watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
14:50:0829/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 11-30 - Trang 9
Chỉ mục bài viết
Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 11-30
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Trang 37
Trang 38
Trang 39
Trang 40
Trang 41
Trang 42
Trang 43
Trang 44
Tất cả các trang
Trang 9 trong tổng số 44


Chương 15a
Kế Hoạch Ngũ-Lôi

Nhà vua ban chỉ dụ:
- Bây giờ ta trở lại việc triều Tống. Như ban nãy bàn, thì phe của hậu là phe thân với Đại-Việt, và chủ hòa. Bây giờ khanh hãy trình bầy về cái kế hoạch Ngũ-lôi của Tống ra sao một lượt nữa để Ỷ-Lan với các tân quan nắm vững.
- Tâu phu nhân.
Thường-Kiệt hướng Ỷ-Lan nói bằng giọng ôn nhu: Ngũ là năm, lôi là sấm. Tống dùng năm đạo binh để chuẩn bị mở rộng Nam thùy. Trong sáu nước Nam thùy gồm Đại-Việt, Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua, Xiêm-la, Đại-lý thì Đại-Việt mạnh nhất. Chính Quốc-phụ đã đưa ra đường lối liên hiệp giữa sáu nước tộc Việt, mà Đại-Việt là minh chủ. Bằng như Tống mang quân đánh một trong sáu nước, thì cả sáu nước đồng khởi binh chống lại. Cho nên Tống đưa ra kế hoạch Ngũ-lôi để đánh Đại-Việt.
Nhà vua hỏi Ỷ-Lan:
- Ái-khanh thử đoán xem, tại sao Tống không đánh mấy nước kia, mà lại chỉ chĩa mũi dùi vào Đại-Việt?
- Tâu, đánh rắn phải đánh đầu trước. Nếu Tống đem quân đánh sáu nước một lúc thì hao tốn sinh mạng, mà lại khó thành công. Vì vậy trước hết họ dồn lực lượng đánh Đại-Việt. Sau khi thắng Đại-Việt, những nước nhỏ Chiêm, Chân, Lão như cỏ non gặp bão, phải cúi đầu tuân phục. Bấy giờ họ dùng quân các nước nhỏ, tù-hàng binh Đại-Việt tiến đánh Xiêm-la, Đại-lý. Thì Xiêm, Lý làm sao giữ nổi?
Triều đình đều gật đầu, công nhận lý Ỷ-Lan là xác thực.
Thường-Kiệt tâu tiếp:
- Năm nhát búa đánh Đại-Việt gồm: thứ nhất là chia rẽ. Chia rẽ cũng có năm loại. Chia rẽ giữa hai phe họ Dương, họ Mai trong triều. Hai là chia rẽ giữa văn quan với võ tướng. Ba là chia rẽ giữa hoàng thân với ngoại thích. Bốn là chia rẽ giữa các võ phái. Năm là chia rẽ nội cung với triều đình. Nhát thứ nhì là gây nội chiến. Trong bóng tối họ giúp Dương gia nắm trọng quyền, rồi cướp ngôi. Dĩ nhiên trong trường hợp này Ngũ-long công chúa, cùng quân các trấn ở ngoài sẽ đem quân về triều để diệt tặc thần. Thế là có nội chiến. Khi ta có nội chiến thì không thể làm minh chủ. Hoặc giả các nước trong liên minh, có nước ngả theo phe này, có nước ngả theo phe kia. Thế liên minh tộc Việt tự tan vỡ.
Triều đình cùng im lặng nghe Thường-Kiệt tường trình. Trước đây Ỷ-Lan cứ nghĩ rằng âm mưu của Tống chỉ giản dị trong việc Dương gia làm gian tế mà thôi. Nay nghe Thường-Kiệt tường trình, nàng mới thấy cả một âm mưu vừa sâu vừa độc. Cũng may Đại-Việt có Quốc-phụ, có những đại thần như Thân Thiệu-Thái, Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm, Lý Thường-Kiệt, sáng suốt tìm ra, đã làm tất cả những việc phải làm, ứng phó kịp thời.
