watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
23:36:1826/06/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Tam Quốc Chí - Trang 38
Chỉ mục bài viết
Tam Quốc Chí
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Trang 37
Trang 38
Trang 39
Trang 40
Trang 41
Trang 42
Trang 43
Trang 44
Trang 45
Trang 46
Trang 47
Trang 48
Trang 49
Trang 50
Trang 51
Trang 52
Trang 53
Trang 54
Trang 55
Trang 56
Trang 57
Trang 58
Trang 59
Trang 60
Trang 61
Trang 62
Trang 63
Trang 64
Trang 65
Trang 66
Trang 67
Trang 68
Trang 69
Trang 70
Trang 71
Trang 72
Trang 73
Trang 74
Trang 75
Trang 76
Trang 77
Trang 78
Trang 79
Trang 80
Trang 81
Trang 82
Trang 83
Trang 84
Trang 85
Trang 86
Trang 87
Trang 88
Trang 89
Trang 90
Trang 91
Trang 92
Trang 93
Trang 94
Trang 95
Tất cả các trang
Trang 38 trong tổng số 95
 
Hồi Hai Mươi Hai -  Tam Quốc Chí  -  La Quán Trung

    Viên, Tào Khởi Ba Quân Mã Bộ
    Quan, Trương Bắt Hai Tướng Vương, Lưu
Nhắc lại, Trần Ðăng hiến kế cho Huyền Ðức rằng:

       - Tào Tháo chỉ sợ Viên Thiệu. Hiện Thiệu như con hổ chiếm cứ bốn châu Tinh, U, Thanh, Ký. Quân giáp sĩ có tới một trăm vạn, văn quan võ tướng rất nhiều, thế lực rất mạnh. Sao Sứ quân không sai người sang đó cầu cứu?

        Huyền Ðức phân vân nói:

       - Thuở nay ta không qua lại với người, phần ta mới hại em người, có lý nào người lại chịu giúp ta.

        Trần Ðăng nói:

       - Ỷ đây có một người thông gia với Viên Thiệu đã ba đời rồi, nếu được bức thư của người ấy, ắt Viên Thiệu không nỡ từ chối.

        Huyền Ðức hỏi:

       - Người nào thế?

        Trần Ðăng đáp:

       - Người này chính là người vẫn được Sứ quân trọng đãi kính lễ hàng ngày đó.

        Huyền Ðức chợt nhớ ra:

       - Là Trịnh Khanh Thành tiên sinh phải không?

        Trần Ðăng cười đáp:

       - Chính phải.

        Nguyên Trịnh Khanh Thành tức là Trịnh Huyền, từ nhỏ có tài và hiếu học, từng thụ nghiệp Mã Dung. Mỗi khi Mã Dung ngồi giảng bài thì buông trướng đỏ. Phía ngoài học trò ngồi, phía trong thì đoàn con hát hầu vui. Những cô hầu gái thì đứng hai bên. Trịnh Huyền học với thầy suốt ba năm mà luôn luôn nhìn thẳng, không bao giờ nghiêng mắt liếc ngang một cái. Mã Dung lấy làm lạ, lòng khen thầm. Khi thành tài, Huyền xin nghỉ trở về. Mã Dung than rằng:

       - Hết thẩy học trò của ta, chỉ có một mình Trịnh Huyền lãnh hội được cái học bí truyền của ta!

        Trong nhà Trịnh Huyền, ai cũng biết chữ. Ðến lũ đầy tớ gái cũng thông thuộc Kinh Thi. Một hôm có con hầu ăn nói thất thố làm trái ý Huyền, Huyền bắt quỳ dưới thềm rất lâu. Một con khác đi qua trông thấy, hỏi đùa bớn rằng:

       - Vì sao mà sa vào chỗ bùn lầy như vậy? (1)

        Con hầu bị phạt đám ngay:

       - Chợt khi lỡ lời, gặp phải lúc ông ấy đang giận. (2)

        Ấy, đại để nếp nhà phong nhã như thế. Ðời Hoàn Ðế, Huyền làm quan đến chức Thượng Thư. Sau gặp loạn Thập Thường Thị, Huyền bỏ quan, về làm ruộng ở Từ Châu.

        Khi Huyền Ðức còn ở Trác quận, đã có học với Trịnh Huyền, đến khi làm quan Mục Từ châu vẫn thường đến nhà thỉnh giáo và kính lễ rất hậu.

