Mao Khiêm chỉ Vương Nhất :
- Trong ba trận, thì trận đầu Đông-cung thắng. Trận thứ nhì cung Cảm-Thánh thắng. Bây giờ trận thứ ba sẽ là trận quyết định. Đây là đại đệ tử của ta. Nếu kẻ nào muốn lĩnh Huyền-âm độc chưởng của y thì cứ việc bước ra.
Thủ-Huy xoa hai tay vào nhau :
- Được ! Chúng ta đấu cuộc thứ ba. Hậu bối xin đại diện Đông-cung lĩnh giáo cao chiêu của Vương tiền bối.
Nghe Thủ-Huy thách đấu với Vương Nhất, tất cả các cao thủ, các văn quan, võ tướng đều rúng động. Bởi từ hơn trăm năm qua, danh tiếng, uy tín của phái Đông-a như sấm động trời Nam, mà võ đạo phái này, dành quyền bảo vệ đệ tử tối đa. Võ lâm dù Hoa, dù Việt, dù chính, dù tà, đụng đến đệ tử của họ, thì không thể trốn thoát sự trả thù. Mà khi phái này trả thù, thì trả thù cực kỳ tàn bạo : Nhẹ thì khoét hai mắt, chặt hai chân, hai tay, cắt lưỡi. Nặng thì giết cả nhà, đến con chó, con mèo cũng không tha.
Bây giờ Vương Nhất ra đấu với Thủ-Huy, nếu y bại thì không sao. Nhược bằng y thắng, ắt Thủ-Huy bị trúng Huyền-âm chưởng, thì phái Đông-a sẽ giết cả nhà Vương đã đành, mà đến tính mệnh của cả nhà Nùng-sơn tam anh, Tô-lịch nhị tiên cũng khó thoát .
Mao Khiêm sinh ra ở trong tổng đường phái Đông-a, được nuôi, dạy bởi phái Đông-a, gì mà y không biết cái luật lệ của phái này. Y rào đón trước :
- Này, thằng bé con Thủ-Huy kia, khi mi nhận đấu với đệ tử ta, thì có nghĩa là viên Thiện-nhân của Đông-cung, đấu với một trưởng đội Phụng-quốc vệ. Chứ không phải một đệ tử của phái Đông-a đấu với đệ tử phái Trường-bạch đâu nhé.
- Đúng vậy.
Mao Khiêm nói với bốn chưởng môn nhân bốn đại môn phái :
- Xin các vị làm chứng cho mỗ rằng thằng lỏi con này ham mấy đấu gạo, mà làm tay sai, rồi chịu chết thay cho tên ôn con Long-Xưởng. Bằng không sau này bọn Đại-Việt ngũ tuyệt lại kiếm truyện.
Lê Thúc-Cẩn vẫy tay gọi Thủ-Huy :
- Cháu lại đây. Ta muốn nói riêng với cháu một câu.
Thủ-Huy tiến lại bên ông. Ông nắm lấy tay nó, khẽ bóp một cái. Trong mỗi bàn tay ông có một viên thuốc. Hai viên thuốc tan thành bột. Ông vận khí ra tay, lập tức thuốc ngấm vào hai bàn tay Thủ-Huy. Oâng dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai nó :
- Ta dùng hai viên thuốc khác nhau ép thành phấn, ngấm vào da cháu. Đối với cháu thì hai viên thuốc này vô hại. Nhưng đối với những người luyện Huyền-âm công, thì nó sẽ hợp với Ngũ-độc trong cơ thể y. Y sẽ bị ngứa ngáy đến nỗi muốn sống không nổi, mà chết cũng không xong.
Vốn thông minh, Thủ-Huy hiểu liền :
- Như vậy, khi hai chưởng giao nhau, thay vì cháu bị trúng Huyền-âm độc tố, thì ngược lại gã Vương Nhất sẽ bị đau đớn, ngứa ngáy khốn khổ.
Thúc-Cẩn gật đầu. Ông nói lớn :
- Vương Nhất là đệ tử đắc ý nhất của Mao tiền bối. Huyền âm chưởng của Vương cực kỳ cao thâm. Cháu phải cẩn thận.
Ông hạ giọng :
- Căn bản nội công của thầy trò Mao Khiêm vẫn là nội công Đông-a. Trong lúc đấu với y, cháu dùng Qui-pháp âm dương hút chân khí của nó. Khi y thấy cháu hút chân khí, y quen mùi, như Cảm-Linh đã làm với Đoan-Nghi. Y sẽ dồn độc công vào cơ thể cháu. Vì chân khí của cháu với y cùng nguồn gốc, cháu hòa hợp với nhau dễ dàng. Cháu buông lỏng ba kinh âm, dùng ba kinh dươntg lọc độc tố. Khi đã hút hết chân khí của y, thình lình cháu dùng ba kinh âm thủ, cho ba kinh dương tấn công y, đẩy tất cả độc chất y đã dồn vào người cháu trả lại cơ thể y.
Ông lại nói lớn :
- Thôi cháu ra lĩnh giáo Vương đại hiệp đi.
Vương Nhất quát lên :
- Coi chưởng này.
Y tung ra một chiêu Huyền-âm chưởng. Vì nội công Huyền-âm chưởng là nội công Âm-nhu nên không có gió. Thủ-Huy trả lại bằng chiêu Phong-ba hợp bích. Khi hai chưởng sắp chạm nhau, thì nó lại đổi thành chiêu Sơn-điểu hoa trung trong Hoa-sơn chưởng. Vương Nhất biến chiêu cực thần tốc, y đánh ra chiêu Cuồng-phong nộ lãng của phái Đông-a. Thủ-Huy vọt người lên cao như con hạc thăng thiên, nó phát chiêu Ác-ngưu nan độ trong Tản-viên chưởng. Hai chưởng giao nhau đến binh một tiếng. Người Thủ-Huy lại bay lên cao, trong khi Vương Nhất bật tung lại phía sau hai bước.
Hai người gườm gườm nhìn nhau.
Bỗng đại sư Pháp-Dung nói lớn :
- Tiểu thí chủ, phải cẩn thận, Huyền-âm độc chưởng lợi hại vô cùng. Tiểu thí chủ chớ có để chưởng mình chạm vào chưởng Vương cư sĩ.
Nghe Pháp-Dung nhắc Thủ-Huy, Vương Nhất cười thầm :
- Thằng trọc này nhắc tên ôn con, nhưng hóa ra là y nhắc ta. Ta phải làm sao để hai chưởng chạm nhau, khiến thằng oắt đau đớn đến phải kêu cha gọi mẹ, cho bọn này tởn phái Trường-bạch.