Tiếng Thường-Kiệt vẫn sang sảng:
- Nhát búa thứ ba là dùng người Hán sinh sống trên Đất Việt làm nội ứng. Từ lâu rồi, mỗi khi có một triều đại mới bên Trung-quốc chiếm được ngôi vua, là y như con cháu di thần triều đại cũ lại tràn sang ta xin kiều ngụ. Họ sống thành bang hội, tổ chức rất chặt chẽ, họ chỉ nói tiếng Hoa, mặc quần áo Hoa. Họ cần cù làm ăn, khéo léo hối lộ với quan lại, lâu ngày họ thành giầu có, thế lực. Ngay từ khi Tống Thái-tổ lên ngôi, Tống triều đã âm thầm sai sứ sang phong chức tước cho những thủ lĩnh bang hội này, truyền bảo họ làm tế tác, báo mọi tin tức Đại-Việt cho Khu-mật viện Nam-thùy. Tống triều hứa rằng, khi quân Thiên-triều kéo sang, ai làm nội ứng nổi dậy; lúc chiếm được Đại-Việt thì sẽ trao quyền cho bang hội của người ấy. Các thủ lĩnh người Hoa sẽ giữ các chức tước phương Nam. Biên thần Nam thùy Tống hợp bọn gian tế Hoa-kiều này với bọn gian tế Việt trong triều đình. Để khi bọn người Hoa có gì khó khăn với quan lại, thì được che chở. Ngược lại bọn Hoa kiều cung phụng tiền bạc, đôi khi cả gái cho bọn quan lại gian tế. Hiện trong nước, cứ mười người Việt, có một Hoa-kiều. Đó là nhát búa cực kỳ sắc bén và nặng nề.
Thường-Kiệt dừng lại, nhắp một chung trà, rồi tiếp:
- Nhát búa thứ tư là nhân Đại-Việt rối loạn vì nội chiến, họ theo dõi tình hình. Khi thấy phe nào yếu thế, họ cử sứ sang phong chức tước cho phe đó, để phe đó mạnh lên, khiến chiến cuộc kéo dài. Chiến cuộc kéo dài thì tinh lực quốc gia suy kiệt, lòng người ly tán. Võ lâm chém giết nhau, thù hận nhau. Bấy giờ họ mới đem đại quân qua, nhân danh trợ giúp phe yếu, vì phe này là thần-tử nhà Tống. Tống để phe gian tiến quân trước, quân Tống đi theo trấn nhậm những nơi chiếm được, và chỉ can thiệp khi phe gian bại. Thế là phe mạnh tan rã. Mà khi phe yếu chiếm được nước, thì kiệt quệ tinh lực, bấy giờ họ sẽ bóp như bóp một con kiến.
Thường-Kiệt đem trục lụa vẽ bản đồ sáu nước tộc Việt ra, chỉ vào phía Nam:
- Nhát thứ năm là dùng Chiêm-thành đánh phía sau ta, để ta phải chia quân ra cự địch. Từ thời Lĩnh-Nam, tộc Mã-lị-á 0, đi ngược lên phía Bắc, hòa lẫn với tộc Việt ở Chân-lạp, Chiêm-thành. Nhờ tính tình hung ác, không lễ nghĩa, hành xử man rợ mà chiếm được ưu thế tại hai nước này. Khi sắc dân Mã nắm được quyền bính, là họ tìm cách tiến lên Bắc định xâm lấn Đại-Việt. Đây là trở ngại lớn cho thế thống nhất tộc Việt của ta hơn nghìn năm nay.
Nhà vua quay lại Lễ-bộ thượng thư:
-- Khanh hãy nhắc lại tất cả những lôi thôi của Chiêm quốc trong mấy năm gần đây với Đại-Việt một lượt, để triều đình cùng nắm vững.
Lễ-bộ thượng-thư Mai Cảnh-Tiên đứng lên hành lễ:
- Thần thái-tử thiếu-phó, Lễ-bộ thượng thư, Khu-mật viện phó-sứ, Cần-chính điện thuyết thư, Kiến-xương hầu xin tâu.
Nhà vua vẫy tay:
- Thiếu-phó an tọa.
