Quốc danh An-Nam
Niên hiệu Chính-long Bảo-ứng nguyên, đời vua Lý Anh-tông Đại-Việt.
Bên Trung-nguyên nhằm niên hiệu Long-hưng nguyên niên, đời vua Hiếu-tông nhà Nam-Tống 0.
Mùa Xuân tháng giêng, ngày 20 .
Cuối năm trước, triều đình nghị, tâu lên nhà vua xin đổi niên hiệu Đại-Định thành Chính-long Bảo-ứng kể từ mùng một tháng giêng. Nhà vua chuẩn tấu.
Hôm nay, triều đình thiết đại triều taiï điện Càn-nguyên để nghị việc cử sứ thần sang Tống triều cống.
Ba hồi chiêng trống, nhạc tấu bản Nguyên-thọ.
Chính-long Bảo-ứng hoàng đế 0 từ trong cung khoan thai tiến ra, theo sau nhà vua là thái tử Long-Xưởng. Bách quan văn võ chia làm hai hàng quỳ hai bên ngai vàng. Nhà vua bước lên ngai ngồi, lễ quan hô:
- Bình thân.
Bách quan đứng dậy. Thái tử Long-Xưởng ngồi ở chiếc ghế bên trái nhà vua. Phía sau thái-tử có Thái-tử thiếu bảo Trần Thủ-Huy và Thái-tử mật thư tỉnh sự Tăng Khoa. Đây là hai viên quan trẻ nhất của triều đình Chính-long Bảo-ứng. Lại có ba ghế cho ba hoàng tử là Kiến-Ninh vương Long-Minh, lĩnh đại đô đốc thủy quân, Kiến-An vương Long-Đức tổng trấn Thăng-long kiêm tổng lĩnh cấm-quân, Kiến-Tĩnh vương Long-Hòa tổng trấn Thanh-Nghệ. Một ghế khác đặt sau ngai vàng cho công chúa Đoan-Nghi ngồi. Sau công chúa có quận chúa Bùi Trang-Hòa, Từ Thụy-Hương, Đào Như-Như .
Một đại thần bước ra quỳ tâu:
- Thần, Kiểm-hiệu Thái-úy, Đồng-bình chương sự, Trung-vũ quân tiết độ sứ, Phụ-quốc thượng tướng quân, Khu-mật viện sứ, lĩnh Chiêu-văn quan đại học sĩ, giám tu quốc sử, Đăng-châu quốc công, Tô Hiến Thành kính tâu.
Thái-tử Long-Xưởng ban chỉ :
- Xin Thái-úy bình thân.
- Chương trình nghị sự hôm nay gồm có: Cử sứ đoàn sang Tống triều cống, làm lễ mãn tang Thái-sư Lưu Khánh-Đàm và Thái-phó Hoàng Nghĩa-Hiền. Trước hết là việc cử sứ đoàn sang Tống triều cống, việc này xin để Lễ-bộ thượng thư tâu trình.
Một đại thần từ văn ban bước ra quỳ gối:
- Thần Ngô Lý-Tín, Dao-thụ Thái-phó, lĩnh Cần-chính điện đại học sĩ, Lễ-bộ thượng thư, Trường-yên quốc công kính tâu.
Long-Xưởng ban chỉ :
- Xin Thái-phó bình thân.
- Theo lệ, ba năm triều đình phải cử sứ sang Tống tu cống một lần. Năm nay, bệ hạ đã chuẩn tấu cho Lễ-bộ tham tri Trần Quang-Canh làm chánh sứ, Lại-bộ thị lang Vũ Du làm phó sứ. Cống vật gồm có mười hũ nước tại giếng Mỵ-Châu ở Cổ-loa, hai mươi cân hương liệu, mười hũ mật ong, hai trăm con trâu đực, hai trăm con trâu cái, hai trăm con ngựa đầy đủ yên cương, năm con voi lớn, mười thợ mộc, mười thợ sơn, mười thợ nề, mười thầy bói, mười tăng sĩ, trăm võ sĩ. Kể cả chánh, phó sứ, phu khuân vác, quản tượng ... sứ đoàn gồm 120 người. Nhân sự, lễ vật đã đầy đủ, chỉ còn chờ ngày lên đường.
Ghi chú của thuật giả:
Huyền sử nói rằng, sau khi Mỵ-Châu bị vua An-Dương giết chết, thì máu chảy xuống biển, con trai ăn máu đó, nên ngọc trai có mầu sắc đỏ, tím, xanh v.v. Còn Trọng-Thủy trở về Cổ-loa, phần thương tiếc vợ, phần hối hận, y nhảy xuống giếng tự tử. Giếng đó gọi là giếng Trường-hận. Mỗi khi ngọc trai bị mờ, đem rửa bằng nước giếng Trường-hận thì ngọc trở thành óng ánh rất đẹp. Sự việc này, các lái buôn ngọc đồn sang Trung-quốc. Cho nên về sau, mỗi khi Đại-Việt sang cống Trung-quốc, bao giờ cũng cống nước giếng Trường-hận, các bà hoàng hậu, phi tần dùng để rửa ngọc trai.
Hiện dân Hà-nội vẫn dùng nước giếng Trường-hận để rửa ngọc trai.
Xin độc giả kiên nhẫn, giếng Trường-hận vẫn còn tại cố đô Cổ-loa, thường được gọi là giếng Mỵ-Châu. Tháng 8, năm 1997, thuật giả sẽ cùng phái đoàn y khoa châu Âu công tác tại Việt-Nam. Dịp này thuật giả sẽ lấy nước giếng ấy, đem về phân tích xem thành phần nước gồm chất gì, mà có thể làm bóng ngọc trai. Kết quả, sẽ công bố sau.
Nhà vua hỏi quần thần:
- Chư khanh có ý kiến gì không?
Các quan đều im lặng. Thái-tử Thiếu-bảo Trần Thủ-Huy hỏi:
- Thưa đại học sĩ. Đời đức Thái-tổ, Thái-tông, Thánh-tông, Nhân-tông, lễ cống rất giản tiện, chỉ có tính cách tượng trưng, cũng không cống người. Tại sao, và từ bao giờ, lễ vật tăng lên nhiều như vậy? Lại nữa, còn cống cả người? Nếu như ta không cống đủ có được chăng?
Ngô Lý-Tín đưa mắt nhìn Tô Hiến-Thành, ngụ ý để ông này trả lời.