Nghĩ vậy y tấn công ráo riết.
Thủ-Huy tuy là con của đại hiệp Tự-Hấp, nhưng lại học nghệ với ông nội là đại hiệp Tự-Kinh, một bác học, một đệ nhất cao nhân đương thời. Nên tuy nó còn trẻ, mà không một môn võ công nào nó không học qua.
Sau khi xẩy ra vụ nó bị thua Nhất-Liễu, rồi bọn Hoa-sơn bị phái Thiên-trường bắt. Long-Xưởng xin Tự-Kinh cho Trần Lý, Thủ-Huy về Thăng-Long làm bạn với mình. Nhưng chỉ có Thủ-Huy nhận lời, còn Trần Lý thì chàng từ chối, không muốn dính dáng vao chốn quan trường. Sau Long-Xưởng năn nỉ mãi, chàng đồng ý về giúp Long-Xưởng dẹp loạn. Loạn dẹp xong, chàng sẽ trở về Thiên-trường. Biết rằng công lực hai cháu không làm bao, Tự-Kinh vội truyền cho hai cháu tất cả những bộ quyền, chưởng, để có thể vào đời. Hai anh em học được hết. Trần Lý lớn hơn em hai tuổi, công lực đã cao, chàng thu thái dễ dàng. Còn Thủ-Huy, công lực nó thấp quá, làm sao trong thời gian ngắn mà luyện thành ? Ông tùng quyền truyền nội công Qui-pháp âm-dương cho cả hai anh em. Vì khi biết vận Qui-pháp âm-dương, thì người khác dồn chân khí vào người mình, mình có thể biến thành nội lực của mình. Khác với Vô-ngã tướng Thiền-công, thì chỉ khi đối thủ dồn chân khí đánh mình, mình mới hấp thụ được. Hấp thụ được rồi, phải có thời gian luyện tập rất lâu để hòa hợp các luồng chân khí dị chủng. Sau khi Trần Lý, Thủ-Huy học Quy-pháp âm-dương rồi ; ông gọi Đông-a ngũ tuyệt dồn chân khí vào người hai cháu. Cho nên, chỉ trong mấy ngày, mà công lực hai người không thua cha với các sư thúc làm bao.
Đấu trên trăm hiệp, Vương Nhất vẫn chưa thắng được Thủ-Huy. Các võ quan hiện diện quan sát trận đấu đều rùng mình. Họ nghĩ thầm :
- Chưởng của Vương Nhất mạnh đến thế kia. Chưởng đó mà trúng người thường thì tan xương, nát thịt ra mà chết. Thế nhưng Thủ-Huy vẫn thản nhiên đỡ nhẹ nhàng. Thằng nhỏ này quả là con giòng, cháu giống.
Thình lình Vương Nhất nhảy lùi lại hai bước, rồi đánh ra một chiêu hết sức thô kệch. Tôn Đức-Hòa kêu lên :
- Huyền-âm chưởng ! Phải cẩn thận.
Nhưng đã trễ. Thủ-Huy phát quyền đánh vào giữa chưởng của Vương đến bạch một tiếng. Hai chưởng dính chặt vào nhau. Trận đấu trở thành cuộc đấu nội lực.
Thủ-Huy nhớ lời Lê Thúc-Cẩn dặn, nó dùng ba kinh dương trên tay là Thái-dương tiểu trường, Thiếu-dương tam tiêu và Dương-minh đại trường bảo vệ cơ thể. Còn buông lỏng ba kinh âm là Thái-âm phế, Khuyết-âm tâm bào và Thiếu-âm tâm. Chân khí của Vương Nhất ào ào tuôn vào người Thủ-Huy. Nhưng bao nhiêu độc tố bị ba kinh dương cản lại, chỉ có chân khí vào người nó mà thôi. Nó thản nhiên dùng Qui-pháp âm dương dẫn khí vào đơn điền. Hai luồng chân khí hòa hợp với nhau dễ dàng.
Khoảng hơn khắc sau, Vương Nhất mới cảm thấy bất ổn. Vì y dồn độc tố Huyền-âm vào cơ thể Thủ-Huy đã nhiều, mà chưa thấy đối thủ lạc bại như thường lệ. Y nghiến răng dồn toàn bộ chân khí ra. Nhưng chân khí chỉ gặp sức chống cự yếu ớt, rồi cuồn cuộn ra đi. Hơn khắc nữa qua, tay y nặng chĩu, chân khí thì muốn tuyệt.
Lê Thúc-Cẩn đứng ngoài hô lớn :
- Tấn công đi thôi.
Thủ-Huy mỉm cười, nó vận khí vào ba kinh âm thủ, rồi ba kinh dương tấn công. Vương Nhất đang dồn chân khí tấn công Thủ-Huy, thình lình nguồn nội lực Thủ-Huy mạnh như bài sơn đảo hải đẩy lui chân khí của y, rồi tràn vào người y. Kinh hoàng, y vội qui liễm chân khí rồi nhảy lùi lại.Y cười ha hả :
- Thằng lỏi con kia. Mi tưởng mi dùng Qui-pháp âm dương để lấy chân khí của ta ư ? Ta đã dồn cả một nguồn độc tố vào người mi. Mi chết đến nơi...
Tiếng rồi chưa ra khỏi miệng, thì y cảm thấy như có con dao đâm vào ngực đau thấu tâm can. Y nghiến răng để khỏi bật ra tiếng kêu, nhưng y cảm thấy mặt ngứa ngáy cực kỳ khó chịu. Y đưa tay lên gãi, thì cổ vai, rồi khắp người y như có hàng vạn con kiến cắn. Y vừa cào cấu, vừa gãi, vừa la hét.
Không ai hiểu tại sao. Chỉ riêng Thủ-Huy, nó chợt nhớ ra rằng : Lê Thúc-Cẩn đã phóng vào hai bàn tay nó hai viên thuốc khác nhau. Từng viên nhập vào tay nó thì không sao. Nhưng khi nó dồn vào người Vương Nhất. Hai loại thuốc hợp với độc tó Huyền-âm thành một thứ thuốc làm cho cơ thể vừa đau đớn vừa ngứa ngáy.
Mao Khiêm cười nhạt :
- Thằng bé con kia. Uổng thay cho thân phận mi là con cháu của Kinh-Nam vương, mà cũng đi luyện Huyền-âm chưởng của phái Trường-bạch nhà ta. Nhưng mi dùng Huyền-âm độc tố với đệ tử ta thì có khác gì múa búa trước cửa Lỗ Ban, đọc Hiếu-kinh trước nhà Khổng-tử ?