- Đa tạ bệ hạ. Về thời vua Hùng, vua An-Dương, Chiêm-thành là đất của Văn-lang, Âu-lạc. Nhưng sau một thời gian dài tộc Việt bị tộc Hoa cai trị, Chiêm bị cắt ra thành một nước nhỏ. Kể từ thời Lĩnh-Nam, một sắc dân mọi rợ tộc Mã, rất hung dữ ở biển Nam, tiến dần lên lập nghiệp ở Chân-lạp, Chiêm-thành, rồi chiếm được ngôi vua. Khi Hán đem quân sang đánh Lĩnh-Nam, vua Quang-Vũ sai sứ sang cắt đất Nhật-nam, phong chức tước cho vua Chiêm, xui quân Chiêm đánh phía sau ta, bị anh hùng Lại Thế-Cường, Trương Thủy-Hải, Trương Đằng-Giang đánh bại (1). Từ sau khi vua Trưng tuẫn quốc, tộc Mã càng ngày càng mạnh ở phương Nam, họ không chịu nhận gốc con cháu vua Hùng, riết rồi thành một nước khác biệt với ta, họ không còn nói tiếng Việt nữa. Thời vua Đinh, họ mượn tay Ngô Nhật-Khánh, để có chính nghĩa đem quân vào đánh ta.
Ghi chú,
(1) Xin xem Cẩm-khê di hận của Yên-tử cư-sĩ do Nam-á Paris xuất bản.

Tể-tướng Lý Đạo-Thành ngắt lời:
- Xin Thiếu-bảo đi vào chi tiết hơn cái vụ này một chút.
- Tuân lệnh Tể-tướng. Nguyên Ngô Nhật-Khánh là một sứ quân, giòng dõi vua Ngô-Quyền. Sau khi Nhật-Khánh đầu hàng vua Đinh. Vua lấy mẹ Nhật-Khánh làm vợ, đem em y gả cho thái tử Đinh-Liễn, lại gả con gái mình cho y. Nhưng Nhật-Khánh vẫn muốn phục hồi ngôi vua. Y chạy sang Chiêm cầu viện. Chiêm nắm lấy cơ hội đó, niên hiệu Thái-bình thứ mười 0 cho hơn nghìn chiến thuyền theo Nhật-Khánh về đánh Đại-Việt. Nhưng thuyền đến cửa biển Đại-ác thì bị bão đánh chìm hết. Thời vua Lê Đại-Hành, ngài sai hai sứ là Từ Mục, Ngô Tử-Canh sang thông hiếu. Chiêm nghe lời Tống, giam sứ lại. Vua Lê nổi giận, niên hiệu Thiên-phúc thứ ba 0 ngài đem quân sang phá kinh đô, hủy tông miếu của Chiêm để thị uy. Từ ngày đó Chiêm chịu thần phục, tuế cống. Niên hiệu Thiên-phúc thứ năm 0 lại xẩy ra vụ lôi thôi ở Nam biên. Tướng trấn thủ của ta viết thư thống trách. Vua Chiêm sai sứ sang tạ tội. Vua không nhận. Chiêm phải sai hoàng đệ Chế-Lai sang cống, vua Lê mới tha tội cho. Nhưng đến niên hiệu Ứng-thiên thứ tư 0 phe người Mã chiếm quyền, lại cho quân quấy nhiễu Nam thùy ta.
... Kịp đến bản triều, niên hiệu Thuận-thiên thứ nhì (1011) người Chiêm sang cống sư tử. Đức Thái-tổ ủy lạo, phong chức tước cho vua Chiêm, lại ban ấn ngọc. Đến niên hiệu Thuận-thiên thứ mười một 0 phe Mã lại lên cầm quyền, họ mang quân chiếm mười xã của ta. Đức Thái-tổ sai đức Thái-tôn cùng quan thái-úy Đào Thạc-Phụ đem quân sang đánh, chiếm lại đất Bố-chánh. Trong triều phe gốc Việt lại lên nắm quyền. Niên hiệu Càn-phù Hữu-đạo nguyên niên 0 phe Mã đảo chính cướp ngôi vua, con cháu di thần gốc Việt chạy sang ta cầu cứu. Song bấy giờ phía Bắc ta đang dụng binh, nên tạm nhượng họ ở Nam-phương. Từ đấy Chiêm bỏ ta sang Tống thần phục. Tống gửi người sang giúp Chiêm luyện quân. Chiêm chuẩn bị đánh phía sau Đại-Việt, để Tống đánh phiá trước. Quốc-phụ tổ chức đại hội tộc Việt ở Bắc-cương, Trưởng đại