Tô Hiến-Thành đáp :
- Kể từ thời Anh-vũ Chiêu-thắng đời đức Nhân-tông (1077), sau khi Quách Quỳ, Triệu Tiết rút khỏi Đại-Việt, triều đình chủ trương mềm với Tống để được yên. Cho nên từ bấy giờ đến nay, bất cứ Tống yêu sách gì, ta cũng nhượng bộ để dân chúng khỏi bị binh cách, quốc sản khỏi bị thiếu hụt.
Nhà vua ban chỉ:
- Hôm nay có nhiều tân quan chưa am tường điển lệ . Vậy Tô thái-úy hãy nhắc lại những biến cố gần đây giữa Tống, Kim, Liêu, Mông-cổ cho tân quan am tường.
Hiến-Thành tâu tiếp :
- Niên hiệu Thiên-chương Bảo-tự thứ nhì đời vua Thần-tông bản triều (Giáp Dần, 1134), Trương Tuấn, Ngô Giới, Ngô Lân, Hàn Thế-Trung, Nhạc Phi đại phá quân Kim ở Kinh-châu; thế của Tống oai trấn Hoa-hạ. Nhạc Phi gửi hịch đi khắp nơi kêu gọi nghĩa sĩ đứng lên, quyết đánh sang Kim đem hai vua về. Anh hùng hào kiệt tụ dưới cờ đông không biết bao nhiêu mà kể.
Thủ-Huy thở dài :
- Chắc bấy giờ triều đình thấy thế Tống mạnh lên mới sai sứ sang thần phục, tu cống, để rồi họ sai sứ sang phong cho ta! Tống mới lập lại nước, quốc sản khánh kiệt, nên họ đòi ta cống nhiều như vậy; lại nữa nhân tài của họ như lá mùa thu, nên chi mới bắt ta cống người. Có phải thế không?
Trên gương mặt Hiến-Thành hiện ra nét ngượng ngập. Oâng ta trả lời bằng cái gật đầu.
- Tiếc quá!
Long-Xưởng than: Giả như lúc đó ta cho người lên liên binh với Kim Ngột-Truật, chia đôi giang sơn Tống, có phải là điều thống khoái kim cổ không? Hoặc giả, ít ra ta cũng bắt Tống phải công nhận quốc danh ta là Đại-Việt, hai nước trong thế ngang hàng, khỏi phải cúc cung tu cống, để khỏi phải cúi đầu nhận cái tước Giao-chỉ quận vương.
Thấy nét mặt Tô Hiến-Thành hiện ra vẻ không phục, nhà vua hỏi:
- Tô thái bảo! Thái bảo có ý kiến gì về những lời nghị sự của thái tử?
Tô Hiến-Thành tâu:
- Nghe thái-tử luận, thần lấy làm lo lắng vô cùng. Trong tương lai, thái-tử sẽ lên ngôi Cửu-ngũ. Bấy giờ, những gì thái-tử bàn hôm nay, mà đem áp dụng, thần e Đại-Việt ta lại đi vào cái họa như Khai-Quốc vương, như Linh-Nhân hoàng thái hậu đã làm. Chiến tranh diễn ra, người chết như rạ, mà kết quả đâu lại vào đấy.
Thái-tử thiếu-bảo Trần Thủ-Huy, bước ra vái Tô Hiến-Thành :
- Thưa Tô thái-úy! Không biết Thái-úy căn cứ vào đâu mà lại có ngôn từ cho rằng việc làm của Khai-Quốc vương, của Linh-Nhân hoàng thái hậu là sai lầm? Theo như ngu ý của tiểu sinh thì, ngay khi đức Thái-tổ, Thái-tông còn tại thế, mà các người cũng phải công nhận quốc sách giữ nước của Khai-Quốc vương là tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả. Đức Thánh-tông tôn vinh người là Quốc-phụ. Còn công nghiệp của Linh-Nhân hoàng thái hậu với ngài Thái-úy Thường-Kiệt, thực vĩ đại vô cùng. Thế mà Thái-úy cho rằng là cái họa ư?
Tăng Khoa tiếp lời Thủ-Huy :
- Quốc sách giữ nước của Khai-Quốc vương, của Linh-Nhân hoàng thái hậu nói ra thì dài, nhưng có thể tóm lược trong một câu : « Tôi với anh là anh em, là con cháu vua Thần-nông. Anh là anh, tôi là em. Chúng ta có cùng một giòng máu. Chúng ta phải yêu thương nhau, cùng mưu hạnh phúc cho dân. Anh không thể lấy thịt đè người. Nếu anh để tôi yên, thì anh có một Nam phương yên ổn. Còn anh cứ muốn ngồi lên đầu lên cổ tôi, thì anh sẽ bị tôi vật cổ xuống đất. Có thế thôi ».
Hiến-Thành thấy hai đứa trẻ con , mà dám bắt bẻ mình, ông định lên tiếng mắng, nhưng chợt nhớ ra rằng phàm khi thiết đại triều, ai cũng có quyền góp ý ; vả lại ông cũng ớn võ công của Thủ-Huy, Tăng Khoa. Ông tái mặt, chữa:
- Này Trần thiếu-bảo, Tăng tỉnh sự. Tôi chưa nói hết ý. Tôi muốn nói: Tài trí chúng ta không bằng Khai-Quốc vương, uy đức chúng ta không bằng Linh-Nhân hoàng thái hậu; quốc sản, binh lực không bằng thời vua Thái-tổ, Thái-tông, Thánh-tông, Nhân-tông, mà chúng ta muốn làm những việc như Khai-Quốc vương, như Linh-Nhân hoàng thái hậu, thì e là mối họa lớn mà thôi.
Hiến-Thành muốn thoát ra khỏi lời buộc tội của Trần Thủ-Huy, ông ta hỏi thái tử:
- Thần muốn Thái-tử cho biết, đối vối việc tu cống này ta có nên giữ nguyên hay thay đổi?
Long-Xưởng hỏi Thủ-Huy :
- Nhị đệ nghĩ sao ?
Thủ-Huy chắp tay :
- Ta nên thay đổi một phần, và giữ lại một phần.
Nhà vua khuyến khích :
- Khanh nói đổi là đổi những gì ? Giữ là giữ những gì ?
