watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
16:41:5018/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Tam Quốc Chí
Chỉ mục bài viết
Tam Quốc Chí
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Trang 37
Trang 38
Trang 39
Trang 40
Trang 41
Trang 42
Trang 43
Trang 44
Trang 45
Trang 46
Trang 47
Trang 48
Trang 49
Trang 50
Trang 51
Trang 52
Trang 53
Trang 54
Trang 55
Trang 56
Trang 57
Trang 58
Trang 59
Trang 60
Trang 61
Trang 62
Trang 63
Trang 64
Trang 65
Trang 66
Trang 67
Trang 68
Trang 69
Trang 70
Trang 71
Trang 72
Trang 73
Trang 74
Trang 75
Trang 76
Trang 77
Trang 78
Trang 79
Trang 80
Trang 81
Trang 82
Trang 83
Trang 84
Trang 85
Trang 86
Trang 87
Trang 88
Trang 89
Trang 90
Trang 91
Trang 92
Trang 93
Trang 94
Trang 95
Tất cả các trang
Trang 1 trong tổng số 95

Hồi Thứ Nhất   -    Tam Quốc Chí   -   La Quán Trung

Hội Ðào Viên Anh Hùng Kết Nghĩa
Ðánh Huỳnh Cân Hào Kiệt Lập Công

Phàm thế cuộc trong thiên hạ (1), chia rồi lại hợp, hợp rồi lại chia. Tỷ như nhà Châu mất vận, bảy nước phân tranh, sau đó nhà Tần lại gồm thâu về một mối. Rồi khi nhà Tần bị diệt vong, để cho Hán, Sở tranh hùng, và cuối cùng Hán đã diệt Sở để thu về một mối.

Nhà Hán kể từ vua Cao Tổ là Lưu Bang trảm xà khởi nghĩa thống nhất được thiên hạ, giữ lấy ngai vàng cho Ðến khi vua Quang Vũ là Lưu Tú quật khởi, giết loạn thần là Vương Mãng, phục hưng cho nhà Hậu Hán (2), rồi truyền Ðến đời vua Hiến Ðế thì bị chia làm ba nước. Cái nguyên do rối loạn sau này là do tới hai ông vua Hoàn Ðế và Linh Ðế.

Vua Hoàn Ðế giam cầm các bề tôi trung trực, lại tin dùng bọn hoạn quan, làm cho thế nước bị suy vi. Khi vua Hoàn Ðế băng hà, vua Linh Ðế lên nối ngôi, có quan Ðại Tướng Quân Ðậu Vũ và quan Thái Phó Trần Phồn cùng giúp việc trị nước. Hai vị tôi thần nầy vốn một lòng trung nghĩa, nhưng bên cạnh lại có bè lũ hoạn quan Tào Tiết chuyên quyền làm bậy. Ðậu Vũ và Trần Phồn lập mưu tru diệt bọn này để trừ tai họa cho nước, chẳng may cơ mưu bị bại lộ, hai vị tôi thần nầy đều bị chúng hãm hại.

Từ đó, bọn hoạn quan càng lộng quyền, chúng liên kết với loạn thần tác yêu, tác quái.

Năm Kiến Ninh thứ hai (niên hiệu của vua Linh Ðế), tháng tư ngày rằm, nhà vua ngự ra điện Ôn Ðức, vừa ngồi xuống ngự ỷ, bỗng có một trận cuồng phong rất lớn nổi lên, rồi một con rắn xanh to tướng từ trên sà ngang cung điện rơi xuống nằm ngang trên ngự ỷ. Vua thất kinh ngã lăn ra bất tỉnh, các quan hầu cận phải đưa vua vào nội cung cứu cấp.

Nhưng chỉ trong giây lát, con rắn biến đi đâu mất, trời lại nổi lên một trận cuồng phong dữ dội, mưa tuôn như trút nước. Kế đó, mưa đá lại rơi theo tới hơn nửa ngày, nhà cửa bị hư sập vô số.