công chúa Bảo-Hòa bàn nên hòa hoãn với Tống, rồi thình lình đem quân đánh Chiêm. Sau khi Chiêm bại, ta mới giúp Nùng Trí-Cao đánh Tống. Vì vậy niên hiệu Thiên-cảm Thánh-vũ nguyên niên 0 đức Thái-tông cùng Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản mang đại quân sang đánh Chiêm. Quân ta đại thắng, chém vua Chiêm là Sạ-Đẩu, bắt 30 voi, năm nghìn người, trong đám tù nhân có cả hoàng hậu Mỵ-Ê, nhiều cung nga, giết ba vạn quân giặc. Từ đấy phe gốc Việt cầm quyền, Chiêm tu cống hàng năm. Niên hiệu Chương-thánh Gia-khánh thứ ba 0, Chế Củ (2) được sư phụ là Đinh Kiếm-Thương, cùng với dư đảng bang Nhật-hồ trợ giúp, giết vua, cướp ngôi. Kiếm-Thương được phong là Thái-sư Quốc-phụ, Cửu-chân vương. Ngay sau khi Chế Củ lên ngôi vua, y cử sứ sang xin thần phục Tống. Tống phong cho y làm Chiêm-vương. Tống triều mật chỉ cho an-vũ-sứ Quảng-Tây mua sắm ngựa chiến gửi sang giúp y. Tống còn gửi nhiều võ quan sang cố vấn cho y thao luyện thủy quân, đóng chiến thuyền, để chuẩn bị đánh ta.
Ghi chú,
(2) Đại-Việt sử ký toàn thư gọi là Chế Củ, Việt-sử lược gọi là Đệ-Củ. Tống-sử quyển 489 gọi là Dang-pu-sơ-li Lu-đa-ban-ma-đệ-ba. Trong Le Royaume du Champa của Henri Maspéro gọi là Yan Pu Cri Rudravarmandra đệ tam.
Tể-tướng Lý Đạo-Thành tâu:
- Tình hình Chiêm như vậy thì thực đáng lo. Nhưng Chiêm có cử động gì cũng do Tống cả. Tình hình Tống đang tranh quyền nhau chưa ngã ngũ. Cuộc tương tranh này dường như tể-tướng Hàn Kỳ hơi thắng thế, hơi thì chỉ là tạm thời. Xin Hoàng-thượng sai sứ sang cống phương vật, nhân đó ta dò biết thêm tin tức, để liệu bề hành động. Nếu quả triều Tống đang chia phe đảng cắn cấu nhau như vậy, ta cất quân phá Chiêm. Chiêm bị phá, ta đỡ đi lưỡi búa nguy hiểm.
Nhà vua hỏi Thường-Kiệt:
- Thái-bảo nghĩ sao?
- Tâu bệ hạ, tể-tướng luận đúng. Hiện ta có hệ thống Tế-tác rất tinh-vi ở bên Tống. Hệ thống này do chính Khu-mật-viện Đại-Việt cùng Khu-mật-viện Bắc-biên chỉ huy. Mỗi biến chuyển của Tống triều ta đều biết hết. Trong triều, đám văn quan hiện chia làm hai phe. Phe đương cầm quyền do Hàn Kỳ cầm đầu. Phe mới đang ngấp nghé thay thế do Văn Ngạn-Bác cầm đầu. Phe Hàn Kỳ thì a dua theo Triệu Thự, chủ mở rộng Nam-biên. Phe này gồm có bọn Dư Tĩnh, Tiêu Chú, Tiêu Cố, Lý Sư-Trung. Phe Văn Ngạn-Bác thì được Hoàng-hậu tin dùng. Chúng được phái Hoa-sơn là nơi phát tích ra triều Tống ủng hộ. Bây giờ xin bệ hạ sai một vị nào trí tuệ thực minh mẫn giả đi sứ cống phương vật, quan sát tại chỗ, rồi đưa ra quyết định ta ủng hộ phe nào, giúp phe nào. Thần thấy ở đây quan tham-tri bộ Lễ Trần Trọng-San có thể sung vào làm chánh sứ. Quan tham-tri bộ Lại Quách Sĩ-An có thể sung làm phó sứ. Còn cống phẩm, thì như đã bàn trước, lần này cống cho Tống mười con voi thuần. Mười con trâu đực thực lớn.
Nhà vua chuẩn tấu, ngài nói với Thiệu-Cực:
- Biểu huynh biềt nhiều về Tống, xin biểu huynh cho hai vị sứ giả những lời chỉ dẫn.