- Tâu : Lúc này Tống yếu hơn thời Vương An-Thạch làm tể tướng. Họ chỉ còn phân nửa giang sơn, Kim ở phía Bắc đang mạnh. Ta lợi dụng cái thế ấy, mà bắt ép họ. Mấy năm trước, ta đã khám phá ra Tống gửi mật sứ sang mưu chiếm nước ta. Triều đình nghị rằng ta không thể giết chúng, nên đã cho Lưu Kỳ, Mao Khiêm cùng một số tùy tòng về Tống để dằn mặt họ. Nhưng Lưu Kỳ, Mao Khiêm sợ rằng không làm tròn sứ mạng, sẽ bị giết nên chúng trốn biệt. Còn bọn Hoa-sơn thì ta vẫn giam lỏng tại bãi Ngọc-thụy. Từ đó đến giờ, Tống không biết tin tức của mật sứ. Họ không dám hỏi ta, vì nếu hỏi thì hỏi sao ? Không lẽ lậy ông tôi ở bụi này ?
Triều đình cùng gật đầu công nhận lý của Thủ-Huy thực chính xác.
- Bây giờ ta sai sứ sang cho họ biết mọi chi tiết về vụ họ gửi mật sứ sang, ta khám phá ra, và bắt giam bấy lâu. Sứ ta hỏi : Tại sao ta vẫn tiến cống, mà họ lại gây hấn ? Sứ ta bỏ lửng không đặt điều kiện gì hết. Đó là ta mềm với họ.
Tể tướng Đỗ An-Di hỏi :
- Tiểu huynh đệ, nếu như họ chịu lỗi thì sao ?
- Ta vẫn mềm. Ta hứa trả hết tù nhân. Rồi ta cứng : Ta đòi họ phải chấp nhận hai điều. Một là, công nhận quốc danh Đại-Việt, chứ không được coi ta là quận Giao-chỉ nữa. Tuy nhiên ta vẫn nhún, ta chịu nhận sắc phong. Khi họ sai sứ sang phong cho ta, thì phải phong ngay là Đại-Việt hoàng đế. Chứ không thể phong là Giao-chỉ quận vương. Hai là, về việc tu cống. Ta nửa mềm, nửa cứng. Ta biết rằng Tống đã nghị hòa với Kim, chịu tiến cống xưng thần với Kim, thế họ tương đối mạnh ... việc ta tu cống lâu riết rồi thành lệ, nếu ta hủy bỏ hoàn toàn thì e bọn mặt dơi tai chuột trong triều Tống sẽ bàn luận rắc rối. Nhưng ta có thể thay đổi, đó là phần cứng. Ta chỉ cống phẩm vật thôi, không cống người, cũng không cống voi, ngựa, trâu nữa. Sứ ta sang, phải tỏ ra cứng rắn, bắt họ công nhận quốc danh. Khi Tống công nhận quốc danh rồi, ít năm sau, ta chỉnh bị binh mã cho hùng cường, ta sẽ tiến tới bỏ tu cống . Hằng năm, hai nước chỉ sai sứ sang thông hiếu mà thôi. Mặt khác, ta liên binh với Kim, hai bên cùng ra binh. Thành công, tiến lên ta có thể đòi lại cố thổ thời vua An-Dương, vua Trưng. Hèn ra, ta cũng quay mặt lên Bắc nói truyện với Tống theo thế mạnh.
Thủ-Huy nhìn Tô Hiến-Thành :
- Từ khi hoàng thượng dẹp được cái triều đình gà mái gáy đến nay đã bốn năm, uy quyền tái lập, quốc sản dư thừa. Mười hai hiệu Thiên-tử binh được thao luyện, được vũ trang hùng mạnh như xưa. Các hiệu binh địa phương, Hoàng-nam các xã cũng được huấn luyện khi hữu sự có thể giữ nổi địa phương mình. Bốn hạm đội khí thế không thua thời đức Thánh-tông, Nhân-tông. Họ gờm ta nhất là hiệu Kị-binh Phù-Đổng, hiệu Ngưu-binh Hoa-lư, hai đội võ sĩ Long-biên và Côi-sơn. Việc ta làm ồn ào như vậy, ắt tế-tác đã tâu về cho Tống triều. Nhất định họ gờm ta. Khi ta sai sứ sang Tống thì ta đem bốn hạm đội lên vùng Tiên-yên, Đồn-sơn thao luyện. Lại di chuyển mười hai hiệu Thiên-tử binh, hiệu Kị-binh Phù-Đổng, Ngưu-binh Hoa-lư lên Bắc-cương để hù họ : Tôi áp dụng tiền lễ hậu binh. Nếu như anh chịu điều kiện của tôi đưa ra thì thôi. Bằng như anh không chịu, tôi sẽ giết hết bọn sứ đoàn rồi truyền hịch cho thiên hạ biết cái tội gây hấn của các anh. Sau đó tôi kết thân với Kim, hai bên cùng ra quân. Như vậy, nhất định Tống phải thỏa mãn những điều ta đòi hỏi.
Thái-úy Tô Hiến-Thành tỏ vẻ không tin tưởng :
- Tâu bệ hạ, Tống đế với tể tướng Tần Cối, vốn chủ hòa với Kim. Tống đế nhường ngôi cho cháu, lên làm Thái-thượng hoàng, Long-Hưng hoàng đế chỉ là mộc vị. Tần Cối chết đã bẩy năm. Nhưng chính sách chủ hòa với Kim, ép các nước nhỏ vẫn không đổi. Bằng cớ la Tống triều mới truy phong cho Cối làm Thân-vương. Con Cối là Hy được phong tước công, hàm Thiếu-sư, lĩnh Quảng-Nam tiết độ sứ. Cứ như tin của Khu-mật viện thì hiện giữa Tống với Kim vô sự. Binh lực của Tống rất mạnh. Từ trước đến nay, Tống vẫn coi các nước nhỏ xung quanh là quận huyện của họ. Họ bị Kim đòi vàng, bạc, lụa là nhiều quá, công khố của họ không cung ứng nổi, họ mới bắt các nước nhỏ tu cống nhiều. Nếu nay ta không chịu cống cho họ, hơn nữa lại đòi tách ra thành một nước riêng, thì thần quyết họ không chịu. Bởi họ nhường ta, thì mấy chục nước khác cũng sẽ bắt chước, bấy giờ vua Tống không còn địa vị Thiên-tử nữa, các nước nhỏ sẽ cùng đánh chiếm Tống.
Ông nói với Thủ-Huy :
- Phàm vật cùng tất phản, uốn quá hóa cong. Ta đang là một quận huyện của Tống, nay bỗng dưng bật dậy mạnh quá, Tống sẽ đem binh đánh ta. Chiến tranh thực khó tránh.