Vào tháng hai, năm Kiến Ninh thứ tư, kinh đô Lộc Dương lại bị động đất, rồi nước biển dâng lên tràn ngập cả một miền duyên hải. Dân cư, làng mạc, của cải bị sóng cuốn ra khơi mất tích.

Cũng vào đời vua Linh Ðế, vào năm Quang Hòa thứ nhất, tại một vùng thôn dã, có một con gà mái hóa gà trống, rồi đến ngày mồng một tháng sáu, một luồng hắc khí dài hơn mười trượng bay thẳng vào điện Ôn Ðức.

Cũng vào mùa thu năm đó, trước nhà Ngọc Ðường bỗng hiện lên một cầu vồng sáng chói. Sườn núi Ngữ Nguyên bị sụp lở, đất đá đè chết người.

Chỉ trong thời gian mấy năm mà không biết bao nhiêu sự việc ly kỳ xảy ra. Vua buồn bã hạ chiếu hỏi các quan triều thần tới sao có những hiện tượng quái gở như vậy?

Quan Nghị Lang Thái Ung dâng sớ tâu, đại ý nói: "Rắn sa, gà mái hóa gà trống là điềm đàn bà và hoạn quan làm loạn nước..."

Lời tâu rất thống thiết, khiến nhà vua xem xong cũng phải não lòng. Vua chỉ thở dài rồi quay vào thay áo.

Bấy giờ Tào Tiết đứng núp đằng sau vua, xem trộm được tờ biểu, thấy thế tức giận vô cùng, liền bàn mưu với bè đảng của hắn, lập kế gieo tội cho Thái Ung, và cách chức đuổi Thái Ung về làm thứ dân nơi điền lý.

Sau đó bọn Trương Nhượng, Triệu Trung, Phong Tư, Tào Tiết, Hầu Lãm, Kiển Thạc, Trình Khoáng, Hạ Huy, Quách Thắng, tất cả mười người họp nhau xưng là "Thập Thường Thị" chuyên làm điều gian ác.

Vua Linh Ðế lại nhu nhược, tin dùng Trương Nhượng như một kẻ tôi trung, việc triều chính đều giao cho Trương Nhượng quyết đoán, Ðến nỗi kêu Trương Nhượng bằng "Á phụ".

Triều đình càng bê tha thối nát, lòng người muốn nổi loạn, giặc giã khắp nơi dấy loạn lên như ong vỡ tổ.

Bấy giờ, tại quận Cự Lộc có ba anh em họ Trương là Trương Giác, Trương Bảo, và Trương Lương. Trương Giác thi hỏng Tú Tài, không quản đèn sách nữa, ngày ngày vào núi hái thuốc. Bỗng một hôm, Trương Giác gặp một ông lão mặt đỏ như hài đồng, mắt xanh như nước biếc, tay chống gậy lê, kêu Trương Giác vào một hang núi, rồi trao cho ba quyển "thiên thư" và dặn:

- Ðây là bộ "Thái bình yêu thuật" ta ban cho con để học. Học được sách này, con phải thay trời mà tuyên hóa, cứu dân độ thế. Còn nếu manh tâm đổi dạ thì sẽ gặt lấy quả báo không nhỏ.

Trương Giác tiếp lấy Thiên thư, bái tạ rồi yêu cầu xin được biết tên ông lão. Ông lão nói:

- Ta chính là Nam Hoa Lão Tiên đây.

Dứt lời hóa thành luồng gió mát bay đi mất.

Trương Giác được bộ sách ấy, ngày đêm tập luyện, chẳng bao lâu đã biết cách kêu mưa gọi gió, và tự xưng hiệu là "Thái Bình đạo nhân".

Vào tháng giêng năm Trung Bình thứ nhất (cũng đời vua Linh Ðế), có bệnh thời khí nổi lên, lan rộng khắp vùng. Trương Giác đem bùa phép đi trị bệnh cho dâng gian, lấy hiệu là "Ðại Hiền lương sư". Lúc đó Trương Giác lại có dạy thêm được hơn năm trăm đồ đệ, cũng học rành phép bùa chú, nên cả thầy trò chia nhau vân du khắp nơi.