Vốn là người thông minh tuyệt đỉnh, cho nên tuy không nghe rõ Lê Thúc-Cẩn với em đã bàn nhau những gì, mà Thủ-Lý cũng hiểu hết mội sự. Thủ-Lý xoa hai tay vào nhau, nó cười ha hả :
- Mao tiền bối ơi ! Người từng là đệ tử của bản môn, hẳn người biết rằng, hơn trăm năm trước, phái Đông-a có một phương pháp chống độc chưởng, gọi là Phản Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng, do viễn tổ Tự-An chế ra. Nay tiểu đệ của tiểu bối dùng phương pháp này của người để chống Huyền-âm chưởng, thì kết quả cũng thế.
Mao Khiêm chợt nhớ lại :
...Vào đầu thời Lý, có một quái nhân tên là Nhật-Hồ, lưu lạc sang Tây-vực, học được Chu-sa ngũ độc chưởng, đem về Đại-Việt lập ra Hồng-thiết giáo. Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng làm mưa làm gió trên khắp Hoa-Việt. Võ lâm dù chính, dù tà, nghe đến Nhật-Hồ độc chưởng đều táng đởm kinh hồn. Sau chưởng môn phái Đông-a là Trần Tự-An chế ra Phản Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng, dạy cho đệ tử và con cháu. Phàm khi đấu với đối thủ mà đối thủ dùng Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng, đệ tử Đông-a dùng phương pháp này đẩy chất độc của đối thủ trở lại. Đối thủ sẽ đau đớn cùng cực, mà thuốc giải của họ không những vô hiệu mà còn làm cho đau đớn thêm. Muốn chữa trị, thì phải do chính người phản công hút lại chân khí mình đã đánh đối thủ. Sau đó dùng thuốc giải mới hiệu nghiệm. Trong trận Lộc-hà, Nhật-Hồ lão nhân với các đệ tử bị đánh bại đau đớn nhục nhã phải đầu hàng. 0.
Biết Thủ-Huy dùng phương pháp chống Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng. Mao Khiêm để tay lên đầu Vương, hút chân khí Đông-a, mà Thủ-Huy dồn vào. Rồi y móc trong bọc ra cái hộp nhỏ, lấy hai viên thuốc bỏ vào miệng Vương Nhất. Vương Nhất nuốt vào bụng, ngồi vận khí cho thuốc mau tan.
Gì mà Long-Xưởng không hiểu rằng Thúc-Cẩn với Thủ-Huy đã liên thủ hạ Vương Nhất. Vương khoan thai nói với Mao Khiêm :
- Mao tiên sinh ! Trận thứ ba, nhị đệ thắng Vương Nhất. Như vậy Đông-cung chúng tôi thắng hai trận. Mao tiên sinh tính sao đây ?
Mao Khiêm chưa kịp trả lời, thì Vương Nhất hét lên như con lợn bị thọc huyết, rồi nhảy chồm chồm tỏ ra đau đớn cùng cực. Hai tay y lại cào cấu khắp người vì ngứa ngáy.
Mao Khiêm tuy là đại ma đầu, từng giết biết bao nhiêu người không gớm tay, mà bây giờ y không cứu nổi một đệ tử. Y luống cuống hỏi Thủ-Huy :
- Mi đã dùng độc chất gì ám toán y ?
Lê Thúc-Cẩn ung dung trả lời thay cho Thủ-Huy :
- Mao tiền bối. Cháu Thủ-Huy là con người bạn chí thân của tại hạ. Vì sợ cháu còn trẻ, công lực không làm bao, khó chống nổi một đại cao thủ như Vương đại hiệp, nên tại hạ đã vỗ vào tay cháu hai viên thuốc. Khi Vương đại hiệp dùng Huyền-âm chưởng đánh cháu, thì cháu chỉ trả lại người những gì người phát ra mà thôi. Tuy nhiên khi vay, thì lúc trả phải trả cả vốn lẫn lời. Vốn là Huyền-âm độc, nên Vương đại hiệp đau đớn. Còn lời thì là hai viên thuốc của tại hạ, làm người ngứa ngáy, và thuốc giải của tiền bối vô hiệu...
Mao Khiêm chợt hiểu, y chỉ vào công chúa Đoan-Nghi :
- Thế còn cái vụ này thì thái-tử định thế nào ?
Long-Xưởng chỉ Vương Nhất đang đau đớn, gãi như khỉ, Cao Nhị nằm dài ra như khúc gỗ , Đỗ Anh-Hào bị trói để ngồi trước Long-Xưởng; Cảm-Linh, Cảm-Chi mất hết công lực dựa vào tường :
- Nùng-sơn tam anh, Tô-lịch nhị tiên có phải là đệ tử của Mao tiền bối không nhỉ ? Vậy tiền bối còn chờ gì mà không trao thuốc giải cứu công chúa ? Kể ra tính mệnh một cô công chúa ngàn vàng đổi lấy năm cao đồ của tiền bối cũng xứng đấy chứ?
Mao Khiêm móc ra ba cái bình, lấy mỗi bình một viên thuốc. Ba viên có ba mầu vàng, xanh, đỏ trao cho Long-Xưởng. Thấp thoáng một cái, Lê Thúc-Cẩn đã lạng người tới. Ông đứng chặn trước mật Long-Xưởng với Mao Khiêm :
- Khoan !
Mao Khiêm giật mình nhảy lùi lại hai bước. Ba viên thuốc bay bổng lên cao. Thúc-Cẩn bắt lấy rồi cười nhạt :
- Người định dùng độc dược hại thái-tử ư ?
- Thằng lang băm ngu dốt kia, ta trao thuốc giải cho công chúa mà mi dám bảo là thuốc độc thì còn trời đất nào nữa không ?
- Này Mao tiền bối. Người đừng quên rằng tại hạ là truyền nhân của phái Sài-sơn, chuyên lấy y đạo hành hiệp, cho nên không một độc chất nào của thiên hạ, mà tại hạ không biết. Cái viên thuốc đỏ này có tên Loạn-huyết hoàn. Ai uống vào, thì máu chạy hỗn loạn, mạch máu đầu bị đứt, nếu không chết ngay, thì cũng méo miệng, mắt nhắm không được, bán thân bất toại. Viên mầu xanh có tên Tý-chi hoàn, ai uống phải thì người sẽ bị tê liệt, không thể đi lại được. Viên mầu vàng có tên U-minh hoàn. Ai uống phải, thì mạch máu trong con ngươi bị vỡ ra, mù mắt trong chốc lát. Còn như không uống, nhưng chỉ cần cầm ba viên đó trong lòng bàn tay, ba thứ thuốc hòa hợp với nhau, rồi tan ra, nhập vào da, trong chốc lát mắt bị mù, chân tay run rẩy, trở thành tàn tật.