Kiến-Ninh vương Long-Minh vốn ít nói, đây là lần thứ nhì vương lên tiếng :
- Thưa Thái-úy, không lẽ Đại-Việt ta cứ phải cúi đầu lạy người mãi sao ? Không lẽ ta sinh làm người Việt, mà cứ để cho người Hoa coi như man di mãi sao ? Kể từ đời đức Nhân-tông đến giờ, đây là thời gian ta mạnh nhất, Tống yếu nhất, mà ta không gỡ cái ách trên cổ, thì biết đến bao giờ gỡ cho nổi ?
Công-chúa Đoan-Nghi đứng dậy :
- Tâu phụ hoàng.
Thấy nhà vua ngơ ngơ, ngác ngác không có chủ trương gì, Long-Xưởng dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai phụ hoàng :
- Xin phụ hoàng tuyên chỉ theo thần nhi.
Rồi Long-Xưởng nói, nhà vua nói theo. Nhà vua dùng ngôn từ bình dân :
- Con gái yêu của bố. Con là Tiên-Dung của triều Hồng-bàng ; là tổ cô Bình-Dương, Kim-Thành, Trường-Ninh thời đức Thái-tông ; là Thiên-Thành, Động-Thiên, Thiên-Ninh thời đức Thánh-tông. Lời con tâu chắc là không thua các tổ cô. Con hãy ngồi xuống mà tâu.
Quần thần ngạc nhiên về lời nói văn hoa, tỏ ra yêu thương con gái trước triều đình của nhà vua, là điều hiếm hoi.
- Tâu phụ hoàng, ta với Trung-nguyên luôn ở vào thế cả hai không thể cùng đứng. Họ chỉ dám ra quân khi họ kéo được Chiêm đánh sau lưng ta. Nay Chiêm quy phục ta, thì muôn ngàn lần họ không dám đem binh sang gay hấn.
Kiến-An vương Long-Đức là người nổi tiếng nhiều mưu mẹo, vương tâu :
- Theo thần nhi, thì Tống hiện có ba điều nhược, họ không dám ra quân. Ví dù họ có ra quân, thì cũng không địch lại ta.
- Ba điều nhược đó là gì ?
Nhà vua hỏi.
- Một là, sau khi vua Tống nghe lời tể tướng Tần Cối, chủ hòa, nhường cả một vùng phía Bắc vốn là cố thổ của Trung-nguyên cho Kim. Dân chúng vùng Kim chiếm sống an vui, không bị nạn tham quan hà hiếp. Binh bị không phiền hà, trai không bị xung quân, nên việc nông tang phồn thịnh, ấm no. Suốt mấy chục năm qua, họ không nổi dậy chống Kim. Bởi họ nghĩ : Sống với Kim hạnh phúc hơn sống với Tống. Dân chúng hiện sống trong vùng cai trị của Tống, lại mong cho Kim chiếm vùng đất mình ở. Đó là nhược điểm thứ nhất của Tống.
Triều đình cùng công nhận lý giải của vương.
- Hai là, vua Tống nhờ Trường-giang ngũ hùng, nhờ võ lâm mà giữ được nước. Giữa lúc võ lâm, Trường-giang ngũ hùng tiến quân lên tới Chu-tiên trấn, chỉ dơ tay ra là đuổi Kim khỏi Biện-kinh, khôi phục giang sơn. Thế mà nhà vua bắt rút quân, rồi giết cha con Nhạc Phi. Trương Tuấn, Ngô Lân, Hàn Thế-Trung bị đem về triều làm tướng không quân, bị khinh khi, bị làm nhục. Ngô Giới phải giả chết. Gần đây Trương Tuấn cũng bị giết. Võ lâm, tướng sĩ đều chán nản. Nếu không có Kim ép bên cạnh, họ đã nổi dậy. Tống triều gì mà không biết điều đó ? Thần nhi quyết họ không dám ra quân đánh ta. Đó là điểm nhược thứ nhì của Tống.
Chư đại thần lại cùng gật đầu công nhận lý của Kiến-An vương.
- Ba là, Tống có lỗi với ta. Từ khi triều Nam Tống trung hưng ta luôn gửi sứ sang tu cống đầy đủ, thế mà họ gửi mật sứ sang mưu chiếm nước ta. Nếu nay họ không chịu yêu sách của ta, mà ta công bố điều đó, thì Tống không có cớ gì đem quân sang ta. Ngược lại ta lại có chính nghĩa. Đó là điều nhược thứ ba của Tống.
Nhà vua lại hỏi tể tướng Đỗ An-Di :
- Khanh là Tể-tướng, ý khanh thế nào ?
- Tâu bệ hạ, Tô Thái-úy là người cầm quân, thì việc này người biết nhiều hơn thần. Thái-tử, công chúa đều là những bậc trí tuệ siêu phàm. Thành ra thần không còn gì để luận nữa.
Thủ-Huy chửi thầm :
- Thằng cha này là tên có bản lĩnh làm quan cao nhất triều đình đây. Triều Lý, từ sau khi vua Nhân-tông băng đến giờ toàn một bọn ù lỳ, lo hưởng thụ. Ta vốn không muốn làm quan, mà muốn vì sự nghiệp Đại-Việt, ta phải can đảm. Y tránh né, thì ta phải làm tới.
Hầu tâu :
- Xin bệ hạ cho tất cả các đaiï thần cùng phát biểu.
Triều đình nghị luận một lúc thì, hầu hết là ý kiến không đứng giữa, không quyết định. Chỉ có Tô Hiến-Thành, Phí Công-Tín, Lý Kính-Tu, Trần Trung-Tá, Ngô Lý-Tín, Đàm Dĩ-Mông muốn nhún với Tống. Còn Long-Xưởng, Long-Minh, Long-Đức, Long-Hòa, Đoan-Nghi, Lý Long-Căn, Bùi Kinh-An, Lưu Khánh-Bình, Trần Thủ-Huy, Tăng Quốc, Tăng Khoa, Vũ Tán-Đường đều muốn cứng với Tống.
Nhà vua tuyên chỉ thuận theo ý kiến Thủ-Huy. Triều đình xin nhà vua giao toàn quyền cho thái-tử Long-Xưởng đảm trách vấn đề gai góc này. Việc điều Thiên-tử binh, dàn ra Bắc-biên trao cho cho Trung-nghĩa thượng tướng quân Trần Thủ-Huy. Việc dàn thủy quân ở lãnh hải thì trao cho Kiến-Ninh vương Long-Minh. Việc tiếp tế lương thảo thì trao cho Kiến-An vương Long-Đức, Kiến-Tĩnh vương Long-Hòa.