Thấy việc chữa bệnh của Trương Giác có hiệu quả, thiên hạ đồn ầm lên, và rủ nhau theo làm đồ đệ của Trương Giác mỗi ngày một đông thêm.

Trương Giác đem tất cả tín đồ trong thiên hạ chia ra làm ba mươi sáu phường, mỗi phường có hơn một vạn người, và có cử một viên Cừ Soái để cai quản. Rồi Trương Giác lại tự xưng mình là Tướng Quân, coi cả ba mươi sáu phường đó.

Chưa hết, Giác còn phao ngôn để mê hoặc dân chúng rằng: "Trời xanh đã chết, trời vàng nên lên thay. Ðến năm Giáp Tý, thiên hạ đại cát".

Giác lại truyền cho các tín đồ dùng đất sét trắng viết lên nơi cửa lớn hai chữ "Giáp Tý", và dân cư khắp tám châu: Thanh, U, Từ, Ký, Kinh, Dương, Duyện, Dự, ai muốn được hưởng phước phải viết danh vị "Ðại Hiền lương sư Trương Giác" mà thờ.

Trương Giác đã có ý làm phản, nên mật sai đồ đệ là Mã Nguyên Nghĩa đem vàng bạc gấm vóc vào triều lo lót với tên hoạn quan Phong Tư, để nhờ tên này làm nội ứng.

Trương Giác lại bàn với hai người em rằng:

- Cái khó đạt nhất là lòng dân. Nay dân đã thuận theo mình rồi, nếu không thừa cơ đoạt thiên hạ thì đáng tiếc lắm.

Rồi Trương Giác vội vã sắm cờ vàng, khăn vàng để hẹn ngày khởi sự. Giác sai một tên đệ tử là ựường Châu mang mật thư đưa cho Phong Tư, nhưng chẳng may Ðường Châu không thích hành động của Giác cho nên chạy thẳng vào tòa Thượng Thư cáo biến.

Thế là việc làm của Trương Giác bị bại lộ. Vua hay tin phản loạn liền triệu Ðại Tướng Quân Hà Tiến vào triều, truyền bắt Mã Nguyên Nghĩa đem chém, và hạ ngục cả gia quyến Phong Tư hơn ngàn người.

Trương Giác thấy vậy liền gấp rút khởi binh, tự xưng là Thiên Công Tướng Quân, phong cho Trương Bảo làm Ðịa Công Tướng Quân, Trương Lương làm Nhân Công Tướng Quân.

Giác lại rêu rao với bá tánh rằng: "Nay vận Hán đã hết, có đại thánh nhân xuất thế, ai nấy thuận trời theo chính, để hưởng thái bình an lộc."

Thế là khắp bốn phương có hơn bốn, năm mươi vạn người đội khăn Vàng hưởng ứng theo Trương Giác làm phản. Thế giặc rất mạnh, quan quân nghe gió đã chạy dài.

Hà Tiến liền tâu với vua cấp tốc sai sứ đến các Châu, Quận truyền lệnh phòng ngự, ngăn địch lập công. Ðồng thời sai Trung Lang Tướng Lư Thực, Hoàng Phủ Tung, và Châu Tuấn dẫn ba đội tinh binh chia ra làm ba đường dẹp giặc.

Bấy giờ, giặc Khăn Vàng một đạo do Trương Giác cầm đầu, kéo thẳng đến U Châu xâm lấn. Quan Thái Thú châu này là Lưu Yên vốn dòng tôn thất ở đất Cảnh Lăng, vùng Giang Hạ, là con cháu Lỗ Cung Vương nhà Hán.

Lưu Yên thấy tình thế khẩn trương vội triệu quan Hiệu Úy Châu Tĩnh vào bàn kế.

Châu Tĩnh nói:

- Quân giặc đông như nước lũ, quân ta ít không thể nào ngăn nổi. Minh công nên gấp rút chiêu mộ nghĩa binh mới giữ nổi Châu này.

Lưu Yên nghe lời liền treo bảng khắp nơi chiêu mộ nghĩa binh.