Thân-thiệu-Cực nói với hai sứ giả:
- Trong khi đi sứ, xin nhị vị nhớ quốc sách của Khai-Quốc vương với Tống đã ấn định vào niên hiệu Thuận-thiên thứ mười bẩy (1027) tại đại hội Bắc-cương như sau: đối với triều đình, ta hậu lễ, lời lẽ thực nhũn nhặn, bao nhiêu việc rắc rối ở biên giới ta đổ cho bọn quan lại Nam-thùy. Còn đối với bọn này, ta thực cứng rắn. Bất cứ đụng chạm nào, ta cũng phản ứng cực kỳ khốc liệt. Tỷ như hồi Chương-thánh Gia-khánh thứ nhì (1060), Bắc-biên đã tiến quân qua, làm Tống hao binh tổn tướng. Tống triều sai Dư Tĩnh nghị hòa, vua bà Bình-Dương đòi Tống chịu ba điều mới rút về. Dư Tĩnh phải đem nhiều vàng bạc cho sứ ta là Phí Gia-Hữu, để xin chuộc tướng Dương Lữ-Tài. Gia-Hữu tấu về triều. Triều đình mật chỉ cho ông: ta ra quân chỉ có ý dằn mặt Tống triều và trừng trị bọn biên thần gây chiến, đằng nào cũng phải thả Lữ-Tài. Vậy cứ nhận vàng, mang về cho công khố.
Ông đưa mắt nhìn về phía Binh-bộ thượng thư:
- Một tỷ dụ thứ nhì là phò-mã Lê Thuận-Tông cũng đi họp với biên thần Tống. Phò mã đã làm cho chúng tức ứa gan, mà đành cắn răng nín nhịn.
Quách Sĩ-An hỏi:
- Hồi đó chúng tôi chưa xuất chính, nên không rõ việc này, xin quốc-công thuật chi tiết cho.
- Việc đó cực mật.
Thiệu-Cực trả lời: Hồi đó đức Thái-tông với tôi nghị kế mới biết mà thôi. Hôm nay việc đã xa rồi tôi xin nói hết: nguyên trước đây, trong 207 khê động, thì tộc Nùng chiếm mất 36. Trong tất cả các tộc thiểu số của Đại-Việt thì tộc Nùng là một tộc thiếu văn hóa nhất, lại can đảm, hung dữ. Trong thời Đinh, Lê hết 33 khê động Nùng theo Tống, ta quen gọi là Nùng-Hoa. Họ nói tiếng Hán, học văn tự Hán, nhiễm phong tục Hán; họ quên gốc Việt, mà coi mình là người Hoa. Còn ba động theo Việt, họ nói tiếng Việt, giữ gốc Việt của mình, ta quen gọi là Nùng-Việt. Tống luôn cử mật sứ sang xui Nùng-Việt phản Đại-Việt. Triều đình ta biết việc đó, hết sức giúp Nùng Dân-Phú kiến thiết ba khê động Nùng thành châu Trường-sinh. Sau vua bà Bình-Dương giúp Nùng Tồn-Phúc tiến lên Bắc lôi kéo 33 khê động Nùng theo Việt, thế là cả 36 động đều thuộc Trường-sinh. Trường-sinh trở thành nước lớn trong bốn nước Bắc-cương là Lạng-châu, Phong-châu, Thượng-oai. Trường-sinh tuy theo Đại-Việt, nhưng dân Nùng đa số nghĩ mình là người Hoa, chân trong, chân ngoài. Đôi lúc họ muốn theo về Tống. Đức Thái-tông thấy, cứ tình trạng này, tộc Nùng sẽ theo Tống không biết lúc nào. Bấy giờ Tống sẽ xui họ gây chiến với ta, thì cái họa sẽ không biết thế nào mà kể. Đức Thái-tông bàn với tôi tìm cách đối phó. Tôi đưa ra ý kiến: ”Lượng tiểu phi quân tử. Vô độc bất trượng phu”. Ta giúp Nùng Trí-Cao khởi binh tiến đánh Lưỡng-Quảng, rồi đưa y lên làm vua. Với một sắc dã man, mà cai trị dân Tống ở Lưỡng-Quảng là dân có văn hóa cao, thì một trong hai vấn đề xẩy ra. Một là y dùng người Hán, bắt dân theo phong tục Hán, thì sẽ bị chính tộc Nùng của y phản y. Bấy giờ những khê động Nùng lại trở về với Đại-Việt, y phải dùng người Hán dẹp loạn. Tộc Nùng sẽ tan nát. Sau cuộc chiến tinh lực mất hết. Còn y thành công, tổ chức Trường-sinh biến ra một nước đệm giữa ta với Tống, thì Tống với y luôn có chiến tranh. Như vậy y thay ta chống Tống, mà luôn phải dựa vào ta để tự tồn. Vì phía Bắc Trường-sinh giáp với Kinh-hồ, thuộc lãnh thổ của Kinh-Nam vương, phía Nam giáp ta. Phía Tây giáp Đại-lý... y không thể trở mặt được.