Lại tuyên chỉ cho Lễ-bộ thượng thư Ngô Lý-Tín:
- Việc tu cống coi như xong. Bây giờ tới vụ giỗ đoạn tang hai đại thần là Lưu thái sư và Hoàng thái phó. Khanh đã chuẩn bị xong chửa ?
- Tâu, chỉ còn hơn tháng nữa, thì tới ngày giỗ đoạn tang Lưu thái sư, Hoàng thái phó. Thần xin bệ hạ chuẩn gia phong chức tước cho hai đại công thần, nhiều công với Xã-tắc.
Nhà vua hỏi Thái-tử Long-Xưởng :
- Thần nhi định gì ?
- Tâu phụ hoàng, khi hai vị từ trần, thì tước là quốc công. Bây giờ xin gia phong lên tước quận vương, và thêm mỹ tự. Lưu thái sư xin phong là Minh-văn, Trung-thứ, Tráng-tiết quận vương. Hoàng thái phó xin phong là Cung-nhượng, Thuần-mẫn, Tuyên-đức quận vương. Truyền lấy công khố xây lăng thực lớn, trên khắc bia kể lại công nghiệp. Như vậy, mới tỏ cho thứ dân biết rằng triều đình luôn lao tưởng đến các bậc công thần.
- Trẫm chuẩn tấu.
Thái-tử hô :
- Bãi triều.
Huyền sử Đại-Việt kể rằng :
« ...Sau buổi thiết triều nghị sự việc tu cống Tống, thì hơn tháng sau, sứ đoàn Đại-Việt lên đường. Kể cả chánh, phó sứ, chỉ có hai mươi người. Cống phẩm gồm hương liệu, một bộ trà bằng sứ bịt bạc, một cái án thư bằng gỗ trầm, hai cái tráp bằng gỗ quế.
Khi sứ đoàn khởi hành, thì cũng là lúc Trung-nghĩa thượng tướng quân Trần Thủ-Huy điều mười hai hiệu Thiên-tử binh, hiệu kị binh Phù-Đổng, hiệu binh trâu Hoa-lư dàn ra biên giới Hoa-Việt. Trong khi đó Kiến-Ninh vương dàn các hạm đội Thần-phù, Aâu-Cơ, Bạch-đằng, Động-đình lên Đồn-sơn. Thủy bộ phối hợp thao luyện liên tiếp trong ba tháng. Cứ mỗi lần dân Tống ở các vùng Quảng-châu, Khâm-châu, Liêm-châu, thấy Thủy-quân Đại-Việt trương buồm, dàn hàng ngoài khơi, là già trẻ, lớn bé la hoảng, bồng bế nhau chạy xa vùng bờ biển. Còn dân Tống ở vùng Ung-châu, thấy Thiên-tử binh dàn hàng tập trận, thì kinh hoảng, bỏ chạy. Binh tướng thì vào trong thành đóng cửa lại chuẩn bị tác chiến. Nhưng quân Việt chỉ tiến tới biên giới, rồi rút về.
Các viên trấn thủ Ung, Liêm, Khâm, Quảng-châu tưởng quân Việt sắp đánh tràn qua, vội vã cho ngựa trạm phi bất kể ngày đêm về kinh đô Lâm-an cáo cấp.
Từ mấy năm nay, Khu-mật viện Tống triều được tế-tác báo cho biết rằng Đại-Việt đã chỉnh đốn lại chính sự như xưa, binh lực cực hùng mạnh, dường như có ý dòm ngó Nam thùy.
Tin quân Việt thao diễn ở vùng biên giới cáo cấp về tới Tống triều, thì cũng đúng lúc sứ đoàn Đại-Việt đến tu cống. Phó tể tướng Ngu Doãn-Văn cho mời riêng chánh sứ vào tư dinh đãi tiệc, mục đích thăm dò thực trạng Đại-Việt. Qua cuộc mạn đàm, qua tin tức tế tác Tống báo về hơn năm qua...với con người thông minh, mẫn cán như Ngu, ông ta nắm ngay được tình hình : Rằng kẻ nắm thực quyền bên Đại-Việt là thái-tử Lý Long-Xưởng, với bọn đại thần trẻ, chứ không phải nhà vua với tể tướng như bên Tống. Rằng binh lực Đại-Việt hùng mạnh, quốc sản Đại-Việt súc tích như thời vua Thánh-tông, Nhân-tông. Rằng cuộc thao diễn chỉ là đòn gây áp lực. Tất cả nói lên : Tống phải biết lỗi trong vụ gửi mật sứ Ngô Giới, Lưu Kỳ sang, lỗi đó phải chuộc bằng cách công nhận quốc danh Đại-Việt, và nhận tu cống tượng trưng. Bằng không thì cuộc diễn quân sẽ là cuộc Bắc-phạt, Tống không thể đương nổi. Ngay đêm đó, Ngu Doãn-Văn nhập cung mật tấu với Long-Hưng hoàng đế 0, rồi cả hai đưa ra quyết định : Nếu thuận theo yêu sách của phía Việt, thì e bọn triều thần chống đối lôi thôi. Còn như không thuận, thì Tống không đương nổi Tây-hạ, Đại-Việt với Kim một lúc. Vậy, nên thỏa mãn tất cả yêu sách của Đại-Việt, tuy nhiên đổi quốc danh thành An-nam, tức là một nước hiền lành ở phương Nam.
Sau đó Tống gửi sứ sang phong Chính-long Bảo-ứng hoàng đế làm An-Nam quốc vương. Triều đình Đại-Việt trao trả toàn bộ bọn Ngô Lân, cho theo sứ về Tống, cùng triệt thoái thủy-bộ binh từ Bắc-cương. Nhưng sứ Tống không chịu, họ đòi phải trả đạo sư Lạc-Nhạn và Vân-Đài tiên tử. Triều đình trả lời rằng hai người này trốn đi, Khu-mật viện truy tầm, nhưng không ra tung tích.