        Bấy giờ Huyền Ðức nhớ ra, mừng lắm, bèn hiệp với Trần Ðăng đến nhà Trịnh Huyền nhờ viết thư.

        Trịnh Huyền khẳng khái nhận lời, viết một phong thư giao cho Huyền Ðức. Huyền Ðức liền sai Tôn Càn đi suốt đêm đem qua Hà Bắc.

        Viên Thiệu xem thư xong, nghĩ thầm:

       - Huyền Ðức đã hại em ta, lẽ nào ta lại giúp hắn, ngặt vì có thư của Trịnh Thượng thư, nếu không đi thì không được.

        Viên Thiệu liền triệu tập hết các quan văn võ để bàn việc hưng binh đánh Tào Tháo.

        Mưu sĩ Ðiền Phong can rằng:

       - Binh chinh chiến luôn mấy năm, bá tánh đều khổ cực, kho đụn thiếu hụt rồi. Nay không thể khởi đại binh được nữa. Chỉ nên trước sai người về Kinh dâng tin thắng trận lên Thiên Tử. Nếu không báo tiệp được thì hãy dâng biểu kể tội Tào Tháo ngăn đường không cho ta phò Vua. Rồi sau này đem binh ra đóng Lê Dương, tăng thêm chiến thuyền dàn ở Hà Nội, sửa sang khí giới, chia quân tinh nhuệ đi đóng chẹn các chỗ biên giới. Như thế, trong vòng ba năm, việc lớn ắt thành.

        Mưu sĩ Thẩm Phối nói:

       - Không được! Với tài thần võ của Minh công, lại thêm đất Hà Bắc cường thịnh này thì hưng binh đánh giặc Tào dễ như trở bàn tay. Việc gì phải chờ đợi dềnh dang ngày này qua tháng khác?

        Mưu sĩ Thư Thụ lại nói:

       - Cái sách lược chế thắng không phải ở sự cường thịnh. Vả lại Tào Tháo giỏi thi hành pháp lệnh, quân sĩ tinh luyện, không như hạng Công Tôn Toản ngồi một xó chịu khốn. Nay nếu bỏ cái kế hay "báo tiệp tâu công" mà đi khởi quân vô danh nghĩa, thiết nghĩ Minh công không nên làm.

        Nhưng mưu sĩ Quách Ðồ nói:

       - Nói thế là sai! Ðem binh đánh Tào Tháo, sao gọi là vô danh? Lúc này, Minh công nên kịp thời mưu đại nghiệp. Xin thể theo lời Trịnh Thượng thư, hợp cùng Lưu Bị, nêu cao đại nghĩa, tiêu diệt giặc Tào, trên hợp ý trời, dưới hợp lòng dân. Thực là cơ hội rất tốt.

        Thế là bốn mưu sĩ tranh luận giằng co, Viên Thiệu trù trừ chưa biết quyết định ra sao? Bỗng lại có hai mưu sĩ Hứa Du, Tuân Thầm từ bên ngoài bước vào. Thiệu nói:

       - Hai người này có nhiều kiến thức đây. Thử hỏi xem chủ trương thế nào?

        Hai người vào thi lễ xong, Thiệu hỏi:

       - Có Trịnh Thượng thư gửi thư đến đây, bảo ta giúp Lưu Bị đánh Tào Tháo. Vậy nên khởi binh hay không khởi binh?

        Hai người đồng thanh thưa:

       - Minh công lấy nhiều phục ít, lấy mạnh đánh yếu, đánh giặc nhà Hán để phò nhà Hán. Nên khởi binh lắm!

        Viên Thiệu cười nói:

       - Lời hai ngươi nói rất hợp ý ta!

        Liền viết một phong thư phúc đáp, sai Tôn Càn trở về trao cho Huyền Ðức, hẹn chuẩn bị sẵn sàng tiếp ứng.

        Sau đó, Viên Thiệu sai Thẩm Phối và Phùng Kỷ làm Thống quân; Ðiền Phong, Tuân Thầm, Hứa Du làm mưu sĩ, còn Nhan Lương và Văn Xú làm Tướng quân, khởi mười lăm vạn mã quân, mười lăm vạn bộ quân, cộng hết là ba mươi vạn tinh binh, nhằm hướng Lê Dương tiến phát.