- Nói láo. Tại sao mi cầm ba viên thuốc trong tay từ nãy đến giờ, mà có sao đâu ?
Thúc-Cẩn cười nhạt :
- Tại hạ đã xoa thuốc giải vào bàn ray từ trước rồi. Nếu như tiền bối bảo ba viên thuốc này là linh đơn diệu dược, tại hạ xin trả lại tiền bối.
Nói rồi Thúc-Cẩn tung ba viên thuốc về phía Mao Khiêm. Khiêm bắt lấy. Nhưng ba viên thuốc đổi chiều bay đến trước Nùng-sơn tam anh. Viên đỏ chụp lên người Vương Nhất. Viên vàng chụp lên người Cao Nhị. Viên xanh chụp lên người Anh-Hào.
Mao Khiêm kinh hãi, y vội lấy ra ba viên thuốc, bắn vào người Nùng-sơn tam anh để giải độc.
Ghi chú của thuật giả
Ba loại thuốc này, lai lịch rất rõ ràng. Thuốc do Khu-mật viện thời Nam-Tống chế ra vào niên hiệu Thiệu-Hưng thứ 25 0 dưới đời vua Cao-tông. Thành phần dược liệu khá phức tạp, mà chế tạo lại rất giản dị. Cả ba loại thuốc được các vua, quan Trung-quốc coi là Quốc-dược, cực mật. Cho đến năm 1976, sau khi chủ-tịch đảng Cộng-sản Trung-quốc là Mao Trạch-Đông chết, thì Tứ-nhân bang, Giang-Thanh và Trương Ngọc-Phương 0 đều biết và làm tiết lộ ra. Sau đó Trung-y học viện Bắc-kinh đem ra thử nghiệm rồi giảng dạy, thì Quốc-dược không còn là điều cơ mật nữa. Cho nên gần đây, có nhiều cao nhân, không bị huyết áp cao, không bị bệnh tim, không bị tiểu đường, cũng không bị cholestérol cao, mà thình lình lăn ra chết, hoặc bị mù mắt, tứ chi tê liệt, bán thân bất toại vì: Tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim, tim ngừng đập ... tôi không hề ngạc nhiên. Điểm qua, tôi thấy các cao nhân bị đầu độc bằng Loạn-huyết hoàn, U-minh-hoàn nhiều hơn. Tý chi hoàn rất hiếm thấy.
Thúc-Cẩn nói với Long-Xưởng :
- Khải thái-tử, từ sau khi Huyền-âm chưởng tái xuất giang hồ, sát hại Khánh-Hỷ đại sư, Nghi-Hòa sư thái, đại hiệp Đặng Phi-Sơn, thì lão phu đã tìm ra thuốc giải vĩnh viễn. Trường hợp của công chúa thì không phải bị trúng chưởng mà vì hút nội lực của hai đại cao thủ, độc tố chạy vào tạng phủ, thì không thuốc nào chữa được. Tuy nhiên thái-tử không nên quá tuyệt vọng. Lão phu đã cho công chúa uống mấy viên thuốc khử độc cực mạnh, thì ít ra chúng ta cũng còn 49 ngày để tìm ra phương pháp điều trị.
Thúc-Cẩn đưa mắt nhìn nhà vua, để xem phản ứng của ngài ra sao, trước việc tính mệnh con gái như treo sợi tóc. Thì hỡi ơi, những biến cố kinh hồn, nào hai bên chính tà đấu võ, nào tranh luận, nào ồn ào như vậy... mà ngài ngủ ngồi trên ngai vàng. Giấc ngủ dường như khá sâu, ngài gáy khò khò.
Thủ-Huy hỏi Mao Khiêm :
- Mao tiền bối, sau ba trận đấu, Đông-cung thắng hai. Vậy tiền bối định sao đây ?
- Được ! Ta với năm đệ tử sẽ rời khỏi đây. Nhưng còn Lưu Kỳ ? Ngô Giới, với sứ đoàn ?
Thủ-Huy vốn khinh rẻ Cảm-Thánh thái hậu. Nó nói lơ mơ để trêu bà :
- Họ bị lên án cung hình, chặt chân, chặt tay, rồi tùng xẻo. Trong ba án, thì án cung hình sẽ thi hành sớm nhất. Dường như giờ này họ bị thiến rồi. Cũng, cũng có thể ngày mai họ mới bị thiến.
Thái-hậu thét lên :
- Mao Khiêm ! Vạn vạn lần không thể để Tiết-độ sứ bị thiến. Người... người phải cứu Tiết độ sứ. Tiên nhân bố đứa nào mà thiến người, bà...bà sẽ bắt nó uống ba vạn bát máu l...
Mao Khiêm thở dài :
- Thần cũng muốn cứu quan Tiết-độ sứ lắm. Nhưng e sức thần không làm nổi. Ngay bản thân thần cũng khó sống sót, thì việc cứu người thực thiên nan, vạn nan.
Y nói chậm lại :
- Bây giờ, muốn cứu Lưu tiết độ sứ, cũng không khó. Chỉ cần thái-hậu phải chịu thiệt thòi đôi chút, thì không những cứu được người, mà còn có thể cứu cả phái Hoa-sơn, cứu tất cả đám đệ tử của thần.
- Thiệt gì ta cũng chịu. Ta sẵn sàng bỏ ngôi thái-hậu. Ta bỏ hết, không còn gì cả. Miễn sao ta với Lưu được sống cạnh nhau là đủ.
Mao Khiêm hướng Pháp-Dung :
- Đại-sư ! Trong các tôn sư hiện diện tại đây thì đại sư có vai vế cao hơn hết. Mao mỗ muốn thương lượng với đại sư một truyện.
- Xin thí chủ cứ nói.
- Với võ công Đông-a mà mỗ học được, với Huyền-âm nội lực mà mỗ có, chưa chắc bốn vị chưởng môn tại đây có thể thắng mỗ. Nếu mỗ muốn thoát thân một mình thì không dễ gì các vị giữ nổi mỗ.
Pháp-Dung gật đầu :
- Thí chủ nói không sai.
- Nhưng mỗ có năm đệ tử, bản lĩnh chúng cũng không đến nỗi tầm thường. Tuy nhiên đấu với số đông võ sĩ ngoài điện thì không thể đương nổi. Nếu như đánh thục mạng để chạy, thì cũng có vài đứa thành công. Mà đám võ sĩ gác ngoài điện ít ra cũng mất mạng mươi người. Cao hơn có khi hàng trăm. Đại sư nghĩ xem, mỗ nói có đúng không ?
- Mao thí chủ quả là người thực thà.
