watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
17:18:1829/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 11-30 - Trang 20
Chỉ mục bài viết
Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 11-30
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Trang 37
Trang 38
Trang 39
Trang 40
Trang 41
Trang 42
Trang 43
Trang 44
Tất cả các trang
Trang 20 trong tổng số 44



Chương 20b

Từ sau trận giúp Nùng Trí-Cao, lấy quân các trấn lập thêm bẩy hiệu, mười bốn quân nữa là Vũ-thắng, Long-dực, Thần-điện, Bổng-thánh, Bảo-thắng, Hùng-lược, Vạn-tiệp. Tổng cộng 24 quân. Cộng 24 vạn. Hai hiệu Ngự-long, Quảng-thánh đóng tại Thăng-long. Hai hiệu Quảng-vũ, Bổng-nhật đóng tại Trường-yên. Hai hiệu Đằng-hải, Vũ-thắng đóng tại Đông-triều. Hai hiệu Long-dực, Thần-điện đóng tại biên giới Chiêm-thành. Hai hiệu Bổng-thánh, Bảo-thắng đóng tại Thanh-hóa. Hai hiệu Hùng-lược, Vạn-tiệp đóng tại Kinh-Bắc. Tất cả 24 quân đều luyện tập, di động hàng ngày. Quân số, vũ khí đầy đủ. Lừa, ngựa, xe cộ đều được chăm nuôi bảo trì cực kỳ chu đáo. Theo binh pháp của Khai-Quốc vương, các hiệu đều sẵn sàng, chỉ cần tiếp được lệnh, là hai giờ sau (4 giờ ngày nay) có thể lên đường viễn chinh ngay. Xin bệ hạ quyết định những hiệu nào Nam chinh.
Nhà vua phân tích:
- Từ trước đến nay các hiệu Thiên-tử binh chỉ dùng để chống ngoại xâm, ít khi dùng giữ an ninh trong nước. Bởi an ninh thôn xã đã có hoàng nam. An-ninh các trấn, phủ huyện cũng đều có quân địa phương. Vậy trẫm quyết định mang hết mười hai hiệu Thiên-tử binh theo.
Ngài ngừng lại một lát rồi hỏi phò mã Hoàng Kiện:
- Về thủy quân, Kiện nhi là đô-đốc, Kiên nhi cho biết tình hình.
Phò-mã Hoàng Kiện đứng dậy:
- Tâu phụ hoàng, về thủy quân ta có bốn hạm đội. Hạm đội Âu-Cơ trấn Tiên-yên, phòng Bắc-phương do đô đốc Trần Phúc, cháu của đại hiệp Trần Kiệt chỉ huy. Hạm đội Bạch-Đằng, trấn vùng biển Thiên-trường, do đô đốc Trần Như-Ý, con trai của đại hiệp Trần Trung-Đạo chỉ huy. Hạm đội Động-đình trấn vùng Thăng-long, do đô đốc Trần Lâm, con đại hiệp Trần Phụ-Quốc chỉ huy. Hạm đội Thần-phù trấn vùng Thanh-Nghệ, do Đô-đốc Trần Hải con trai đại hiệp Trần Bảo-Dân chỉ huy. Ngoài ra mỗi trấn, châu, huyện còn có một thủy đội để vận tải lương thực, quân nhu, vũ khí. Mỗi hạm đội có 100 chiến thuyền lớn, mỗi chiến thuyền có 300 thủy thủ; 150 thuyền vận tải, mỗi thuyền chở được 300 quân và 50 chiến thuyền duyên tốc để chỉ huy.
Nhà vua ban chỉ:
- Vậy thì để hạm đội Âu-Cơ cho Tham-tri Lý Kế-Nguyên giữ biển Bắc phòng Tống. Ba hạm đội còn lại đều do phò mã Hoàng Kiện chỉ huy theo trẫm Nam chinh.
Nhà vua đứng dậy, hướng Tôn Đản:
- Trong lần phạt Chiêm này trẫm thân chinh, Thường-Kiệt làm nguyên soái, Thường-Hiến làm tiên phong. Nhưng trẫm xin sư thúc, sư thẩm đừng quản ngại tùng chinh. Có sư thúc, sư thẩm làm quân sư, thì trẫm mới yên tâm.
