du ngoạn Đào-nguyên, hưởng hương thơm trà mi, cùng nhận đóa hoa đời con gái của Thụy-Hương. Công chỉ thuật rằng mình phân vân giữa hai người nghĩa muội, mà chưa quyết định chọn người nào.
Đại hiệp Tự-Hấp là người đi nhiều, khoáng đạt, ông muốn cứu Thủ-Huy thoát khỏi cái khắt khe của bà vợ uyên thâm Nho-học. Ông hỏi các sư đệ :
- Các chú nghĩ sao ?
Dầu sao Thủ-Lý cũng hiểu em hơn, chàng nói với mẹ, hy vọng cứu em :
- Mẹ! Con thấy trong ba cô gái Tô Phương-Liên, Lý Đoan-Nghi, Từ Thụy-Hương, thì phải gạt cái cô công chúa Lý Đoan-Nghi ra ngoài.
Thúc-Cẩn vốn cảm tình với Đoan-Nghi từ hôm ông giả làm người ăn mày ở đền Kiêu-kị. Hôm đó nàng không đắn đo, tháo đôi vòng vàng tặng ông. Ông hỏi Thủ-Lý :
- Tại sao cháu lại gạt Đoan-Nghi ra ngoài ? Là công chúa, thì đâu có phải là điều tội lỗi? Bỏ cái bề ngoài công chúa ra, Đoan-Nghi cũng là một cô gái xinh đẹp, võ công cao, văn chương nức tiếng Thăng-long. Có nàng dâu như vậy thì còn gì bằng ? Ngày xưa tổ Tự-Mai chẳng từng là phò mã Tống đó sao ?
Rồi ông thuật lại việc nàng tưởng ông là ăn mày, tháo vòng vàng cho ông...
Thủ-Lý xua tay :
- Cháu gạt Đoan-Nghi ra ngoài không phải vì cô ta là công chúa, mà vì mình là dân, không thể đi hỏi công chúa làm vợ cho con. Hai trẻ cảm tình với nhau là một chuyện, muốn chúng thành vợ chồng lại là một chuyện. Bởi với cô công chúa, ông vua muốn gả cho ai, thì truyền chỉ gả, chứ có ai đi hỏi công chúa đâu ? Ta chỉ có thể hỏi Thụy-Hương, Phương-Liên cho Thủ-Huy mà thôi.
- Con nói ! Nếu hỏi Thụy-Hương cho Thủ-Huy thì mẹ ăn làm sao, nói làm sao với thím Trung-Sách? Mẹ đã trót ngỏ lời với thím ấy rồi. Chỗ người lớn với nhau, đâu có phải là chuyện đùa
Thúc-Cẩn cười lớn :
- Thì mình hỏi cả hai cô cho Huy. Trai năm thê, bẩy thiếp là sự thường.
- Thưa sư thúc không được đâu.
Thủ-Huy trình bầy : Bởi chính Thái-tử Long-Xưởng với con đã bàn với nhau, sau này anh ý lên làm vua sẽ ban luật một vợ, một chồng. Trong triều nhiều đại thần chống đối ghê lắm. Nếu nay con lấy hai vợ, thì chẳng hóa ra mình lại mình chống mình, thì bọn quan liêu hủ lậu chúng cười chết !
Trung-Từ vỗ vai Thủ-Huy :
- Cái cậu Thủ-Huy này tẩm ngẫm, tầm ngầm mà đấm ngầm chết voi. Loi choi, loi choi như tớ mà đấm voi không chết. Cậu cũng khéo mết đấy chứ ! Mết một lúc hai cô cùng đẹp cả. Bây giờ tớ hỏi cậu câu này nhé. Có phải cậu mết cái ôn nhu, văn nhã, trang nghiêm của cô Đoan-Nghi ! Trong khi đó cậu cũng mết cái nồng nàn, cái hấp dẫn của Thụy-Hương không ?
Thủ-Huy giật mình, không ngờ Trung-Từ lại hiểu rõ những khúc mắc trỗng lòng mình như vậy ?