- Vậy tại sao chúng ta không tìm lấy một lối thoát ?
- Ý Mao thí chủ muốn ? ? ?
- Đại sư, cùng ba vị chưởng môn điều đình với phái Đông-a thả tất cả người của phái Hoa-sơn, cấp thuyền, lương thực cho họ về nước. Dĩ nhiên thái-hậu, Mao mỗ, năm đứa đệ tử này sẽ đem gia thuộc, của cải xuống thuyền ấy cùng về Tống.
Pháp-Dung đại sư chắp tay :
- A-di-đà Phật ! Mao thí chủ. Món nợ Mao thí chủ sát hại sư huynh bần tăng là Khánh-Hỷ đại sư, sát hại Nghi-Hòa sư thái, đại hiệp Phi-Sơn thì Mao thí chủ tính sao đây ?
- Tính sao ? Ai bảo chúng cứng đầu, cứng cổ không chịu trao cuốn phổ chép các tuyệt kỹ trấn môn cho ta ?
- Thôi đươc ! Bây giờ bần tăng xin thuận tất cả những gì Mao thí chủ đề nghị. Duy một điều là phiền đại giá Mao thí chủ khuất thân theo bần tăng về chùa Tiêu-sơn tịnh tu, để giải nghiệp trong ít lâu. Không biết thí chủ nghĩ sao ?
Mao Khiêm nổi cáu :
- Tên trọc ăn thịt chó kia ! Mi định giam lỏng ta phải không ? Việc này e còn khó hơn bắc thang lên trời. Bây giờ thế này, nếu mi còn muốn dơ mặt khoe là danh môn chính phái, thì hãy dùng võ công tranh hơn thua với ta, chứ đừng có dùng số đông áp đảo người ! Nếu mi thắng ta, thì mi muốn băm vằm, mổ xẻ thế nào ta cũng chịu.
Pháp-Dung biết với độc công của Mao Khiêm thì mình không đủ bản lãnh bắt y. Oâng chỉ Long-Xưởng :
- Đây là điện Uy-viễn, xin để thái-tử quyết định.
Long-Xưởng nghĩ rất nhanh :
- Nếu dùng số đông thắng Mao Khiêm, thì các tôn sư không chịu. Dù ta có sai đám võ sĩ, họ cũng không tuân. Độc công của tên này, e bốn vị tôn sư không ai đương nổi. Giao chiến, dù thắng, dù bại, ta không thể giết thái-hậu! Mà để thái-hậu sống, thì người lại áp chế phụ hoàng, không chừng đất nước điêu linh hơn nữa. Về bọn Hoa-sơn, chúng là sứ thần của Tống, ta mà giết chúng, thì chiến tranh Trung-Việt sẽ xẩy ra, trong khi ta chưa kịp chuẩn bị. Chi bằng ta thuận đề nghị của y, mọi bề sẽ tốt đẹp.
Nghĩ vậy Long-Xưởng hướng Pháp-Dung :
- Nếu như đại sư mở từ tâm dung tha cho năm đệ tử của Mao tiên sinh, tha cho người của phái Hoa-sơn, thì đệ tử xin kính cẩn tuân pháp dụ.
Các tôn sư nghe Long-Xưởng nói, trong lòng họ đều nghĩ thầm :
- Không biết tại sao, với một bà nội dâm đãng, bất cố liêm sỉ như thái-hậu. Với một ông bố đần độn, khờ khạo như Đại-Định hoàng đế, mà lại sinh ra người con minh mẫn như Long-Xưởng ? Bởi với địa vị một ông thái-tử đang ngồi ở điện Uy-viễn, Long-Xưởng không thể để cho một sư ông giải quyết truyện quốc gia đại sự. Vì vậy Long-Xưởng xưng là đệ tử, rồi tuân pháp dụ của Pháp-Dung, có nghĩa là một Phật tử nghe theo lời của một cao tăng. Khôn thực !
Trần Lý nói với Long-Xưởng :
- Điện hạ ! Tất cả sứ đoàn, cùng chư đệ tử phái Hoa-sơn, ông nội của đệ đã sai bỏ lên chiếc thuyền đinh của chúng, giải về Thăng-long. Hiện thuyền ấy đậu ở bến Tiềm-long. Còn Ngô Giới thì đệ đã giải y đến ngoài điện, đang chờ điện hạ phát lạc.
Nghe Trần Lý nói, chân tay thái-hậu run lẩy bẩy, bà nói trong hơi thở hổn hển :
- Thế...thế... Lưu tiết độ sứ có ở trên con thuyền đó không ? Người có khỏe mạnh không ?
Nghe thái-hậu hỏi, Thủ-Huy càng phát ghét. Nó nghĩ thầm :
- Con mụ dâm đãng, bất cố liêm xỉ này...trước kia mê Anh-Vũ thị muốn hiến ngôi vua cho y. Thị còn nghe lời y, tàn sát không biết bao nhiêu người. Sau này thị lại mê Lưu Kỳ đến độ muốn giết con, muốn dâng cả giang sơn cho y. Đã vậy ta dọa cho thị kinh hoảng, làm trò cười để lại mai hậu.
Nó đáp lơ mơ :
- Mạnh thì y vẫn mạnh, nhưng khỏe thì không. Vì y...vì y bị...
Tim Thái-hậu muốn đứng lại :
- Tiết độ sứ đã bị...đã bị... thiến rồi ư ?
- Thần cũng không rõ y đã bị thiến rồi hay chưa, nhưng y bị trói như con chó tiền rưỡi không được ăn uống gì từ sáng đến giờ.
Trần Lý là người chính nhân quân tử, chàng thấy em đùa như vậy có hơi quá đáng. Chàng xua tay :
- Tâu thái-hậu, Lưu đại nhân cùng người phái Hoa-sơn tuy bị xiềng, nhưng vẫn khỏe mạnh. Thái-hậu có thể ra thăm người.
Long-Xưởng gọi Tăng Quốc, ban chỉ :
- Tăng tướng quân. Tướng quân hãy hộ tống Thái-hậu với mấy người này ra bến Tiềm-long. Trao họ cho sứ đoàn. Cô gia sẽ phái hạm đội Động-đình tiễn đưa họ về tới Quảng-châu.
Long-Xưởng hỏi Trang-Hòa :
- Trang-Hòa, em tâu lên phụ hoàng với mẫu hậu tình hình cung Cảm-Thánh.