Mọi công việc hoàn thành tốt đẹp. Nhà vua truyền thiết đai triều để nghị sự lao tưởng những người có công. Công đầu là Trung-nghĩa thượng tướng quân Trần Thủ-Huy. Hàm Thái-tử thiếu bảo được thăng lên Thiếu-bảo, thêm mỹ tự đặc tiến. Tước Thọ-xương hầu được thăng hàm Côi-sơn công. Chức Càn-nguyên điện đại học sĩ, Trung-nghĩa thượng tướng quân vẫn giữ nguyên.Bùi Kinh-An được thăng từ tước bá lên tước hầu, trước giữ Lại-bộ tham tri, nay giữ chức Công-bộ thượng thư. Lưu Khánh-Bình, Tăng Quốc được thăng từ tước hầu lên tước công. Tăng Khoa được thăng từ tước bá lên tước hầu. Các quan văn võ tham dự vào việc thao diễn thủy, bộ binh đều được thăng lên một chức.
Tha thuế cho dân nửa năm, truyền toàn quốc ăn mừng ».
Ghi chú của thuật giả:
ĐVSKTT, VSL, KHĐVSTGCM đều chép rằng : Niên-hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ nhì 0, Tống phong cho vua làm An-Nam quốc vương, đổi quận Giao-chỉ thành An-Nam quốc.
Chỉ độc giả Anh-hùng Đông-a mới biết rõ chi tiết, uyên nguyên ai là người khởi ra vụ đòi Tống phải chịu nhường bước. Từ bấy giờ, và đến nay, Trung-quốc không bao giờ còn coi Đại-Việt là quận Giao-chỉ nữa. Do vậy các triều Nguyên, Minh, Thanh, cả Trung-hoa dân quốc, Cộng-hòa nhân dân Trung-quốc... phải coi Đại-Việt ta là một nước. Tuy Nguyên, Minh, Thanh phong cho Đại-Việt các tên khác nhau như An-Nam, Việt-Nam. Gần đây nhất, Đặng Tiểu-Bình dạy Việt-Nam bài học , làm như là thầy giáo dùng thước kẻ gõ lên đầu học trò. Bình quên mất rằng, người Việt có thể cãi nhau, chém nhau, giết nhau ; nhưng khi phải đối phó với ngoại xâm, thì họ lại bỏ hết tỵ hiềm, mà giữ nước. Thành ra cái thước mà thầy giáo họ Đặng gõ xuống đầu học trò, bị dội ngược lên khiến mặt ông thầy sưng vều, hút nữa thì mù mắt.
Đắc thắng bằng ngoại giao, bằng áp lực quân sự, thế nhưng quốc sách của Long-Xưởng, Thủ-Huy hãy còn một phần tối quan trọng : Liên kết với Kim để ép Tống, hoặc ít ra, Việt vẫn bang giao với Kim, Tống trong cái thế ngang hàng, không phải nhận sắc phong, không phải tu cống.
Hôm ấy Long-Xưởng vào cung vấn an hoàng-hậu thì gặp Thục-phi Đỗ Thụy-Châu. Đối với các bà phi của phụ Hoàng, Long-Xưởng luôn kính trọng như mẹ, dù các bà không lớn tuổi hơn Long-Xưởng làm bao. Mặt khác, Thụy-Châu là em của Tể-tướng Đỗ An-Di. An-Di không theo phe hưởng thụ của Tô Hiến-Thành, hơi nghiêng theo chủ trương phục hồi hào quang Đại-Việt của Long-Xưởng. Thục phi mới nhập cung không lâu, nhưng được phụ hoàng sủng ái, vì nhan sắc, vì ôn nhu văn nhã. Sau khi nghe Long-Xưởng tâu lên hoàng-hậu những cải cách mới về nông nghiệp, Thục-phi tâu với hoàng-hậu :
- Luật của bản triều định rằng, khi một hoàng tử đến tuổi mười ba, thì hoàng-hậu sẽ tuyển phi tần cho. Năm nay thái-tử đã mười tám rồi, mà sao hoàng-hậu chưa tuyển vương phi cho thái-tử ? Trong khi đó ba em của thái-tử là Kiến-Ninh vương, Kiến-An vương, Kiến-Tĩnh vương, người nào cũng có vương phi rồi.
Hoàng-hậu kéo tai con :
- Con có nghe phi quở không ? Mẹ thấy Bùi Trang-Hòa với con ríu rít bên nhau như đôi chim. Mẹ định ban chỉ phong Trang-Hòa làm vương phi. Con nghĩ sao ?
- Dạ, con xin tuân chỉ mẫu hậu.
- Còn việc con tâu xin cho Đoan-Nghi hạ giá với Thủ-Huy, mẹ đã tâu với phụ hoàng, và báo cho Bùi Thần-phi biết rồi. Nội trong mấy hôm nữa chỉ dụ sẽ ban ra.
- Dạ.
Đỗ Thục-phi mỉm cười :
- Tôi nghe Ôn-huệ Nhu-mẫn quận chúa Từ Thụy-Hương trong Đông-cung là người có tay tiên, hóa phép ra những món ăn tuyệt thế. Tôi muốn thái-tử cho tôi mượn Thụy-Hương ít lâu, để dạy ngự trù, làm yến dâng lên hoàng thượng. Mong thái-tử không nỡ từ chối .
- Phi dạy quá lời, phàm làm con, thì có gì quý nhất phải kính dâng lên phụ mẫu. Phi đã ban chỉ, thì thần nhi xin đưa Thụy-Hương vào hầu phi ngay.
Rời Hoàng-thành, Long-Xưởng về tới Ngự-thư phòng, thì Như-Như báo :
- Đại ca ! Có khách phương xa tới .
- Là ? ? ?
- Đại-hiệp Trần Tự-Hấp với phu nhân. Có cả đại hiệp Lê Thúc-Cẩn, Vỵ-xuyên ngũ tiên, Thần-nông sứ Thủ-Lý, Hải-hà sứ Phùng Tá-Chu, Khai-hoang sứ Tô Trung-Từ, và cô Kim-Ngân. Quý khách đang đợi ở cổng cung.
- Truyền đội nhạc, dàn ra đón khách. Nhị đệ đâu ?
- Sau khi thiết triều, nhị sư huynh trở về phòng. Người bị lên cơn đau, đang đóng cửa vận công chống độc.
- Chúng ta cùng ra đón khách.
Đại-Việt thất tiên đầy đủ, duy Thủ-Huy vắng mặt. Sáu người ra cổng. Đội nhạc Đông-cung tấu bản Anh-hùng tri ngộ . Long-Xưởng cung tay :
- Kẻ bạc đức là Lý Long-Xưởng, cùng các sư đệ, sư muội kính chào quý vị tôn sư quang lâm. Rất mong được chư vị dạy cho những lời vàng ngọc.