        Thiệu phân phát xong rồi, Quách Ðồ tiến lên nói:

       - Nay Minh công lấy đại nghĩa mà đánh Tào Tháo. Vậy phải làm hịch loan truyền trong nhân dân, hài tội của Tháo, làm cho rõ cái lẽ khiến ta khởi binh, để cho danh chánh ngôn thuận thì mới có thêm uy lực.

        Thiệu nghe lời, sai viên thư ký Trần Lâm thảo tờ hịch.

        Nguyên Trần Lâm tự Khổng Chương, tài văn nổi tiếng. Thời Hoàn Ðế đã làm quan Chủ Bạ, vì can ngăn Hà Tiến không được, rồi gặp loạn Ðổng Trác, chạy loạn lên Ký Châu, được Viên Thiệu dùng làm Ký Thất. Bấy giờ Trần Lâm vâng lệnh cầm bút thảo ngay một bài hịch.

        Hịch văn như sau:

 

        Thường nghe rằng: bậc minh chúa gặp nguy mà chế biến, kẻ trung thần lo nạn nước mà tùng quyền. Cho nên, có người phi thường rồi sau mới có việc phi thường. Có việc phi thường rồi mới có công lao phi thường. Người phi thường ấy không phải ai cũng có thể bắt chước làm nổi.

        Xưa kia, nhà Tần mạnh gặp lúc vua yếu, Triệu Cao nắm hết quyền bính, chuyên chế việc triều đình, tự mình tác oai tác phúc. Thiên hạ nhiều người oán hận nhưng không ai dám nói gì. Thế mà rồi hắn cũng chết thảm ở cung Vọng Di, tổ tông mang tiếng ô nhục, để tiếng xấu lưu muôn đời.

        Cho đến cuối đời bà Lã hậu, hai tên Sản, Lộc chuyên chính, bên trong giữ cả hai quân, bên ngoài thống chế hai nước Lương, Triệu, lạm quyền quốc sự, quyết việc nơi Cấm đình, dưới lăng loàn, trên suy yếu, bốn bể ai cũng đau lòng. Vì thế Dáng Hầu (3) với Chu Hư Hầu (4) mới hưng binh phẫn nộ, tru di quân nghịch bạo, tôn lập đức Thái Tông (5) làm hưng thịnh lại Vương đạo, bốn cõi quang minh rực rỡ. Ðó là cái gương lớn: Ðại thần tùng quyền vậy.

        Ngày nay có viên Tư Không Tào Tháo làm càn. Ông nó tên Ðằng, làm Trung Thường Thị, đã từng thông với bọn Tả Quản, Từ Hoàng làm điều yêu nghiệt, tham tàn càn rỡ, tổn thương phong hóa, tàn ngược nhân dân.

        Cha nói tên Tung, vốn con nhà ăn mày được dắt về nuôi, nhờ có của tiền mua lấy chức vị, xe vàng khiêng ngọc đút lót chỗ quyền môn, trộm cắp đỉnh tư, làm nghiêng đổ đồ quốc bảo.

        Ðến nó tên Tháo, con thằng tôi tớ, cháu tên quan hoạn, nên chẳng có nết na gì, tai quái luông tuồng, ham loạn lạc, vui trong tai vạ của nước non.

        Mạc phủ (6) đây, đổng thống quân ưng dương, tảo trừ lũ hung nghịch. Gặp hồi Ðổng Trác cướp quyền hại nước, đã vung gươm khua trống, truyền lệnh ra Ðông Hạ, chiêu tập anh hùng, không kể người xấu nết hèn, chỉ cốt dùng lấy việc, nên mới để Tào Tháo được cùng mưu việc, cho giữ một cánh quân, tưởng rằng chim ưng, chó săn cũng có chút tài khả dụng.

        Không ngờ Tháo là đứa ngu si dốt nát, tiến liều lui bậy, làm tổn quân mã, mất cả nhuệ khí ba quân. Mạc phủ lại phải rèn luyện lại quân binh, sửa sang quân ngũ, rồi tâu xin cho nó sang Ðông quận làm Thứ Sử Duyện châu. Thân dê đội lốp cọp, nắm được quyền hành, những tưởng rồi nó sẽ đem thân khuyển mã để báo được trận thua khi trước như quân Tần báo thù Tấn.