Trang-Hòa bước tới trước nhà vua với Hoàng-hậu :
- Tâu hoàng-thượng. Trưa nay, thần được chỉ dụ của thái-tử, dẫn đội nữ võ sĩ phái Mê-linh tới cung Cảm-Thánh bảo vệ thái-hậu, thì bị một bọn xưng là đại thần, với mấy cung nga, thái giám ngăn lại. Cuộc giao tranh ngắn ngủi diễn ra. Bọn chúng bị bắt hết. Thần tìm thái-hậu khắp cung mà không thấy. Thần sai Như-Như niêm phong tài vật, cho canh phòng cẩn mật. Lại sai Như-Như đem hết vàng, bạc, châu báu của thái-hậu cất vào công khố Hoàng-thành. Riêng những chỉ dụ, văn thư, thư từ thì thần bỏ vào cái tráp. Hiện có đem theo đây.
Nhà vua vẫn ngáy khò khò, dường như giấc ngủ của ngài rất sâu ! Hoặc giả ngài đang luyện thiền-công, xuất hồn tiêu dao ở chùa Lôi-âm, yết kiến Phật Như-Lai cũng nên. Hoàng-hậu vội lay mạnh tay ngài. Ngài giật mình thức dậy, u u mê mê, không biết những gì đang xẩy ra. Như thường lệ, ngài lại hỏi Long-Xưởng :
- Xưởng nhi, vụ này Xưởng nhi định sao ?
Ngài lại ngả đầu sang một bên, nhắm mắt ngủ.
Long-Xưởng trao cái tráp cho Thái-sư Lưu Khánh-Đàm và Thái-phó Hoàng Nghĩa-Hiền :
- Xử tội phải có chứng cớ. Xin các thầy xét tìm những văn kiện nào liên quan với việc Tống sai sứ sang, với ý định chiếm Đại-Việt. Như vậy ta mới có cớ nói truyện phải trái với Tống.
Long-Xưởng lại quay sang phía Trang-Hòa :
- Trang-Hòa ! Bây giờ thái-hậu sắp sửa theo Lưu Kỳ về Trung-nguyên. Từ nay đất khách quê người, người cần nhiều vàng bạc để chi dụng. Vậy em hãy đem tất cả y phục, vàng bạc, vật dụng hàng ngày của ngài cho ngài.
- Tuân chỉ điện hạ.
- Cho mời Ngô tuyên vũ sứ vào.
Thủ-Huy ra ngoài một lúc, rồi dẫn Ngô Giới vào. Ngô bị trói. Hai bên, mỗi bên có một thiếu niên nắm vai y. Trong hai thiếu niên, một người to lớn kềnh càng, cao hơn Ngô Giới một cái đầu. Còn một người nữa, phong tư tiêu sái, như cây ngọc trước gió. Long-Xưởng nhận ra thiếu niên to béo là Tô Trung-Từ, con của Tô Trung-Sách, đệ tử út Tự-Kinh. Còn thiếu niên phong tư tiêu sái, tên Phùng Tá-Chu, đệ tử của Trần Tự-Hấp. Cả hai đều ngang tuổi với Thủ-Huy.
Tá-Chu chỉ Ngô Giới, nói với Long-Xưởng :
- Khải thái-tử, thái sư phụ thần nói rằng : Bọn người Hoa này tuy bị bắt ở Thiên-trường, nhưng họ lại phạm tội ở Thăng-long. Vì vậy người sai anh em thần giải tất cả bọn người mạo xưng là mật sứ về để họ thụ hình. Hiện tất cả đều bị giữ trên con thuyền của họ, tại bến Tiềm-long. Riêng vị đạo sư này muốn diện kiến với thái-tử, nên anh em thần giải họ vào đây.
Phùng Tá-Chu trao cho Long-Xưởng tờ giấy :
- Đây là danh sách tội nhân mà anh em thần giải giao.
Từ lúc thấy Phùng Tá-Chu, trong lòng Cảm-Thánh thái hậu nảy ra một dục vọng :
- Hỡi ơi ! Ta tưởng trên đời này, thì Lưu Kỳ là đệ nhất mỹ nam tử ! Không ngờ, so với thiếu niên kia thì muôn ngàn lần Lưu không bằng ! Lưu đã già, nói tiếng Việt khó khăn, chuyện phòng the khi được, khi không, sao có thể so sánh với thiếu niên này ! Phải chi ta được y làm người tình, thì dù có phải bỏ ngôi thái-hậu ta cũng không tiếc.
Bà hỏi Tá-Chu :
- Thiếu-hiệp ! Tội nhân có những ai vậy ? Đã ai bị hành hình chưa ?
- Tâu thái-hậu, theo đúng bản án mà thái-tử đã tuyên hôm ở Thiên-trường rằng : Cứ mỗi ngày thì đem một tội phạm ra thi hành án cung hình. Vì thế, có tất cả mười tám người bị đem xử...
Đến đây Tá-Chu ngập ngừng như không muốn nói. Long-Xưởng hỏi :
- Phùng huynh đệ, dường như trong khi thi hành án cung hình, có mấy người bị chết chăng ?
Tá-Chu lắc đầu, dường như không muốn nói. Nó chỉ vào Trung-Từ . Trung-Từ cười hềnh hệch :
- Khải thái-tử không có ai bị chết cả. Chính thần là người phụ trách hành hình. Để công bằng, mỗi khi chọn người thụ hình, trước mặt các tội nhân, thần cho rút thăm. Ai trúng phiếu trắng thì thôi. Ai trúng phiếu có hình... có hình... con chim cu bị cụt đầu, thì người đó bị đem ra ...
Trung-Từ dùng tay phải dơ lên không chụp một cái, như chụp cái ... của nợ, lại dùng cườm tay trái như thanh đao chém ngang.
Tá-Chu tiếp :
- Vì Trung-Từ hành hình theo lối rút thăm, trong mười tám người bị thụ hình, có tới mười lăm người là nữ, thành ra chỉ có ba người...
Tá-Chu dừng lại, để mọi người hiểu ngầm. Trung-Từ cướp lời Tá-Chu :
- Chỉ có ba con chim cu bị xẻo mất đầu.
Thủ-Huy muốn trêu thái-hậu, nó hỏi :
- Dường như trong ba người đó, có người tên là Lưu Kỳ phải không ?
Ba anh em Thủ-Huy, cùng với ba anh em Trung-Từ, thêm Tá-Chu là bẩy, vốn ngang ngang tuổi nhau, họ cùng luyện võ, học văn, nô đừa với nhau từ nhỏ nên họ hiểu nhau hơn bất cứ ai. Nghe Thủ-Huy hỏi, tuy Trung-Từ không biết rõ mục đích, nhưng nó hiểu ý Thủ-Huy rằng, muốn đem Lưu Kỳ ra đùa chơi. Nghĩ vậy nó trả lời :
- Cái ông... Ông Lưu xưng là Tiết-độ sứ ấy à ?