Tôn Đản chưa kịp trả lời, thì Ngô Cẩm-Thi đáp ngay:
- Hoàng thượng đã ban chỉ thì vợ chồng thần xin cung kính tuân theo. Thần xin đem một đội đệ tử của trường Long-thành gồm 300 người võ công cực cao, tinh thần dũng cảm yêu nước theo.
Cử tọa vỗ tay hoan hô.
Lúc đầu Tôn Đản định từ chối, vì các em ông là Tôn Mạnh, Tôn Trọng, Tôn Qúy, đều đang cầm đại quân. Hơn nữa đám học trò ông đang cầm quân nghiêng nước như Dư Phi đang làm đại tướng quân; phò mã Hoàng Kiện làm đô đốc; hai vương phi Trung-thành, Tín-nghĩa; hai phu nhân Bùi Hoàng-Quan, Nguyễn Căn. Nếu ông cầm quân Nam chinh nữa, e có những lời dèm pha dị nghị. Nhưng Ngô Cẩm-Thi đã nhận lời, ông đành chịu thua.
Nhà vua hỏi:
- Sư thúc là quân sư, xin sư thúc cho biết những gì phải làm bây giờ?
- Ban nãy thần đã trình bầy về ba thành phần. Thành phần thứ nhất trấn Bắc phòng Tống, thành phần thứ nhì bình Chiêm đã xong. Bây giờ tới thành phần thứ ba phòng thủ Thăng-long, tiếp vận vũ khi, lương thảo, quân nhu. Thành phần này cực kỳ quan trọng. Bởi khi quân ra trận, mà lương thảo không đủ, bổ xung tổn thất không kịp, thì nguy lắm. Không biết khi bệ hạ thân chinh, thì ai là người đảm trách công việc này? Từ xưa đến giờ khi vua thân chinh, thì thái tử nhiếp chính, với mấy đại thần phụ chính. Thời đức Thái-tông thì chính Hoàng-thượng nhiếp chính, Khai-Quốc vương phụ chính. Nay thì Thái-tử Càn-Đức chưa đủ trí khôn nhiếp chính, vậy bệ hạ định trao cho ai?
Nhà vua hỏi tể tướng Lý Đạo-Thành:
- Xin thầy dạy cho.
Tể-tướng Lý Đạo-Thành tâu:
- Đúng đạo lý ra, phải do Thái-tử nhiếp chính. Nay tuy Thái-tử còn thơ, nhưng cũng cứ để tên Thái-tử cho đúng đạo. Khi con còn thơ, thì mẹ buông rèm thính chính. Thượng-Dương hoàng hậu là chánh hậu, là đích mẫu của Thái-tử, xin để hậu buông rèm thính chính. Còn đại thần phụ chính, thần trộm nghĩ không ai bằng quốc-phụ.
Từ nhà vua cho tới Khai-Quốc vương, Ỷ-Lan, Thường-Kiệt đều đưa mắt nhìn vị lão thần với vẻ ái ngại cho ông. Bởi ông quá trọng Nho-học, mà thành ra máy móc. Nhưng cả ba đều thông cảm với ông: vì những việc làm của Dương hậu như liên hệ với Tống, Chiêm; phản triều đình, tuyển bọn người không phải thái giám đưa vào cung, ám hại các cung phi để không thụ thai, hại Ỷ-Lan v.v. Tội ác tầy trời như thế, nhà vua dấu kín, chỉ giới hạn cho Khai-Quốc vương, Ỷ-Lan, Thường-Kiệt, vua bà Bình-Dương, công chúa Bảo-Hòa biết mà thôi. Vì Đạo-Thành không biết, nên ông mới bàn để cho Dương hậu thính chính.
Nhà vua nhìn Khai-Quốc vương cầu cứu. Vì chỉ vương mới có quyền quyết định đi ngược lại những đạo lý cổ kim mà thôi. Khai-Quốc vương hiểu liền, vương khẽ gõ ngón tay lên bàn, cử tọa im phăng phắc:
- Quan Đại-tư đồ bàn như vậy thực phải. Nhưng từ khi tiến cung, hoàng-hậu thường ẩn dật, không lý gì đến triều chính, cùng việc trong Hoàng-thành. Nay để hậu lĩnh trọng trách như vậy, công việc không thể chu toàn, thì nguy đến vận mạng Đại-Việt. Việc này là việc của hoàng tộc. Vậy hoàng tộc ở đây lớn nhất là thần, rồi tới vua bà Bình-Dương, trưởng đại công chúa Bảo-Hòa, Ngũ-long công chúa, ba công chúa Thiên-Thành, Động-Thiên, Thiên-Ninh. Cộng mười một vị, thần xin tất cả bỏ phiếu kín xem nên để ai thay cho hoàng hậu.