Thiệu-Cực ngừng lại, rồi thở dài:
- Quả nhiên y đi theo đường thứ nhất. Tống thấy tộc Nùng bị Trí-Cao đàn áp, phân nửa bị chết, phân nửa theo về ta, rút cuộc quanh Trí-Cao toàn người Hoa. Tống cho Địch Thanh kéo quân xuống đánh, Trí-Cao bị bại. Chính vì lẽ đó, khi Địch Thanh đánh y, Quốc-phụ vân du Xiêm-quốc vắng nhà, còn đức Thái-tông không chịu tiếp cứu y. Cho đến nay sĩ dân Việt, không ai hiểu tại sao ta dựng lên Đại-Nam, rồi lại bỏ rơi Đại-Nam.
Thiệu-Cực tiết lộ một điều tối cơ mật, khiến triều đình đều ngơ ngác, họ như người mù được sáng mắt ra. Họ nghĩ thầm:
- Vua Thái-tông với Thân Thiệu-Cực trí lự thâm sâu đến như thế là cùng. Hai người đã hành sự trái với Khai-Quốc vương. Bởi Vương lập Đại-Nam chỉ với mục đích thống nhất tộc Việt. Hèn chi sau khi Đại-Nam bị diệt, Khai-Quốc vương chán nản, không thiết đến sự đời nữa.
Thiệu-Cực tiếp:
- Sau khi Trí-Cao bại, triều đình Đại-Nam bị Địch Thanh bắt giải về Biện-kinh. Tiên-nương Bảo-Hòa xót tình đệ tử, người sai một đội võ sĩ Tản-Viên giúp Trí-Cao đón đường cướp tù binh, giải cứu được Phạm Đình-Huy, Phạm Văn-Nhân, Đặng Vũ-Nùng, Đinh Nho-Quan đưa y sang gửi ở Đại-lý, sau không có tin tức gì nữa. Triều đình cưu mang con y là Nùng Tông-Đán, cùng dư đảng cho coi động Lôi-hỏa nhỏ bé trong bẩy động Nùng. Nhưng đám dư đảng đó đa số là người Hoa, chúng định thần phục Tống. Niên hiệu Long-thụy Thái-bình thứ tư (1057), tôi mật nghị với Quốc-phụ, rồi đem vàng bạc cho chân tay y, để xúi y đánh Tống. Quả nhiên y tiến quân sang đánh Ung-châu. Quan trấn thủ Ung-châu là Tiêu Chú giao chiến với y nhiều trận. Tinh lực hai bên đều kiệt quệ. Viên quan coi Quế-châu 0 là Tiêu Cố muốn nghị hòa. Cố sai viên chuyển vận sứ là Vương Hãn thuyết phục con Tông-Đán là Nhật-Tân nên theo Tống, tội trạng được tha, mà còn được phong chức tước. Tông-Đán thấy cái mộng làm thủ lĩnh bẩy khê động Nùng, bị Đại-Việt ngăn trở, chi bằng theo Tống, để sau có thể dựa Tống mà hoàn thành tâm nguyện. Thế là Tông-Đán hàng Tống, y được phong chức Trung-vũ tướng quân, Nhật-Tân được phong Tam-ban tá-chức, vẫn cho coi động Lôi-hỏa.