Trong sáu thiếu niên cùng học với Thủ-Huy, thì Thủ-Lý lớn tuổi hơn hết, tính khí thâm trầm, đầy lòng nhân ái, thương xót kẻ khó, người cùng. Thủ-Huy thì linh lợi, thông minh. Phùng Tá-Chu là người phong lưu, tiêu sái ; từ cầm, kỳ, thi, họa cho tới xạ, ngự, thư, số không môn gì mà chàng không thông. Chàng lại là người nói năng cẩn trọng. Khác hẳn Thủ-Lý, Tá-Chu ; Tô Trung-Từ to lớn kềnh càng, ăn không bao giờ biết no, suốt ngày đùa vui, tính tình dễ dãi. Phương-Lan thì cực kỳ thông minh. Kinh, sử , tử , tập không loại nào mà nàng không thông. Nàng lại lắm mưu, nhiều mẹo cho nên gần như nàng là quân sư của bẩy người. Phương-Liên thì trái lại với chị, nàng ít nói, nhưng có tài nấu nướng. Kim-Ngân thì võ công cực cao, tính khí cương cường, mỗi hành xử đều lấy hiệp nghĩa, đạo lý làm phương châm. Cho nên khắp trấn Thiên-trường đều gọi nàng là Tiểu Côi-sơn song ưng.
Bà Anh-Hoa chưa biết giải quyết sao, thì thuyền phu vào báo
- Trình sư mẫu, có chiếc thuyền nhỏ áp vào mạn thuyền ta. Dưới thuyền có hai người chắp tay hành lễ, xin được tương kiến với sư phụ, sư mẫu. Xin sư mẫu định liệu.
Anh-Hoa chỉ Hoàng-Anh :
- Chắc là võ lâm đồng đạo. Con ra mời họ vào.
Hoàng-Anh ra ngoài một lát, thì dẫn vào hai ngư nhân, một nam, một nữ. Cả hai đã già, mặc quần áo nâu, đầu đội nón. Mọi người còn đang bỡ ngỡ, thì Phạm Tử-Tuệ đã cung tay :
- Thì ra đại giá thái-tử với quận chúa. Xin mời nhị vị vào trong khoang thuyền.
Hai ngư nhân mở nón ra, quả nhiên là Long-Xưởng với Trang-Hòa.
Phân ngôi chủ khách xong, Long-Xưởng cung tay :
- Để tránh tai mắt của bọn gian, tiểu bối phải hóa trang thế này, rất mong chư vị đại xá cho.
Vương hỏi Tử-Tuệ :
- Vãn bối hóa trang có chỗ nào sơ hở, mà tiền bối nhận ra được.
Tử-Tuệ chỉ vào Lê Thúc-Cẩn :
- Không phải mình tôi, mà Lê sư huynh đây cũng nhận ra. Chúng tôi là thầy thuốc, thì phàm khi gặp người nào thì chúng tôi nhớ mùi mồ hôi của họ. Lần sau gặp lại là nhận ra ngay.
Cử tọa cùng bật cười.
Tự-Hấp ngồi ở ngôi chủ vị tiếp khách. Ông biết Long-Xưởng tới đây ắt có việc quốc gia hệ trọng. Ông giới thiệu cử tọa một lượt rồi lên tiếng :
- Ở đây toàn là người thân tín của chúng tôi. Chúng ta có thể bàn luận quốc sự. Thái-tử yên tâm, việc cơ mật không thể tiết lộ ra ngoài.
Long-Xưởng ngồi ngay ngắn lại.
- Thưa các vị, hôm vãn sinh thăm trang Thiên-trường đã dãi bầy cái chí của vãn sinh, và được các vị đem ra nghị luận. Cuối cùng các vị cùng chia thời gian thực hiện ra làm ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất chuẩn bị. Giai đoạn thứ nhì liên kết với Kim. Giai đoạn thứ ba là ra quân.
- Thái-tử đã thực hiện xong giai đoạn một rồi phải không ?
Tự-Hấp hỏi : Xin thái-tử cho biết chi tiết.
Long-Xưởng đáp trong niềm tự hào :
- Vâng ! Giai đoạn một có ba bước. Bước thứ nhất là dẹp cái triều đình gà mái gáy, thu quyền về một mối. Bước thứ hai là chỉnh bị, thao luyện binh mã. Bước thứ ba là tích trữ lương thảo. Bây giờ ba sự đó đều cụ bị. Vãn sinh tới đây xin các vị cho biết tôn ý về giai đoạn thứ ba là liên kết với Kim.
Nghe Long-Xưởng nói, Trung-Từ ôm gối ngửa mặt lên trời mà cười. Long-Xưởng kinh ngạc hỏi :
- Tô huynh ! Xưởng này nói năng có chỗ nào không phải, khiến Tô huynh phải cười ?