        Thế mà nó nhân được thể, dám làm trò lợn vượt qua rào, hung hăng tàn bạo, chiếm cứ liên miên, hại người hiền, giết người ngay. Quan cố Thái Thú Cửu Giang Biên Nhượng là bậc anh tài tuấn vĩ, thiên hạ đều biết tiếng, nhìn ngay nói thẳng, không lời dua nịnh, mà cũng bị nó giết hại, đầu bêu ngọn giáo, vợ con bị nạn diệt vong. Từ đó khắp kẻ sĩ ai ai đều tức giận, nhân dân chốn chốn càng xót xa căm hờn. Một người vung cánh tay, trăm họ cùng hưởng ứng, nên quân nó bị phá ở Từ Châu, đất nó mất về tay Lữ Bố. Thân nó bơ vơ nơi cõi Ðông, không biết nương tựa vào đâu?

        Mạc phủ nghĩ đến nghĩa "cành mạnh nâng đỡ nhánh mềm", vả cũng vốn không dung đảng giặc, cho nên lại giương cờ, mặc giáp, gióng trống, khua chiêng đem quân tới cứu nó và đánh quân Lữ Bố tan vỡ, cứu cho nó khỏi cái nạn tử vong, lại phục hồi cho nó cái địa vị phương bá. Thế thì, Mạc phủ tuy không có công đức gì với trăm họ Duyện Châu nhưng đã làm phúc lớn cho Tháo lắm vậy.

        Về sau, khi loan giá về Ðông Ðô, bị lũ giặc theo cướp, bấy giờ Ký Châu đang có việc cảnh cấp ở phía Bắc, Mạc phủ chưa thể rời ra được, nên đã sai quan tùng sự Trung lang Từ Huân đến truyền cho Tháo phải vào mà sửa sang chốn tôn miếu, giúp đỡ ấu quân. Thế mà Tháo nó dám rông rỡ làm càn, hiếp vua dời giá ra chỗ khác. Nó khinh nhờn vương thất, làm bại hoại pháp chế, rối loạn kỷ cương, ngồi khuynh loát cả Tam đài, chuyên chế hết cả triều chính, muốn thưởng ai mặc lòng, muốn giết ai cứ nói. Yêu ai thì làm rạng tới ba đời, ghét ai thì giết cả ba họ. Ai tụ tập luận bàn thì bị chém công khai. Ai bí mật dị nghị thì bị giết thầm lén. Trăm quan phải ngậm miệng, người đi đường chỉ đưa mắt cho nhau, không ai dám nói tiếng nào. Chức Thượng Thư chỉ còn biết ghi chép buổi triều hội Công Khanh, ngồi đứng cho có vị. Như cố Thái úy Dương Bưu, trải coi hai Ty, ở địa vị nhất phẩm quốc gia, thì Tháo gườm mắt căm ghét, vu oan tội tình, đánh đập thảm thương, tước hết chức quyền, đuổi ra điền lý. Tháo đã tự ý làm càn, không thèm coi hiến cương ra gì nữa. Văn nghị lang Triệu Ngạn, lòng trung nói thẳng, nghĩa ấy đáng khen, Thánh triều nghe hợp đạo, long nhan vui tươi, gia thưởng tước lộc. Tháo liền ganh tỵ, mê đoạt Thánh minh, chặn lắp đường lối, không cho ai vào chầu Vua, rồi tự tiện bắt Ðại thần, không tâu mà giết, Vua chẳng biết gì.

        Lại như Lương Hiếu Vương là anh em cùng mẹ với Ðức Tiên Ðế, lăng tẩm tôn quý, dẫu đến cây dâu cây tử, gốc bá cành tùng cũng đáng được kính trọng thay, thế mà Tháo nó thân đem tướng sĩ quân lính đến khai quan quật mộ, phơi thây giữa trời, cướp lấy vàng bạc châu báu, đến nay Thánh triều còn chưa ráo lệ, sĩ dân vẫn còn đau lòng (7). Nó lại còn đặt ra chức Trung lang tướng đào mả, chức Hiệu úy bại vàng, đi đến đâu tàn hại đến đó, dẫu người chết nằm dưới đáy mồ vẫn không tha, biết bao nhiêu hài cốt bị bươi móc lồ lộ giữa trời.