Ông đưa mắt nhìn nhà vua:
- Đến khi hoàng-thượng lên ngôi. Niên hiệu Chương-thánh Gia-khánh thứ tư (1062), bấy giờ Trị-bình 0 còn là thái-tử Triệu Thự, đang Nam du, thiết kế đánh Đại-Việt. Vương Hãn coi Đàm-châu nắm được ý đó. Y thấy Tông-Đán cứ có ý thuyết phục các khê động Nùng-Tống theo y. Hãn tâu về triều. Tống triều nghị sự « dụ hổ khỏi rừng » bằng cách phong cho y coi châu Thuận-an gồm Lôi-hỏa, Kế-thành, Tiên-dư lớn gấp ba đất Lôi-hỏa của y, mà dân ở đó thuộc tộc Nùng-Tống. Còn con y thì được bổ coi về thuế ở Ung-châu. Với dân Nùng-Tống y không thể phản Tống được nữa.
Ông ngừng lại uống nước rối tiếp:
- Việc Tông-Đán theo Tống, khiến ta mất một vùng đất lớn, nên hồi đầu năm nay (1064), tôi xin vua bà Bình-Dương sai Hổ-uy tướng quân Lưu Kỷ trấn ở châu Quảng-Nguyên, giả chuẩn bị binh mã đánh Tông-Đán, khiến y sợ, mà bỏ đi khỏi Thuận-an. Như vậy y mất căn bản, dân Thuận-an bơ vơ, sẽ theo về ta. Quả nhiên khi Lưu Kỷ mới ra quân, y cầu cứu với Tống, Tống lờ đi. Y bỏ chạy lên Quế-châu. Quan trấn thủ Quế-châu là Lục Sằn tâu về triều. Tống triều phong cho y chức Hữu-thiên ngưu-vệ tướng-quân.
Ghi chú,
Giai đoạn này, Tống-sử quyển 495, Liệt-truyện 254 trang 14.205- 14.220 chép như sau: niên hiệu Trị-bình nguyên niên (1064) đời Tống Anh-tông, Tông-Đán có hiềm khích với Lý Nhật-Tông 0 và Lưu Kỷ, bị chúng đe dọa. Viên coi Quế-châu là Lục Sằn biết vậy, sai người đến dụ. Tông-Đán bèn bỏ châu mình vào nội địa, được ban chức Hữu-thiên ngưu-vệ tướng quân.

Thiệu-Cực tiếp:
- Bấy giờ Bắc-biên tấu về triều Đại-Việt. Triều đình Đại-Việt nghị rằng việc Lục Sằn dụ Tông-Đán theo Tống, nộp đất cho Tống quyết không phải là chủ ý của Lục, mà của bọn hiếu chiến trong triều, muốn gây ra việc đã rồi, để Việt-Tống có chiến tranh. Bởi Tông-Đán được phong chức hữu-thiên ngưu vệ tướng quân là một tướng võ phải có ông trạng lớn lao mới được huân dự đó. Vì thế hoàng-thượng sai phò-mã Lê Thuận-Tông đi Quế-châu gặp Sằn. Phò mã cương quyết bắt Sằn phải trả cha con Tông-Đán, và đất cho ta bằng không vua bà Bắc-biên với phò mã Thân Thiệu-Thái lại tiến quân sang như năm trước. Khi việc này xẩy ra Sằn không bị Tống triều cách chức, thì cũng bị quân Việt giết chết. Lục Sằn tức ứa gan, nhưng phải nín nhịn.
Nhà vua nhắc:
- Xin biểu huynh thuật chi tiết thái độ của Lê phò mã cho những ai chưa biết, để nghe cho vui. Hồi ấy trẫm nắm được chủ trương của Anh-tông sau chuyến Nam du hồn phách còn chưa tỉnh, cái án tử hình của Kinh-Nam vương treo trên cổ. Hơn nữa trong thời gian ông ta ở Đại-Việt, đã được hàng triệu muỗi độc ưu ái tặng cho chứng sốt rét ngã nước... tinh thần ông ta rất yếu, mình cần gây áp lực thực mạnh.
Ghi chú,
Xét hành trạng của vua Thánh-tông. Ngài là ông vua nổi tiếng nhân từ nhất Đại-Việt. Ngài từng ban luật: cho đến khi ra trước tòa, mọi người đều được coi là vô tội. Điều mà các luật gia Tây-phương gần đây mới đưa ra. Nam Việt-Nam -21 đã áp dụng. Nhưng tại miền Bắc Việt-Nam -30, và toàn lãnh thổ Việt-Nam đến nay vẫn chưa áp dụng.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 150
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com