- Tôi không cười vì ngôn từ thái-tử, mà cười vì trong việc chuẩn bị của thái-tử có rất nhiều điều chưa được hoàn hảo.
- Xưởng xin rửa tai nghe lời dạy của Tô huynh.
- Về 12 hiệu Thiên-tử binh, hiệu Kị-binh Phù-Đổng, hiệu Ngưu-binh Hoa-lư, đội võ sĩ Long-biên, Côi-sơn thì có thể coi như ngang với thời Anh-vũ Chiêu-thắng. Nhưng về Thủy-quân thì...
Nghe Trung-Từ nói, Long-Xưởng kinh ngạc :
- Tô huynh nói sao ? Thời Anh-vũ Chiêu-thắng, mình có bốn hạm đội. Nay thì bốn hạm đội vẫn cón đó. Quân số, trang bị tương đối đầy đủ hơn xưa. Không biết có còn chỗ nào khiếm khuyết, xin Tô huynh đừng tiếc công chỉ dạy.
Trung-Từ đứng dậy chỉ vào Phùng Tá-Chu :
- Việc này Tá-Chu rành hơn tôi . Xin Tá-Chu trình với Thái-tử
Long-Xưởng hướng Tá-Chu :
- Nghe nói, đội thuyền đánh cá của Hải-hà sứ nức danh là đội Thần-long trên biển Đông. Xin Hải-hà sứ đừng tiếc công chỉ dậy.
Tá-Chu cung tay :
- Được ! Gã nhà quê này xin vì thái-tử mà nói. Đành rằng số chiến hạm của thái-tử vẫn như xưa. Nhưng thuật hàng hải mỗi ngày một tiến. Xưa, dân chúng chỉ đánh cá bằng những con thuyền bình thường. Hơi gió là lật, hơi sóng là nước tràn vào trong. Bây giờ thương thuyền, ngư thuyền đều cải tiến rất nhiều. Dù bão tố, dù sóng lớn, họ vẫn ra khơi được. Trong khi đó kỹ thuật đóng chiến thuyền không cải tiến. Cách đây ít tháng, một đoàn thuyền Tầu-ô vào biển Thiên-trường ăn cướp, thủy-quân đánh đuổi, chúng kéo buồm bỏ chạy. Thủy-quân đuổi theo, ra khơi sóng lớn, thủy thủy say sóng chóng mặt, chiến thuyền nghiêng ngửa, phải lùi lại. Cũng may lúc ấy ngư thuyền của tôi chạy gần đó, đuổi theo bắt chúng về trao cho Thủy-quân. Tôi nói, thí dụ thôi... Nếu như thủy thủ Tống cũng giỏi thủy tính, cũng dùng thứ thuyền như bọn cướp Tầu-ô, thì thực là phiền.
Nghe Tá-Chu nói, Long-Xưởng trầm tư đưa mắt nhìn Thủ-Huy. Thủ-Huy lắc đầu :
- Đệ đã nhiều lần đề nghị với Thái-úy Tô Hiến-Thành, Binh-bộ thượng-thư Phí Công-Tín rằng phải cải tổ hai điều. Một là nghiên cứu, cải tiến việc đóng chiến thuyền. Hai là việc tuyển mộ thủy-quân. Nhưng hai ông lờ đi.
Tá-Chu tiếp :
- Từ cổ trên các cửa sông trên vịnh Hạ-long, ven các cửa sông, vẫn có hàng triệu dân chài lưới. Họ sống bằng nghề đánh cá. Họ dùng thuyền làm nhà ở, chết thì ném xác xuống biển, đời cha truyền đời con. Cho nên khi thuyền ra khơi, dù sóng gió đến mấy họ vẫn đi đứng trên khoang như ta đi trên bộ, không bao giờ say sóng. Họ bơi, lặn cực giỏi. Thời vua Trưng, Đại-đô đốc là công chúa Gia-Hưng Trần Quốc, mỗi khi tuyển thủy quân, thì tuyển trai tráng trong đám dân chài này. Đến đời vua Ngô, cũng vẫn duy trị lệ ấy. Vào thời đức Thái-tổ, Thái-tông, Khai-Quốc vương ban lệnh rằng : Phàm binh, tướng thủy-quân, chỉ được tuyển sắc dân này. Nhưng từ khi ác nhân Đỗ Anh-Vũ phụ chính, thì bỏ lệ trên, nên thủy-quân mất hết cái tinh hoa cha truyền con nối
Long-Xưởng quyết định :
- Hai lão ông đó tuổi già rồi, nên lười biếng, mà không muốn thay đổi. Mai trở về, ta sẽ xin phụ hoàng ban chỉ trao việc đóng chiến thuyền, tuyển mộ thủy quân cho Đại-đô đốc là Kiến-Ninh vương. Như vậy là xong. Nhưng phải có người kinh nghiệm về việc này. Xưởng xin khuất thân thỉnh Hải-hà sứ ra giúp nước, lĩnh chức phó Đại-đô đốc, giúp Kiến-Ninh vương cải tiến thủy-quân.