Một cung nữ trao cho mười một người, mỗi người một mảnh giấy, ai nấy viết tên người được đề cử vào, rồi gấp lại. Sau đó mười một tờ giấy được trao cho Tể tướng Lý Đạo-Thành mở ra. Ông kinh ngạc, khi thấy cả mười một người đều đề cử Ỷ-Lan thần phi.
Long tâm mừng vô kể, nhà vua tuyên chỉ:
- Vậy thì Thái-tử Càn-Đức nhiếp chính, Ỷ-Lan thần phi thính chính. Hai vị phụ chính là Quốc-phụ với Lý tể tướng.
Quốc-mẫu Trần Thanh-Mai nói với nhà vua và Quốc-phụ:
- Thời vua Thái-tông, khi đánh Tống, bình Chiêm, thì những vị cao niên như Thiên-trường ngũ-kiệt, Đại-Việt ngũ-long chỉ làm cố vấn, hoặc tham dự với tính cách yểm trợ; còn toàn do giới trung niên, giới trẻ chúng tôi bấy giờ lãnh đạo. Bây giờ lớp chúng tôi, đều đã lớn tuổi, mà lớp trẻ hiện nay dường như có tài hơn lớp trước. Tôi nghĩ nên để lớp trẻ lĩnh trọng trách thì hơn. Chúng ta chỉ làm cố vấn.
Vua bà Bình-Dương đứng lên nói:
- Lời Quốc-mẫu thực phải. Nhớ xưa kia đức Thái-tổ thường hết sức chú ý vào việc đào tạo lớp trẻ. Mỗi khi thấy lớp trẻ nở ra một anh tài là người mừng vô hạn. Hồi đại hội Lộc-hà, Thuận-thiên thập hùng bấy giờ chỉ có hai người là đã thành niên, còn lại đều là thiếu niên... Thế mà người đã quyết đoán rằng Thuận-thiên thập hùng sau này sẽ làm lên chuyện kinh thiên động địa. Nay anh tài của chúng ta không phải mười mà hơn trăm. Ta nên trao trọng trách cho chúng.
Nhà vua cực kỳ cao hứng:
- Nhớ hồi Bắc-chinh, Đại-Việt Ngũ-long, Thiên-trường Ngũ-kiệt, thêm đại hiệp Thông-Mai, quốc nẫu Thanh-Mai, cộng mười một vị... khi ẩn khi hiện, trợ giúp chư tướng khắp nơi. Hỡi ơi, công đức thực ngàn năm khó phai. Nay trẫm thấy xung quanh còn hai vị bồ-tát Mộc-tồn Vọng-thê, Đại-từ Liên-hoa; Thiên-trường tam-anh Phụ-Quốc, Bảo-Dân, Trung-Đạo; Hoàng Giang cư sĩ, tiên nương Thiếu-Mai; chín vị đại cao thủ phái Mê-linh; bẩy vị đại cao thủ phái Tản-viên; nếu kể quốc-phụ, quốc-mẫu; phò mã Thân Thiệu-Thái... cộng 26 vị.
Nhà vua nói với Bảo-Hòa, Bình-Dương:
- Mặt trận phía Bắc, em hoàn toàn nhờ hai chị điều động hào kiệt phái Mê-linh, Tản-viên; anh Thiệu-Thái điều động phái Tây-vu giám sát, hỗ trợ. Mặt trận phía Nam thì xin nhờ bồ-tát Mộc-tồn, Viên-Chiếu; Thiên-trường tam anh với phái Đông-a. Còn Quốc-phụ, Quốc-mẫu, tiên-nương Thiếu-Mai, Hoàng Giang cư-sĩ điều động phái Tiêu-sơn, Sài-sơn tùy nghi trợ giúp ở trung-ương.
Nhà vua hỏi Tôn Đản:
- Thành phần trấn thủ Thăng-long, tiếp viện đã xong. Bây giờ tới vấn đề gì?
Tôn Đản tiếp:
- Bây giờ tới vấn đề tiếp tế lương thảo, bổ xung tổn thất. Xin quan Hộ-bộ thượng thư cho biết quốc sản, lương thảo ra sao?