Từ Long-Xưởng cho tới các quan nghe Trung-Từ trả lời, những tưởng thái-hậu sẽ thét lên, rồi luống cuống hỏi tin tức Lưu Kỳ. Không ngờ bà lại thản nhiên như không. Vì bà đang dồn hết tâm ý vào Phùng Tá-Chu :
- Làm thế nào mà ta có được thiếu niên này bây giờ ? Hỡi ôi, ta mà được sống bên Tá-Chu một năm, rồi có chết cũng thỏa nguyện.
Tăng Khoa hướng vào Ngô Giới hô :
- Quỳ xuống.
Ngô ngập ngừng một lát rồi quỳ gối trước nhà vua. Long-Xưởng chỉ Ngô :
- Tâu phụ hoàng, người này đích thực họ Ngô tên Giới, từng lĩnh chức Tứ-xuyên tuyên vũ sứ. Y giả chết, làm đạo sĩ ở núi Hoa-sơn. Nay y mang toàn bộ cao thủ phái này sang Đại-Việt, cùng bọn Mao Khiêm tiềm ẩn ở Thăng-long đã mấy năm. Hôm trước y bắt cóc thần nhi, bắt cóc Trần Thủ-Huy, bắt đô đốc Lý Thần, định đưa về Trung-nguyên. Y lại ăn cắp bốn thanh kiếm thờ ở miếu Hoa-sơn tứ đại thần kiếm. Nhưng toàn bộ bọn y bị phái Đông-a bắt sống. Thần nhi đã tuyên xử y bị lăng trì. Nhưng y nói đại ngôn rằng y là mật sứ của Tống. Thần nhi tạm hoãn thi hành án, giải y về Thăng-long. Nếu như y quả là mật sứ của Tống, thì y vô tội. Trường hợp này Đại-Việt ta có thể đòi Tống trả giá về việc làm của họ.
Tuy bị trói, nhưng Ngô Giới vẫn hiên ngang :
- Kẻ bầy tôi ở chốn biên khích, hết lòng vì nước, nếu có bị tan xương, nát thịt, cũng không tiếc. Thái-tử ! Việc đã như thế này thì thái-tử giết bần đạo đi, cho bần đạo được tỏ lòng trung với Thiệu-Hưng hoàng đế.
Bỗng Thái-phó Hoàng Nghĩa-Hiền kêu lên :
- Đây rồi. Chứng cớ đây rồi.
Ông trình cho Long-Xưởng một tờ giấyï có đóng ấn son đỏ chói :
- Khải điện hạ, tờ này là mật chỉ của Thiệu-Hưng hoàng đế.
Long-Xưởng cầm lên đọc, nội dung mật chỉ nó rõ : Ngô Giới làm chánh sứ, Lưu Kỳ làm phó sứ, Mao Khiêm làm thông dịch, cùng sứ đoàn 36 người sang kinh lý các quận Giao-chỉ, Chiêm-thành, Chân-lạp.
Long Xưởng đọc xong, lập tức đổi thái độ :
- Thì ra Ngô tuyên vũ sứ là mật sứ thực. Có điều người lợi dụng chức mật sứ rồi bắt cóc cô gia, cùng ăn cắp. Tuy nhiên người là mật sứ thì cô gia không thể xử tội. Cô gia sẽ đưa người về Trung-nguyên, để triều Tống xử Tuyên-vũ sứ về những tội trên.
Long-Xưởng đưa mắt cho Phùng Tá-Chu. Tá-Chu lia một nhát kiếm, dây trói Ngô Giới đứt hết. Long-Xưởng kéo ghế mời Ngô ngồi, rồi nói :
- Kể từ hôm nay, Ngô sứ cùng sứ đoàn cứ ở dưới thuyền, xin đừng đi đâu cả. Cô gia sẽ sai người cung ứng đầy đủ nhu dụng cho sứ đoàn, rồi sẽ đưa về nước.
Long-Xưởng nói với thái-hậu :
- Không biết tổ mẫu định về cung Cảm-Thánh hay ra bến Tiềm-long với sứ đoàn ?
Mặt thái-hậu lầm lì :
- Ta không thèm về cái ổ chó Hoàng-thành nữa. Người để ta đi với sứ đoàn.
- Vậy thì được rồi. Xin Tả-thiên ngưu vệ thượng tướng quân Tăng Quốc, với đội võ sĩ Mê-linh tiễn Thái-hậu ra bến Tiềm-long. Nhớ đặt mười chiến thuyền hộ vệ xung quanh chiếc thuyền của Ngô sứ.
Nghe Long-Xưởng nói, Ngô Giới muốn nổi nóng. Rõ ràng ông vua con này sai võ sĩ áp tải bọn y đi, rồi lại sai thủy quân giam lỏng trên chiếc thuyền đinh. Trong khi đó lại nói thác đi là hộ vệ.
Vương Nhất chưa muốn đi. Y hỏi Lê Thúc-Cẩn :
- Đại-hiệp. Xin đại-hiệp, ban thuốc giải ?
- Vương đại hiệp khỏi lo. Trong 49 ngày thì Vương đại hiệp mới chết kia mà ? Tại hạ hứa sẽ cho người mang thuốc giải trao cho đại hiệp trước cái hạn 49 ngày.
Long-Xưởng hô :
- Tiễn khách.
Vương Nhất hỏi :
- Thái-tử ! Thế còn vợ con, gia thuộc chúng thần ?
Long-Xưởng chưa kịp trả lời, thì ầm một tiếng, cửa sổ vỡ tung, rồi một cái bao vải lớn rơi xuống trước mặt Vương Nhất. Vương vung kiếm, cái túi bị xẻ làm đôi. Trong túi có một số đầu người đẫm máu. Kinh ngạc, y cầm một cái lên xem, thì là đầu đứa con trai đầu lòng của y. Y hét lên một tiếng, cúi xuống xem, thì có mười bẩy cái đầu nữa, gồm đầu cha y, mẹï y, năm đầu của năm người thiếpï, mười cái đầu của mười đứa con. Trên mỗi cái đầu đều cắm một mũi tên, trên có khắc hình hai con chim ưng bay qua ngọn núi.
Mọi người đều bật lên tiếng kêu :
- Côi-sơn song ưng.
Vương Nhất hét lên :
- Tàn ác ! Tàn ác ! Đồ hèn hạ, dùng võ công giết người không biết võ.
Vợ Vương Nhất là Cảm-Linh ôm lấy đầu hai đứa con của thị khóc thảm thiết. Thị nguyền rủa :
- Côi-sơn song ưng ! Ta sẽ giết cả nhà mày để trả thù cho con ta.