Phùng Tá-Chu lắc đầu :
- Tôi vốn lười biếng, thành ra không thể đáp lời Thái-tử được rồi. Hơn nữa, tôi không thích lăn mình vào chốn quan trường.
Long-Xưởng đưa mắt nhìn ông bà Tự-Hấp cầu cứu.
- Vậy thì thế này.
Bà Anh-Hoa nói :
- Thái-tử cứ ban chỉ phong Phùng Tá-Chu làm phó Đại đô-đốc nhưng y không lĩnh bổng. Y sẽ giúp Kiến-Ninh vương chỉ huy các xưởng đóng chiến thuyền, tuyển mộ, huấn luyện thủy-quân.
Long-Xưởng hướng bà Anh-Hoa xá một xá, để tỏ lòng biết ơn.
Ghi chú của thuật giả:
Vịnh Hạ-long có hàng nghìn núi nhỏ, với những hang động thạch nhũ đẹp như tiên cảnh. Có lẽ đây là phong cảnh tú mỹ mà thượng đế ban tặng cho Đại-Việt. Ngày nay (1997) vịnh Hạ-long là nơi thu hút nhiều du khách nhất Đông-dương. Trong vịnh, có sắc dân sống trên thuyền, cha truyền con nối trảiù hàng trăm thế hệ. Mỗi thuyền là một căn hộ, một tiểu gia đình sống. Ban ngày họ ra khơi đánh cá. Chiều lại ghé thuyền vào một hang, một động, một chân núi qua đêm. Vì vậy họ rất giỏi thủy tính. Các thời trước, khi tuyển thủy quân, đều thu những ngư dân này. Vua Trưng thắng trận Đông-hải giết đại đô đốc Hán là Đoàn Chí ; vua Ngô thắng Nam Hán, vua Lê thắng Tống, trên sông Bạch Đằng ; Lý Thường-Kiệt đánh Khâm, Liêm, đều tuyển ngư dân này vào thủy quân. Cho đến nay, loại ngư dân này vẫn tiếp tục cuộc sống lênh đênh giữa cảnh thần tiên Hạ-long.
Xong việc thủy-quân, nghị sự tiếp tục sang việc liên binh với Kim.
Vũ Tử-Mẫn đề nghị :
- Xin thái-tử cho biết việc liên kết với Kim, đã đem ra đình nghị, hay tâu với hoàng-thượng chưa ?
- Chưa !
- Tại sao vậy ?
- Như các vị biết, đa số đại thần trong triều đều muốn cúi đầu thần phục Tống để yên thân. Nếu đem ra đình nghị, thì vụ này tế tác của Tống sẽ biết. Tống sẽ phá kế hoạch của ta, hoặc họ đề phòng trước, e việc ra quân bất lợi.
- Khó đấy !
Tử-Mẫn than :
- Như vậy e sau này bọn mặt dơi, tai chuột lại có cớ gây ra nhiều điều phiền phức.
- ? ! ? ! ? !
- Như thái-tử nói : Hiện các đại thần trong triều, đa số thuộc loại thích ngồi yên hưởng thụ. Vì vậy họ không hưởng ứng việc khởi binh đánh Tống. Tuy rằng, thái-tử nắm quyền bính trong triều. Thái-tử có thể sai sứ liên kết với Kim. Ngặt vì theo luật của triều đình, phàm các việc hệ trọng như vậy, thì phải đem ra đình nghị. Nếu thái-tử tự tiện, như vậy là chuyên quyền, người ta sẽ nói ra, nói vào !