Tự-Hấp móc trong túi ra một bao thư niêm phong kín trao cho Long-Xưởng :
- Khi lâm hành, phụ thân chúng tôi trao cho chúng tôi bức thư này, để thay người, đệ trình lên thái-tử.
Long-Xưởng cung cung, kính kính tiếp thư, rồi mở ra đọc. Đọc xong, vương gấp lại, bỏ vào túi.
Bà Anh-Hoa chỉ Lê Thúc-Cẩn:
- Khải thái-tử, chúng tôi về đây để xem bệnh tình Thủ-Huy ra sao. Không dám làm phiền đại giá thái-tử nhiều.
Mọi người vào sảnh đường.
Lễ nghi tất.
Trung-Tĩnh nương, Tín-Hoa nương cùng điều khiển đám cung nga dâng trà, hoa quả, rồi hai người khoanh tay đứng hầu. Tín-Hoa nương gặp lại Thủ-Lý, mặt nàng tươi hẳn lên. Thủ-Lý phóng con mắt nhìn hai tỳ nữ bất hạnh, nội công chàng cực cao, khiến hai tỳ nữ vội cúi đầu xuống. Bất giác Thủ-Lý cau mày lại, rồi lắc đầu.
Ngay từ đầu không thấy Thủ-Huy, ông bà Trần Tự-Hấp cũng đoán ra rằng con mình gặp điều không may rồi. Xót con, bà Bùi Anh-Hoa không kiên nhẫn thêm được nữa. Bà hỏi :
- Khải điện hạ, không biết cháu Thủ-Huy nhà tôi đâu ?
- Thưa bá mẫu, nhị đệ không được khỏe, hiện đang ở trong tẩm phòng.
Thúc-Cẩn trình bầy :
- Chúng tôi về đây do Trần sư huynh gọi. Tôi muốn đươc gặp Thủ-Huy. Bệnh trạng y ra sao ?
Công-chúa Đoan-Nghi thuật lại các biến cố từ lúc đại chiến ở điện Uy-viễn, cho tới khi Thủ-Huy hút độc cứu mình. Rồi trong lần du ngoạn Thăng-long, Thủ-Huy gặp Trí-Thiền, được ông dùng Thiền-công chữa bệnh cho. Từ bấy giờ đến giờ, mỗi tháng Thủ-Huy chỉ bị lên cơn một lần. Cái thời hạn ba năm mà Trí-Thiền đưa ra rằng Thủ-Huy sống hay chết mới quyết được, thì chỉ còn có tám ngày nữa mà thôi.
Không hổ là đại tôn sư, Tự-Hấp nghe con mình chỉ còn sống được có tám ngày nữa, ông vẫn bình tĩnh :
- Xin điện hạ cho chúng tôi thăm Thủ-Huy.
Long-Xưởng nói với Thụy-Hương :
- Tẩm phòng của nhị đệ hơi nhỏ, không đủ lễ tiếp đại giá quý khách. Vậy ngũ muội vào vực nhị đệ ra đây .
Thụy-Hương vừa ứng lời đứng dậy, thì Thủ-Huy đã bước vào, công reo lên :
- Bố, mẹ, Lê sư thúc ! Kìa cả năm bà la sát cũng về đấy à ?
Chợt thấy ông anh Thủ-Lý, Thủ-Huy cảm thấy lạnh lưng. Nhưng lại có cả Trung-Từ, Tá-Chu, Kim-Ngân thì lòng bừng lên niềm vui, ấm áp. Công reo :
- Anh ! Em đi khắp nước, đâu đâu cũng thấy bán gia súc, hải sản, thủy sản, gạo tám của trại Thần-nông. Đức của anh cao thực. Em lại nghe nói, anh sắp lấy vợ, em mừng cho anh.
- Em lầm rồi, anh không có quyền chọn vợ, lấy vợ, mọi sự do mẹ định đoạt hết.
Thủ-Huy nắm lấy tay Trung-Từ, Tá-Chu :
- Mình nhớ hai cậu chết đi được. Dù bận gì thì bận, thỉnh thoảng hai cậu cũng nên ghé Thăng-long chơi với tớ ít ngày. Nghe quan tổng trấn Thiên-trường tâu về triều rằng, hồi này Hải-hà sứ Tá-Chu chế ra loại thuyền đánh cá mới, khi gặp bão không bị lật. Số thuyền đánh cá của các trang Thần-nông lên đến mấy nghìn. Tôm cá ê hề, dân chúng được mua giá rẻ. Mình phục cậu quá. Còn Trung-Từ, thì phá hoang phân nửa rừng rồi, thú dữ không còn hại dân, mỗi đầu người được một mẫu ruộng. Thực đúng là đạo nuôi dân của người quân tử.
- Hừ ! Ông anh làm quan rồi quên mất đứa em gái này hẳn.
Kim-Ngân bẹo tai anh nói nhỏ : Nguy lắm !Sắp bị lấy vợ rồi, nói cho mà biết.
- Anh làm sao mà quên cô em gái hiền lành như cọp, dịu dàng như gấu, và nhỏ nhẹ như cá sấu của anh.
Nói rồi công rút trong bọc ra một cái hộp bằng bạc, trên có khắc hình hai con chim ưng bay qua ngọn núi, trao cho em :
- Nghe nói, em xưng là Tiểu Côi-sơn song ưng. Nên anh sai thợ khắc cái hộp này tặng em đây.
Kim-Ngân mở hộp ra, trong hộp có cặp vòng hồng ngọc đỏ tươi. Nàng mỉm cười, tay nắm lấy cánh tay anh :
- Có thế chứ ! Ông anh phải như vậy chứ !
Anh em nhà họ Trần thường không úy kỵ việc thân mật với nhau. Thủ-Huy vuốt tóc em gái, nắm tay Kim-Ngân rồi nói nhỏ :
- Cô em sư tử của anh càng lớn càng xinh đẹp. Bao giờ thì lấy chồng ?
Bà Anh-Hoa nắm tay Thủ-Huy kéo lại ngồi bên cạnh. Bà nói bằng giọng thương cảm :
- Con bị lên cơn có đau lắm không ?
- Đau gì thì đau, nhưng thấy mẹ thì con hết đau ngay.
- Con ngồi đây để Lê sư thúc thăm bệnh, rồi điều trị cho.