Hộ-bộ thượng-thư Mai Đình tâu:
- Trước kia thần phụ trách toàn bộ thuế khoá, lương thảo trong nước. Từ khi Ỷ-Lan thần phi với hai vị Quách Sĩ-An, Lý Kế-Nguyên đề nghị cải cách nông nghiệp, bệ hạ ban ân sủng cho binh sĩ. Việc này đụng chạm tới hoàng thân, quốc thích, các đại thần, bách quan địa phương; thần không thể thực hiện nổi. Bệ hạ đã chỉ định thần-phi ngồi ở trong, công chúa Thiên-Ninh làm khâm sai đi các nơi thanh sát ở ngoài, có quyền tiền trảm hậu tấu, thì công chúa nắm vất chắc vấn đề. Xin để công chúa tâu lên bệ hạ.
Nhà vua vẫy tay gọi công chúa Thiên-Ninh:
- Ninh nhi! Từ hồi đó đến giờ con đã phải trảm cổ bao nhiêu cường hào ác bá, ô quan ở ngoài? Việc binh lương kết quả ra sao?
Công chúa Thiên-Ninh vốn đã đẹp sắc nước hương trời. Bây giờ được đại thần khen, phụ hoàng tín cẩn, trong lòng cực kỳ vui vẻ, nét hoa đẹp hơn bao giờ cả. Công chúa tâu:
- Tâu phụ hoàng, nhờ uy đức liệt tổ, nhờ uy đức phụ hoàng, thần nhi đi thanh sát các nơi. Chỗ nào tá điền, bần dân cũng vui vẻ, họ nói rằng đến vua Hùng, vua Trưng sống dây họ cũng chỉ sướng đến như vậy mà thôi. Nhờ thế mà quốc sản dư thừa. Chỉ có một số hương chức bị cách mà không có ai bị phạt tù hoặc xử tử cả. Về Thiên-tử binh, khi khuyết một người, thì có hàng trăm người tình nguyện.
Công chúa trình lên nhà vua tập sách nhỏ ghi chép tình trạng kho tàng, lương thảo, rồi tâu:
- Từ thời đức Thái-tổ, khi Quốc-phụ về lĩnh Phụ-quốc thái-úy, người đã cho chỉnh đốn toàn bộ việc binh lương. Về quân thì có Thiên-tử binh; quân các trấn, huyện; làng có hoàng nam. Thiên-tử binh là binh tinh nhuệ, binh nhà nghề, binh tình nguyện. Trước kia họ được trả lương bổng khá cao. Sau này Ỷ-Lan thần phi với hai vị đại học sĩ Quách Sĩ-An, Lý Kế-Nguyên về triều tâu rằng, binh sĩ đóng xa nhà, họ được phát lương, mà không biết làm sao chuyển về cho gia đình. Ba vị đề nghị cải tổ: Thiên-tử binh được cấp phát một mẫu năm sào ruộng công điền loại tốt. Ruộng này do làng-xã cử người làm cho họ. Đến mùa, thì gia đình họ hưởng hoa lợi, mà không phải đóng thuế. Thành ra Binh-bộ chỉ việc nuôi ăn, phát tiền túi cho họ. Khi di chuyển, nhẹ nhàng, dễ dàng, mau chóng.
Công chúa ngừng lại một lát, rồi tiếp: còn binh các trấn, lộ, huyện thì bắt buộc mọi con trai đến tuổi phải xung quân hai năm. Các con trai trong làng tới tuổi mười sáu, thì ghi tên vào sổ hoàng nam, coi như con của vua. Họ học văn, luyện võ, học xung phong hãm trận, do làng dạy, giữ an-ninh làng xã. Mỗi hoàng nam được phát một mẫu công điền, không phải nộp tô, nhưng phải nộp thuế. Gần đây theo đề nghị của Ỷ-Lan thần phi, thì hoàng nam được chia thành toán năm người một, ở năm tuổi khác nhau: mười sáu, mười tám, hai mươi, hai mươi hai, hai mươi bốn. Họ cùng làm ruộng với nhau. Hoa lợi thu được bao nhiêu, thì chia đều làm năm phần. Trong năm người đó, khi người tới tuổi mười tám thì phải lên đường, xung vào binh các trấn, các lộ, các huyện trong hai năm. Hai năm đó, họ phải luyện tập võ nghệ, binh bị hàng ngày. Bốn người ở nhà vẫn tiếp tục cầy năm mẫu ruộng công điền. Hoa lợi vẫn chia làm năm. Cho nên người xung quân, mà bố mẹ, vợ con, hoặc bản thân vẫn không bị thiệt. Thành ra các trấn, lộ chỉ cần nuôi ăn, phát tiền túi tượng trưng cho binh lính. Khi Thiên-tử binh tới tuổi hồi hưu, hay tàn tật, tử trận, thì tuyển những hoàng nam đã từng hết hạn xung quân thay thế.