Có tiếng vi vu phát ra, rồi một ống tre xanh ngắt quay rất nhanh, bay rất chậm tới trước mặt Long-Xưởng. Thủ-Huy sợ trong đó có độc dược, ám khí gì chăng. Nó chĩa tay phóng một chỉ vào ống tre. Oáng tre nổ đến bốp một cái, vỡ làm ba bốn mảnh. Một tờ giấy từ trong bay ra, mở lớn, từ từ rơi xuống. Thủ-Huy bắt lấy giấy, rồi trao cho Long-Xưởng :
- Đại ca. Côi-sơn song ưng kết tội bọn Mao Khiêm.
Long-Xưởng cầm tờ giấy trao cho quan Văn-minh điện đại học sĩ Lý Kính-Tu :
- Đại-học sĩ đọc lên cho mọi người cùng nghe.
Lý Kính-Tu tiếp tờ giấy đọc :
Côi-sơn song ưng
cáo tri với võ lâm đồng đạo.
Tám mươi tư năm trước, sau khi đuổi giặc Tống khỏi Như-nguyệt, hai thánh tăng Minh-Không, Đạo-Hạnh đứng ra tổ chức đại hội võ lâm, nhân ngay giỗ Bắc-bình vương Đào Kỳ. Đại hội đã quyết định rõ ràng những điều cương yếu để thống nhất võ đạo Đại-Việt. Các chưởng môn nhân sáu đại môn phái quốc nội, tám đại môn phái quốc ngoại, ba mươi sau bang, bẩy mươi hai động đã đồng ý mười tám khoản. Trong mười tám khoản ấy, khoản thứ nhất định rằng :
Bất cứ trường hợp nào, võ lâm cũng không can thiệp đến những xung đột trong hoàng tộc.
Chính vì lẽ đó, mà từ khi đức Thần-tông băng, trong hoàng cung đã xẩy ra không biết bao nhiêu điều, làm thương luân, bại lý. Nguồn gốc những sự hủ lậu đó hoàn toàn do một người đàn bà, là Lê thị, được tôn phong làm Cảm-Thánh hoàng thái hậu. Cái người đàn bà ngu dốt, nhỏ nhen, ích kỷ, tham dâm Cảm-Thánh đã gây ra không biết bao nhiêu điều xấùu xa. Tiếng đồn đại khắp nước. Thượng bất chính, hạ tắc loạn. Vì vậy các bậc thầy, các bậc cha mẹ không thể nào dạy dỗ được con em . Trong dân chúng, gia đình hôi lẫm, ngoài hương đảng kỷ cương không còn. Dần dần đất nước nảy sinh ra bọn trốn chúa, lộn chồng, bọn gian manh, bọn trộm cướp.
Trước đây, Lê thị gian dâm với ác nhân Đỗ Anh-Vũ, giết hại tôn thất, trung thần, dân chúng, chỉ với mục đích làm vui lòng y. Sau thị còn manh tâm cướp ngôi vua, đưa Anh-Vũ lên kế vị. Để thực hiện mưu gian, tên họ Đỗ với Lê thị sai người đem vàng bạc sang hối lộ cho bọn tham quan Tống triều, để chúng tâu với Thiệu-Hưng phong cho Đỗ làm vua. Mưu gian này chúng ta biết rất rõ, nên đã ra tay trừ gian đảng Đỗ Anh-Vũ.
Không ngờ Đỗ chết rồi, Lê thị càng lộng hành hơn. Biết rằng võ lâm không can thiệp đến những gì xẩy ra trong Hoàng-thành, thị gian dâm với tên Lưu Kỳ, một viên quan Tống triều, rồi cũng định phế con đẻ của mình, cho tình nhân lên thay. Than ôi !
"Dữ như hùm, cũng không thể ăn thịt con. Độc như rắn, mà không cắn đồng loại".
Nay Lê thị muốn giết con, mưu dâng nước cho kẻ gian, thì thực là dữ hơn hùm, độc hơn rắn.
Sự đã như vậy, thì chúng ta không thể ngồi yên. Thế đã đến thế, thì ta chẳng thể nhịn.
Nay ta ra tay :
Trước giết ba họ Lê thị, sau giết cả nhà cái mà Lê thị gọi là Nùng-sơn tam anh, Tô-lịch nhị tiên. Còn Lê thị, thì ta lên án treo : Phải ra khỏi Đại-Việt, bằng không ta sẽ làm cho có mắt mà không thấy vạn vật, có lưỡi mà không nói được, có chân mà không thể đi, có tay mà không thể cầm.
Còn bọn Lưu Kỳ, Ngô Giới, vì ăn cơm vua, mà phải sang Đại-Việt mưu sự chiếm nước ta, thì ta tha cho. Tự hậu, còn bước chân sang Đại-Việt, ta sẽ xử cỡi ngựa gỗ, và sang tận Tống, giết cả nhà.
Trước đây, ta đã ra tay trừng phạt Mao Khiêm mà không giết, lẽ thứ nhất bởi y là người của phái Đông-a. Lẽ thứ nhì, y là người Tống, ăn cơm Tống chúa mà sang đây, thì cũng có chỗ châm trước.Không ngờ, y cùng bọn Nùng-sơn tam anh, Tô-lịch nhị tiên gây ra không biết bao nhiêu án mạng. An mạng quan trọng nhất là ám toán đại sư Khánh-Hỷ, đoạt cuốn phổ chép Thiền-công Vô-nhân tướng. Quan trọng bậc nhì là sát hại Nghi-Hòa sư thái, đại hiệp Đặng Phi-Sơn, đoạt cuốn phổ chép võ công trấn môn của phái Mê-linh, và Tản-viên. Nay ta để đại hiệp Tự-Kinh thanh lý môn hộ, lấy lại các cuốn phổ chép võ kinh cho phái Tiêu-sơn, Mê-linh Tản-viên.
Niên hiệu Đại-Định thứ 22 mùa Thu tháng chín, ngày Vọng.
Côi-sơn song ưng.
Bọn Nùng-sơn tam anh, Tô-lịch nhị tiên cùng rút kiếm ra khỏi vỏ, rồi nói lớn :
- Côi-sơn song ưng ! Nếu hai đứa bay có còn là anh hùng thì hãy xuất hiện cùng ta đấu ít nghìn chiêu.
Bình, bình, cửa sổ bật tung, rồi hai cái túi rơi trước mặt Cao Nhị, Đỗ Anh-Hào. Hai người vung kiếm lên, hai cái túi bị xẻ làm đôi, trong mỗi túi có một số đầu người rơi ra. Đó là đầu của cha, mẹ, vợ, con chúng.