- Vãn sinh định như thế này : Vãn sinh sẽ mật tấu với phụ hoàng, rồi xin người ban mật chỉ. Như vậy, sau này không ai có thể dị nghị.
Anh-Hoa hỏi :
- Thái-tử định sai ai đi sứ Kim ?
- Thưa phu nhân, cứ như cao kiến của phu nhân, thì loại người nào có thể đảm trách công việc khó khăn này ?
- Theo ngu ý của tôi, thì mật sứ cần phải có năm điều. Một là trung, hai là tín, ba là quyền, bốn là bác, năm là dũng. Thiếu một điều, đều không thể sai đi.
- Xin phu nhân giảng rõ hơn.
- Điều kiện đầu tiên, sứ thần phải là người trung, tín. Vì y có trung với thái-tử, lại được thái-tử tín nhiệm, mới giữ được bí mật. Bằng không, thì vụ này lộ ra, bọn mặt dơi tai chuột sẽ dị nghị, phá phách. Hai điều trung, tín phải đi đôi với nhau.
Long-Xưởng gật đầu :
- Đa tạ phu nhân. Còn quyền, bác, dũng ?
- Đường sang Kim xa diệu vợi, không phải mỗi lúc mà gửi tấu chương về triều. Cho nên mật sứ phải được toàn quyền đưa ra điều kiện này, đòi điều kiện kia. Bằng không, cũng vô ích. Vua, quan trong triều đình Kim đều nói tiếng Trung-nguyên. Mật sứ cần phải uyên bác, thông thạo tiếng Hoa, bằng không, dùng thông dịch, thì khó mà diễn đạt ý tưởng. Cuối cùng, Kim là giống người mọi rợ ở phương Bắc, không có văn hóa, chỉ ưa sức mạnh. Vì vậy sai các văn thần đi thì e khó thành công, mà cần sai người có võ công cao, nếu cần, thì hiển lộ bản lĩnh, mới mong thu phục được lòng tin của họ.
Long-Xưởng chỉ vào Thủ-Huy :
- Những điều kiện phu nhân đưa ra, hiện xung quanh vãn bối chỉ có mình Thủ-Huy hội đủ mà thôi. Ngoài ra còn Đoan-Nghi. Vãn bối muốn cử Thủ-Huy với Đoan-Nghi cùng đi. Tuy nhiên, vãn bối cũng xin một hoặc hai vị trong Đại-Việt ngũ tuyệt cùng đi thì hy vọng thành công.
Tự-Hấp hỏi :
- Thái tử muốn ai trong ngũ sư đệ của tôi xung vào sứ đoàn ?
- Người Kim tự hào là giống dân cỡi ngựa, bắn tên giỏi nhất trong 72 bộ tộc ở Bắc Trung-nguyên. Mà tiền bối Trần Tử-Giác nổi danh là đệ nhất nhân của Đại-Việt về thuật kỵ mã cùng bắn tên. Nếu đại hiệp Tự-Giác xung vào sứ đoàn, khi tới Kim, có thể chinh phục được họ. Tiểu bối nghe, người Kim rất dở về y học, chắc trong triều nhiều người bị bệnh nan y. Nếu đại hiệp Phạm Tử-Tuệ xung vào sứ đoàn, tới Kim ta tay tiên trị bệnh cho họ, ta sẽ gây được nhiều cảm tình. Không biết các vị nghĩ sao ?
Tự-Hấp, Anh-Hoa bàn với Đại-Việt ngũ tuyệt một lúc, rồi cùng chấp thuận đề nghị của Long-Xưởng
Long-Xưởng đứng lên chắp tay xá ba xá, gọi là lễ nghi kính hiền, rồi hướng Tự-Hấp, Anh-Hoa :
- Thưa đại hiệp, thưa phu nhân. Vãn bối đã thỉnh mệnh phụ hoàng, mẫu hậu cùng Bùi thần phi về việc trăm năm của nhị đệ với Đoan-Nghi. Như nhị vị biết, từ khi nhị đệ về Thăng-long gặp Đoan-Nghi, thì hai người quấn quýt lấy nhau như chim liền cánh, như cây liền cành. Nhị đệ lại dạy võ, nhất là phát tâm Bồ-đề cứu Đoan-Nghi. Nên phụ hoàng, mẫu hậu cũng như Bùi Thần-phi quyết định gả Đoan-Nghi cho nhị đệ. Hôm nay, vãn bối xin trình với đại hiệp và phu nhân.