Thường-Kiệt hỏi:
- Khải điện hạ, bây giờ có cuộc Nam-chinh, thì lương thực sẽ vận chuyển như thế nào ra mặt trận?
Công chúa chỉ vào bản đồ Đại-Việt:
- Nước ta nằm dài theo bờ bể, lại có nhiều sông lớn, nên khi thu thuế lúa, gạo, muội cho cất vào những kho gần sông, gần biển, cận đồn thủy quân, hoặc các đạo binh để tiện phân phát, dễ vận chuyển. Nay phát lương cho các đạo Thiên-tử binh ăn, ta chỉ cần dùng thuyền chở đi mà thôi, mà không cần vận chuyển bằng đường bộ, rất tốn công, lại chậm trễ.
Ỷ-Lan hỏi Thiên-Ninh:
- Hồi niên hiệu Chương-thánh Gia-khánh, tôi còn thơ ấu, có cuộc dụng binh ở Bắc-cương, khiến làng tôi phải cử đi trăm hoàng nam trong một tháng. Cũng may bấy giờ mùa màng vừa xong, nên không trở ngại đến việc đồng áng. Nay phải chuyển lương thực cho cuộc viễn chinh như vậy, thì công chúa dự tính thế nào?
- Tâu thần-phi, trước kia thì kho lẫm tập trung vào các phủ huyện, nên phải cần nhiều hoàng nam vận chuyển. Nay kho lẫm để ở ven sông, ven biển, thì binh các trấn, các lộ, sẽ đảm trách chuyển xuống thuyền. Thủy quân sẽ chở ra mặt trận. Thảng hoặc có dùng hoàng nam, thì cũng chỉ cần tới một phần mười số người như trước kia mà thôi.
Vua bà Bình-Dương đứng dậy hướng vào cử tọa, rồi nói:
- Thời đức Thái-tổ, người cử cô-mẫu lên làm vua Bắc-biên. Sau cô mẫu truyền ngôi cho tôi. Nghĩ mình phận mỏng tài thô, mà ngồi trấn ngự biên cương bấy lâu đã là quá đáng. Nay tuổi đang đi vào sáu mươi, mà còn tham lam thế tục, hóa ra có tội với tổ tiên. Hoàng thượng nối di chí của đức Thái-tổ, cho Thiên-Thành về làm dâu họ Thân, khắp Bắc-biên đều thâm cảm hồng-ân. Từ năm Thiên-Thành mười tuổi, tôi đã thu làm đệ tử, dạy văn, luyện võ, dạy cho phép trị dân của vua Trưng. Cho hay, hổ phụ sinh sinh hổ tử, tre già măng mọc, Thiên-Thành trở thành người văn mô vũ lược. Vì vậy, trước khi về đây nghị sự, tôi đã họp 207 động chủ, trang trưởng, cáo việc truyền ngôi cho Thiên-Thành. Hôm nay tôi cũng xin tâu cùng hoàng-thượng và triều đình.
Công chúa Thiên-Thành cùng phò mã Thân Cảnh-Long bước đến trước nhà vua rồi Khai-Quốc vương, Vương phi lạy tạ. Trong hai người, thì công chúa đẹp như bông hoa lan mới nở chói chang. Còn phò mã thì như cây ngọc trước gió, khiến ai cũng phải khen thầm: thực là tốt đôi. Triều đình cùng đưa lời chúc tụng vua bà Bắc-biên Thiên-Thành.
Thấy trời đã sang canh ba (nửa đêm), Tể-tướng Lý Đạo-Thành tâu:
- Việc nghị sự quân quốc trọng sự đã hoàn tất. Thần xin bệ hạ cho bãi triều. Buổi nghị sự tới sẽ chỉ gồm các vị liên hệ đến cuộc Nam chinh mà thôi.