Thủ-Huy ngồi ngay ngắn lại. Lê Thúc-Cẩn nắm lấy tay hầu chẩn mạch. Mọi người hồi hộp theo dõi. Khi thì ông nhăn mặt lại, khi thì ông mở to mắt ra, khi thì ông thở dài. Cuối cùng ông lắc đầu :
- Cháu đã gặp đại sư Trí-Thiền ba năm trước phải không?
- Vâng.
- Cái ông Á-hòa-thượng này tuyệt tích mười năm nay. Ai cũng tưởng ông ta viên tịch rồi. Nào ngờ ông ta vẫn luẩn quẩn ở Thăng-long. Cháu gặp ông ta trong trường hợp nào ? Tại đâu ?
Thủ-Huy thuật lại, không thiếu chi tiết nào. Lê Thúc-Cẩn lắc đầu :
- Một trẻ không biết y học, bướng bỉnh ra tay chữa bệnh cho người, để đến nỗi chính mình mang họa. Mang họa rồi, nghĩ rằng đằng nào mình cũng chết, lại ra tay hút hết nọc độc cứu người, đến nỗi đã bước một chân vào trong quan tài. Tuy nhiên, bệnh cũng còn đôi chút hy vọng. Nào ngờ lại gặp một lão hòa thượng. Cái lão hòa thượng này, nội công cao, thì cao thực. Cao đến trình độ không biết đâu mà lường. Nhưng lại chẳng biết một chút y lý. Lão cứ tưởng rằng nội công mình cao là giúp người trị được bệnh. Nào ngờ lại làm cho bệnh trở thành tuyệt vọng.
- ? ! ! ? !
- Đúng ra, nếu Trí-Thiền không can thiệp, hằng ngày khi bị lên cơn, cháu dùng phương pháp quy liễm của Hồng-thiết giáo chống độc, thì trong 49 ngày không còn lên cơn nữa. Mỗi năm cháu chỉ lên cơn 49 ngày vào tiết Đông-chí . Cứ như thế, trong vòng ba năm thì khỏi hẳn. Nhưng...
Ông bảo Thủ-Huy :
- Cháu tháo dầy ra cho nọc độc dễ thoát khỏi cơ thể.
Quả nọc độc vẫn ri rỉ tiết ra ở huyệt Dũng-tuyền dưới gan bàn chân, và hai huyệt Lao-cung, Thiếu-phủ ở bàn tay. Thủ-Huy xin phép bố, mẹ rồi tháo dầy ra.
- Thưa tiên sinh.
Thụy-Hương hỏi :
- Hôm ấy, Bồ-tát Trí-Thiền chỉ nắm lấy tay nhị sư huynh khoảng nửa khắc, mà đã khiến nọc độc tiết ra không ngừng. Cháu tưởng cứ tình hình ấy, ba năm qua trong cơ thể nhị ca sẽ không còn nọc độc nữa chứ ?
- Vấn đề như thế này.
Thúc-Cẩn giảng : Lão hòa thượng dùng thượng thừa Thiền-công làm cho ngũ độc hòa lẫn với nhau, thì trong một ngày Thủ-Huy không còn lên cơn sáu lần vào đầu mỗi giờ. Nhưng chỉ lên cơn một lần vào giờ Mùi. Khi lên cơn, Thủ-Huy dùng phương pháp quy liễm độc tố của Hồng-thiết giáo chống độc, thì chất độc theo Thận-kinh thoát ra ở huyệt Dũng-tuyền dưới gan bàn chân ; theo Tâm-kinh, Tâm-bào kinh thoát ra ở huyệt Lao-cung, Thiếu-phủ ở bàn tay. Nhưng tâm chủ huyết, thận chủ cốt, chủ tủy. Vì vậy nọc độc chạy vào trong xương, trong tủy... thì không bao giờ trục ra khỏi cơ thể nữa.
Thủ-Lý hồi hộp :
- Thưa sư thúc, như vậy tuy nọc độc nhập cốt, nhưng em Thủ-Huy không chết nữa, phải không ?
- Vẫn chết như thường ! Khi nọc độc nhập cốt, sẽ hại tủy. Não là một loại tủy. Nếu bệnh cứ kéo dài, thì não sẽ teo dần, rồi đi đến chân tay tê liệt. Cuối cùng thì chết.
Đoan-Nghi run run :
- Thưa tiên sinh, không còn thuốc gì nữa ư ?
- Nếu như tìm được Thái-tử sâm, thì có cơ trị khỏi.
Long-Xưởng kinh ngạc :
- Thưa tin sinh, vãn sinh chỉ nghe nói đến nhân sâm, chứ chưa từng nghe đến Thái-tử sâm bao giờ. Mà nói về sâm thì mỗi người nói một khác. Hôm nay, may mắn gặp tiên sinh ở đây. Xin tiên sinh đừng tiếc công giảng giải cho vãn sinh.
Thúc-Cẩn cất giọng trầm trầm giảng :
- Sâm có nhiều loại, mang tên khác nhau : Dã sâm, đản sâm, thổ sâm, hắc sâm, Cao-Ly sâm hay nhân sâm. Hôm nay tôi chỉ nói về nhân sâm. Lá sâm, hoa sâm, cành sâm đều có thể dùng làm thuốc. Nhưng, các phần này không được dùng nhiều. Chủ yếu dùng để trị bệnh là củ sâm.
Ông uống một chung trà, rồi tiếp :
- Sâm gọi là Cao-ly sâm, vì khi trồng ở sứ Cao-ly thì có dược tính tốt nhất. Một vài vùng ở phía Bắc Trung-quốc như Liêu-Đông, Trường-bạch, Hắc-long giang, Cát-lâm cũng có loại sâm này. Sâm chỉ có dược tính tốt khi mọc ở vùng khí hậu cực lạnh. Các sách thuốc dùng nhiều danh tự khác nhau để gọi sâm như Thổ-tinh, Thần-thảo, Hoàng-sâm, Huyết-tinh, Địa-tinh v.v. Dùng hạt gieo về cuối Đông sang Xuân, trồng trong một năm thì có củ. Củ đó gọi là thường sâm. Khi để củ sâm già từ 4 đến 6 năm thì hình dạng giống như một hài nhi, gọi là nhân sâm. Nếu nhân sâm gặp đất tốt, thì có mầu hồng gọi là hồng sâm. Khi hồng sâm lớn, thì gọi là Thái-tử sâm.
Ghi chú của thuật giả:
Nhân sâm mà Lê Thúc-Cẩn nói đây là loại Panax Ginseng C.A.Mayer. Còn các loại sâm khác, tính chất, công dụng không giống sâm Cao-ly.