Ngày kia, bản văn đưa đến Trác Huyện, dân chúng ra xem đông nghịt. Trong số dân chúng ấy có một vị anh hùng tánh tình khoan hòa, ít nói, mừng giận không lộ ra sắc mặt, nhưng lại có chí lớn, thường kết giao với các anh hùng, hào kiệt trong thiên hạ. Người này mình cao tám thước, hai tai lớn như chày, môi đỏ như thoa son, họ Lưu tên Bị, tự là Huyền Ðức, vốn cháu chắt Trung Sơn Tĩnh Vương Lưu Thắng, tức dòng dõi vua Hiếu Cảnh Hoàng Ðế nhà Hán.

Nguyên trước kia, thời Hán Vũ Ðế, con trai Lưu Thắng là Lưu Trinh được phong tước Trác Lộc Ðình Hầu. Về sau, nhân một buổi tế tông miếu, Lưu Trinh vào dâng vàng hành lễ, chẳng may vàng sắc xấu, bị mất tước Hầu (3), và từ đấy con cháu mới có một chi dời về Trác Quận lập nghiệp.

Lưu Huyền Ðức tức là cháu Lưu Hùng, con Lưu Hoằng. Lưu Hoằng có thi đậu Hiếu Liêm, rồi làm chức Lại, nhưng mất sớm.

Huyền Ðức mồ côi cha, thờ mẹ rất có hiếu. Tánh ham đọc sách, nhưng nhà nghèo, Huyền Ðức phải làm nghề đóng dép, dệt chiếu để sinh sống. Nhà ông ở tới thôn Lâu Tang, phía Ðông Nam có một cây dâu rất lớn, cao hơn năm trượng, đứng xa trông như một chiếc lọng vậy.

Ðã có nhiều người đi qua trông thấy câu dâu kỳ dị ấy, từng nói:

- Nhà này ắt sanh quý tử.

Lúc còn nhỏ, Huyền Ðức thường chơi đùa với trẻ con trong làng, và thường đứng dưới gốc cây dâu mà nói:

- Tao làm Thiên tử, nên ngự cỗ xe có lọng nầy!

Người chú là Lưu Nguyên Khởi nghe nói thường mắng:

- Cháu chỉ nói bậy.

Tuy vậy, Nguyên Khởi cũng nói rằng:

- Thằng bé này phải là một người phi thường mai sau.

Nhân thấy nhà Huyền Ðức nghèo, Lưu Nguyên Khởi tìm cách giúp đỡ để Huyền Ðức ăn học. Năm Huyền Ðức mười lăm tuổi, được mẹ cho đi du học, thụ giáo Trịnh Huyền và Lư Thực, lại kết bạn với Công Tôn Toản.

Ðến nay, Huyền Ðức đã được hai mươi tám tuổi, và ngày hôm ấy, khi đọc bản chiêu quân của Lưu Yên, Huyền Ðức cảm khái thở dài một tiếng.

Bỗng nghe đằng sau có tiếng người nói lớn:

- Ðại trượng phu phải vì quốc gia mà ra sức, chứ than thở có ích gì?

Huyền Ðức quay đầu lại, thấy người vừa nói mình cao tám thước, mặt dữ như cọp, mắt ốc tròn xoe, hàm én râu hùm, tiếng nói rền như sấm. Biết không phải là người thường, Huyền Ðức liền hỏi thăm tên họ.

Người ấy đáp:

- Tôi họ Trương tên Phi, tự là Dực Ðức, ông cha mấy đời ở nơi Trác Quận nầy làm nghề bán rượu, mổ thịt, vì vậy tôi cũng có chú ít ruộng vườn, thích kết giao những anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, nay thấy ông xem bảng chiêu quân mà than thở nên hỏi thử một lời.

Huyền Ðức nói:

- Tôi vốn là người trong thân tộc nhà Hán, họ Lưu tên Bị, đáng lẽ trong lúc giặc "Khăn Vàng" dấy loạn cũng phải góp một phần cứu nước an dân, nhưng vì sức chưa làm được nên đau lòng than thở.

Trương Phi nói:

- Nhà tôi cũng có chút ít của cải, tôi muốn bỏ ra để tuyển mộ một đoàn hương dũng, rồi cùng ông cử đại sự, ông thấy có nên chăng?