Lê Thúc-Cẩn vẫn ước ao sao cho Đoan-Nghi với Thủ-Huy thành vợ chồng. Sợ rằng Tự-Hấp từ chối, nên khi vừa nghe Long-Xưởng nói, ông vội thêm vào mấy câu, để chặn lời nghĩa huynh
- Nhớ lại hơn trăm năm trước, tổ sư Tự-An gả Quốc-mẫu Thanh-Mai cho Quốc-phụ Long-Bồ, hai vị chung lo quốc sự, sử sách muôn đời còn ghi. Cuộc lương duyên Lý-Trần thực là đẹp nhất cổ kim. Bây giờ Đoan-Nghi lại được gả cho Thủ-Huy, hy vọng sử xanh Đại-Việt lại có thêm những trang huy hoàng nữa.
Từ khi được Thụy-Hương cho du ngoạn đỉnh núi Vu-sơn, thì trong lòng người thiếu niên Thủ-Huy phân vân khó tả : Tình yêu vẫn dành cho Đoan-Nghi, mà cái mặn mà, cái thèm muốn lại dồn cả vào người Thụy-Hương. Bây giờ nghe Long-Xưởng nói, rồi Thúc-Cẩn thêm vào, Thủ-Huy ngồi im như pho tượng, trong lòng rối như tơ vò. Công định xin cha mẹ cưới Thụy-Hương cho mình, nhưng khi nhìn đôi mắt sắc như dao của mẹ đang phủ lên người mình, công đành ngồi im.
Bà Anh-Hoa nhìn chồng như để hỏi ý kiến. Tự-Hấp trả lời vợ bằng cái gật đầu. Bà đáp lời Long-Xưởng
- Hoàng-thượng, hoàng-hậu, Thần-phi, thái-tử đã sủng ái Thủ-Huy mà cho công chúa hạ giá, thì vợ chồng chúng tôi xin cung kính lĩnh chỉ. Tuy nhiên, chúng tôi xin trở về Thiên-trường trình lên phụ thân đã.
Long-Xưởng móc trong bọc ra bức thư của đại hiệp Tự-Kinh, mà ông bà Tự-Hấp nhờ trao cho mình
- Đây là thủ bút của lão đại hiệp, xin đại hiệp với phu nhân cùng đọc để biết ý kiến của người.
Tự-Hấp tiếp thư cùng vợ đọc. Thư khá dài. Trong thư Tự-Kinh dặn dò Long-Xưởng ba điều. Một là, phải thực hiện bằng được việc liên kết với Kim. Hai là, tìm cách thải dần bọn quan lại ù lỳ, cam phận khuất thân chịu lệ thuộc Tống. Ba là, xin Long-Xưởng lo việc trăm năm cho Thủ-Huy, Đoan-Nghi.
Từ khi bắt đầu có cháu nội, ngoại, đại hiệp Tự-Kinh trực tiếp nuôi dạy các cháu. Ông cấm các con : Mắng, hay phạt đám trẻ. Nếu chúng có tội, dù là bố, mẹ chúng, phải mách ông, để ông uốn nắn. Ông cho rằng : Dạy trẻ nên dùng tình yêu, không thể, không nên khắt khe. Đến bữa ăn, ông ăn với một đàn cháu. Đi đâu, ông cũng lùa cả đàn cháu cùng đi. Lối giáo dục của ông đem lại kết qủa không ai ngờ nổi. Trẻ con trở thanh linh lợi, thông minh, hoạt bát. Tình cảm giữa cháu với ông nồng nàn, sâu đậm vô tận.
Hơn nửa năm trước, ông quyết định cho Vỵ-xuyên ngũ tiên với Hồng-sơn ngũ tiên cùng qua lại giang hồ hành hiệp. Khi năm cặp nảy sinh tình yêu với nhau, ông đứng ra tác thành cho chúng. Bây giờ, ông lại dài tay, hỏi vợ cho Thủ-Huy. Thế thì dù ông bà Tự-Hấp, dù Thủ-Huy có muốn bàn ra, tán vào, cũng vô ích.
Ông bà Tự-Hấp trao trả thư cho Long-Xưởng :
- Phụ thân tôi vừa là ông nội, vừa là sư phụ của Thủ-Huy. Người với thái-tử cùng kết hợp lương duyên cho Thủ-Huy, thì chúng tôi xin cung kính tuân chỉ.