        Thân ở ngôi Tam công mà nó quen thói trộm cướp, làm nhơ cả nước, làm nhục muôn dân, gây vạ độc địa cho cả vong hồn người chết. Chính sự nó thì tinh ranh thảm khắc, điều luật bầy ra trói buộc khắp mặt, cạm bẫy chăng đầy đường khắp lối, khiến ai nấy giơ tay đụng phải lưới, bước chân mắc phải tròng. Cho nên dân vô tội hai xứ Duyện, Dự đau khổ lầm than, tiếng rên la thấu chốn Ðế Ðô rất là ai oán. Trải xem sử sách cổ kim, những kẻ làm tôi tham tàn khốc liệt cũng nhiều, nhưng không kẻ nào tai hại bằng tên Tháo ngày nay nữa.

        Mạc phủ đang bận hỏi tội đứa ngoại gian, chưa kịp răn trách đến nó tức là còn nấn ná rộng dung, tưởng nó sẽ sửa lầm, cải lỗi đi chăng? Thế mà nó vẫn lòng lang dại sói, manh tâm gây vạ, muốn đạp đổ rột rường, làm cho nhà Hán thế cô sức yếu. Nó hãm hại người trung, chính là nó muốn củng cố địa vị độc tài để được tự làm ác như con cú độc vậy.

        Trước đây, Mạc phủ gióng trống Bắc chinh, trừ tên giặc dữ Công Tôn Toản, phải cầm vòng vây một năm trời, Tháo nhân lúc quân giặc chưa tan, dám ngầm mưu thông với giặc, đưa thư hẹn họp, ngoài mặt giả cách giúp vua, trong lòng rình toan đánh úp. May được kẻ đưa thư tiết lộ, giặc Toản bị bêu đầu, và nọc độc của tên Tháo phải rụt lại, chẳng mưu được điều bội nghĩa. Ngỡ thế là yên, ngờ đâu nó lại dám đóng chẹn Ngao thương, ngăn sông gây việc, toan đem đôi càng con bọ ngựa để cản bánh Long xa!

        Mạc phủ nay phụng oai linh nhà Hán đi dẹp bốn phương. Quân có kích dài trăm vạn ngọn, ngựa khỏe nghìn đàn, phấn khích tinh thần như tráng sĩ, sức lực tựa Hoàng, Dục, Hoạch (8), vương thế mạnh nỏ cứng, cung bền. Quân đội Tinh châu vượt núi Thái hàng mà đi. Binh mã Thanh Châu lội ngang sông Tế, Tháp mà tại (9). Ðại quân băng qua sông Hoàng hà đánh mặt trước, quân Kinh châu lại tiến vào đất Uyển, Diệp đánh mặt sau. Thế mạnh như sấm ran cọp đuổi vào ổ giặc, thì khác gì nổi lửa lớn mà đốt mớ cỏ khô, dốc nước biển cả để tưới lò than nhỏ! Giặc Tháo thế nào mà chẳng bị tiêu diệt?

        Vả lại những quân sĩ của Tháo có thể đánh trận được, đều là những người quê quán ở hai châu U, Ký bị bắt buộc mà phải theo. Ai ai cũng có bụng oán, muốn về quê hương, ứa nước mắt trông về phương Bắc. Ngoài ra, những người Duyện, Dự đều là những quân sĩ của Lữ Bố, Trương Dương còn sót lại, vì bị ức hiếp, tạm thời đi theo, cánh quân nọ thù ghét cánh quân kia, sẵn sàng trở giáo. Nếu ta lên gò cao đánh trống, phất cờ trắng để mở đường cho họ về hàng, tất họ sẽ bỏ chỗ tối, tìm chỗ sáng. Chỉ một trận thì như đất lở ngói tan, không cần phải đâm chém đổ máu.

        Hiện nay nhà Hán suy vi, cương duy lỏng lẻo, Thánh triều không có một người nào giúp, tay chân như bị trói, không thể nào vùng vẫy được. Ỷ đất trực thuộc triều đình, những vị giản luyện đều phải cúi đầu xếp cánh, không thể trông cậy vào ai. Tuy có kẻ sĩ trung nghĩa, nhưng bị loạn thần bạo ngược hiếp chế, thì còn phát triển khí tiết của mình làm sao? Hơn nữa, Tháo nó sai hơn bảy trăm tinh binh tay chân ngày đêm vây kín cung khuyết, ngoài mặt giả làm quân túc vệ, kỳ thực là giam cầm nhà Vua.