Huyền Ðức rất mừng, nắm tay Trương Phi dắt vào trong quán rượu đàm đạo. Trong lúc hai người đang đối ẩm bàn thế sự thì bỗng thấy một đại hảo hán đẩy một chiếc xe để ngoài cửa rồi bước vào thét tửu bảo, nói:

- Ðem rượu thịt ra đây! Hôm nay ta uống say sưa cho một bữa để ngày mai đầu quân giết giặc.

Huyền Ðức liếc nhìn ra cửa thấy người này mình cao lớn chín thước, mặt đỏ như thoa son, mắt phượng mày ngài, tướng mạo đường đường, oai phong lẫm liệt.

Biết người ấy cũng là một cái thế kỳ nhân, nên Huyền Ðức vội đứng dậy tiếp mời vào ngồi chung bàn và hỏi thăm danh tánh.

Người ấy đáp:

- Tôi họ Quan tên Vũ, tự là Thọ Trường, sau đổi là Vân Trường, người đất Giải Lương, tỉnh Hà Ðông. Nhân vì vùng tôi ở có một tên thổ hào ỷ thế hiếp đáp dân lành, tôi nổi giận giết chết nó rồi bỏ đi lánh nạn. Tôi phiêu bạt trong giang hồ đã hơn năm năm, nay nghe có giặc "Khăn Vàng" nổi lên khấy nhiễu, nên muốn đầu quân trừ giặc, cứu an bá tánh.

Huyền Ðức cũng đem chí nguyện của mình tỏ bày. Vân Trường mừng rỡ uống ba chung rượu rồi theo Huyền Ðức và Trương Phi dắt nhau về trang trại để bàn bạc.

Trương Phi nói:

- Muốn làm nên việc lớn, cốt nhất phải hiệp sức đồng tâm mới được. Sau nhà tôi có một vườn đào đang tiết hoa nở rất nhiều, ngày mai chúng ta đến đó tế cáo trời đất, kết làm anh em.

Huyền Ðức và Vân Trường đồng thanh khen phải.

Ngày hôm sau, Trương Phi sai gia nhân mổ trâu đen, ngựa trắng bày đủ lễ trong vườn đào. Ba người đứng trước hương án, vái mỗi người hai cái rồi cùng thề rằng:

"Ba chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, tuy khác họ nhưng kết làm anh em, quyết đồng tâm hiệp lực, cứu khổn phò nguy, trên báo đáp quốc gia, dưới giúp yên bá tánh. Chúng tôi không mong được sanh cùng năm cùng tháng cùng ngày, chỉ nguyện được chết cùng ngày cùng tháng cùng năm. Hoàng thiên, hậu thổ chứng giám lời này. Ai bội nghĩa bị trời tru đất diệt."

Thề xong, ba người đem so tuổi nhau thì Huyền Ðức được làm anh cả, Vân Trường làm thứ, Trương Phi làm em út.

Trương Phi lại sai gia nhân bắt trâu dê trong chuồng đem mổ làm tiệc tới vườn đào, tập trung tất cả dũng sĩ trong vùng đến ăn uống. Dũng sĩ tề tựu có tới hơn ba trăm người, vui say một bữa thật no nê.

Hôm sau, mọi người chia nhau đi thu thập khí giới, mọi việc tạm yên, chỉ hiềm một nỗi còn thiếu ngựa để cỡi.

Trong lúc đang lo tính, bỗng có một người chạy vào báo:

- Có hai người khách thương, cùng đoàn tùy tùng dẫn bầy ngựa khá đông, đang đi về hướng trang trại này.

Huyền Ðức nói:

- Ðây là trời giúp ta!

Ba anh em vội ra khỏi trại đón tiếp hai người khách thương mời vào trang trại.

Hai người này chính là hai thương gia lớn ở đất Trung Sơn, một người là Trương Thế Bình, một người là Tô Song, hàng năm thường lên mạn Bắc mua giống ngựa khỏe đem về Tràng An bán. Nay vì miền này có giặc nên không thể đem ngựa đi qua được.

 

Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 377
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com