        Mạc phủ sợ rằng cái mầm phản nghịch từ đó mỗi lúc một nẩy nở thêm, lúc này là lúc kẻ trung thần phải đem gan óc báo đền, là cơ hội để các liệt sĩ lập công báo quốc. Há chẳng nên cùng hết sức ru?

        Tháo nó lại hay giả thác chiếu Vua, sai đi gọi binh các nơi tiếp viện. Sợ rằng các châu quận ở xa không rõ mưu gian, lại tưởng rằng lệnh Thiên Tử thực mà giúp lầm kẻ nghịch, thì hóa ra theo giặc phản Vua, mất hẳn danh nghĩa, để tiếng cười cho thiên hạ sau này. Vậy mà những bậc khôn ngoan ắt không làm như thế!

        Nay mai quân Tinh, U, Thanh, Ký, bốn châu cùng tiến (10). Thư đưa tới Kinh Châu mời cùng ra binh với Kiến Trung tướng quân hợp làm thanh thế (11). Các châu quận hãy chấn chỉnh nghĩa binh, liên lạc với nhau nơi cảnh giới, thị vũ dương uy, cùng khuông phò xã tắc, thế là cái công phi thường đã rõ rồi vậy.

        Ai lấy được thủ cấp Tào Tháo sẽ được phong Hầu năm mươi vạn hộ, thưởng tiền năm mươi vạn.

        Những Thiên, Tỳ, Tướng, Hiệu& ai đem quân đến hàng, đều không bị hỏi han gì cả. Ta sẵn sàng mở rộng đường ân tín, ban thưởng tuyên dương cho ngay.

        Nay làm tờ hịch này bố cáo khắp thiên hạ, để bốn phương biết rằng Thánh triều đang bị cái nạn câu thúc nguy cấp! 

        Viên Thiệu xem xong tờ hịch thì mừng lắm, liền sai người đi đưa đến các châu quận, và yết thị ở bến đò, treo dán khắp các cửa ải.

        Tờ hịch truyền lan tới Hứa Ðô, bấy giờ Tào Tháo đang bị cảm gió nhức đầu, nằm trên giường dưỡng bệnh. Tả hữu đem vào trình, Tháo xem xong, rợn tóc rùng mình, mồ hôi ra như tắm, bất giắc thấy hết nhức đầu, ngồi phắt dậy, nhảy xuống đất, quay hỏi Tào Hồng:

       - Có biết ai làm bài hịch này không?

        Hồng thưa:

       - Nghe đâu Trần Lâm chủ bút.

        Tháo cười bảo:

       - Tài văn còn phải có võ lược đi kèm nữa chứ! Văn Trần Lâm hay, nhưng võ Viên Thiệu kém thì sao?

        Nói rồi liền họp các mưu sĩ bàn việc nghênh địch. Khổng Dung hay được việc ấy liền ra mắt Tào Tháo mà can rằng:

       - Viên Thiệu thế lực đang mạnh, không nên đánh với hắn, xử hòa thì hay hơn.

        Tuân Húc nói:

       - Viên Thiệu là đồ vô dụng, hà tất phải dụng hòa?

        Dung nói:

       - Viên Thiệu có đất rộng dân cường. Bộ hạ như Hứa Du, Quách Ðồ, Thẩm Phối, Phùng Kỷ đều là những kẻ sĩ trí mưu. Ðiền Phong, Thư Thụ là những trung thần. Nhan Lương, Văn Xú đều là những võ tướng dũng lược quán tam quân. Ngoài ra bọn Cao Lâm, Trương Cáp, Thuần Vu Quỳnh đều là những danh tướng đời nay. Sao bảo Thiệu là kẻ vô dụng được?

        Húc cười, nói:

       - Quân Thiệu nhiều, nhưng không chỉnh. Ðiền Phong tính cương mà hay phạm thượng. Hứa Du tham lam mà không có trí. Thẩm Phối tự chuyên mà vô mưu. Phùng Kỷ tính quả quyết nhưng vô dụng. Mấy kẻ ấy không thể dung được nhau, ắt sinh nội biến. Còn Nhan Lương, Văn Xú chỉ có cái sức khỏe của kẻ thất phu, đánh một trận có thể bắt được. Ngoài ra là những bọn lau nhau, lúc nhúc, dẫu có trăm vạn đi nữa đáng kể làm gì?

 


HOMECHAT
1 | 1 | 158
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com