Ỷ-Lan đứng dậy nói:
- Hôm nay phải bàn quốc sự, tôi có truyền cung nữ nấu cháo cá quả dâng Hoàng-thượng, Quốc-phụ, Quốc-mẫu cùng mời chư vị dùng lấy thảo.
Cung nga, thái giám dâng cháo cá quả. Mùi cháo bốc lên ngào ngạt. Những tướng lĩnh từng ra ngoài cầm quân, thì món cháo cá quả chỉ là món ăn bình thường. Nhưng đối với nhà vua, công chúa, thì đây là món ăn đặc biệt, lạ miệng. Có người ăn một bát, có người ăn tới năm sáu bát. Tiệc cháo tàn.
Nhà vua ban chỉ:
- Bãi triều.
Nhạc vừa cử hết bản Long-hồi, thì cửa điện Uy-viễn bật tung, rồi một bao lớn bay vào giữa nghị sự đường đến vù một cái, rơi ngay trước mặt Lý Thường-Kiệt. Ông vội phát một chiêu chưởng, đẩy vào vật kia. Vật ấy bay nhẹ nhàng xuống giữa điện. Quan Tổng-lĩnh thị-vệ Đỗ Oanh vội mở bao ra, thì trong đó có một xác người, mặc y phục thị vệ; cổ bị bẻ gẫy, đầu y gập xuống lưng, hai mắt trợn ngược, máu từ miệng chảy ra khắp người. Miệng y có cái đùi chó luộc nhét sâu vào trong họng. Mọi người đều bật lên tiếng kêu:
- Mộc-tồn Vọng-thê hòa thượng.
Đỗ Oanh lôi xác chết khỏi bao vải, trên lưng y có mảnh vải trắng, với hàng chữ viết bằng máu:
« Nọc cổ thằng bé con Đỗ-Oanh đánh mười roi về tội bất cẩn. Làm tổng-lĩnh thị vệ mà khi họp quốc sự, để gian nhân nghe trộm. Lần sau thì xử tử hình. »
Công chúa Thiên-Ninh bật kêu lớn lên:
- Tên này là Đoàn Quang-Minh. Y làm việc tại Khu-mật viện của Quảng-Tây Nam-lộ. Y giả làm người Việt, rồi thi vào trường Trung-nghĩa, vì văn học, võ công y đều giỏi, nên được Quang-Thạch cho làm đại đệ tử.
Công chúa lấy trong bọc y ra một tập giấy. Trên giấy, đầy những chữ. Nàng đưa đến cho nhà vua cùng Ỷ-Lan đọc. Trên giấy ghi chép gần như đầy đủ những gì triều đình Đại-Việt đã họp bàn từ hồi chiều. Dường như y ghi chép chưa xong, đã bị giết, nên thiếu đoạn cuối.
Ỷ-Lan, Quách Sĩ-An, Lý Kế-Nguyên cũng đã nhận ra Đoàn Quang-Minh. Ba người nhìn nhau, rồi lắc đầu, như tự nhủ:
- Cũng may Mộc-tồn hòa thượng khám phá ra, bằng không thì bao nhiêu cơ mật đều lọt vào tay bọn Tống.
Đỗ Oanh đến trước mặt nhà vua quỳ gối:
- Mộc-tồn bồ-tát tuyên phạt thần mười roi về tội bất cẩn. Xin bệ hạ cho thần thụ hình, bằng không thì... người phạt thần nặng lắm.
Nhà vua định ra lệnh đánh Đỗ Oanh, thì tiên-nương Bảo-Hòa vẫy tay:
- Thôi tha cho. Từ nay phải chú ý kiểm soát cẩn thận.
Biết khi Mộc-tồn hòa thượng phạt ai, mà tiên nương Bảo-Hòa lên tiếng ân xá, là ông không truy phạt tội nhân nữa, Đỗ Oanh hướng tiên nương hành lễ:
- Đa tạ sư phụ đại xá.
Niên hiệu Thiên-huống Bảo-tượng thứ nhì, đời vua Thánh-tông nhà Lý (1069), Xuân, tháng hai, ngày Đinh-Dậu -1071 bên Trung-quốc nhằm niên hiệu Hy-ninh thứ nhì đời Tống Thần-tôn.
Ghi chú

Vua thứ ba của triều Lý tên thực là Nhật-tông, con đầu lòng của Thái-tông, lên ngôi vua năm Giáp-Ngọ (1054), lấy niên hiệu là Long-thụy Thái-bình. Đến năm Kỷ-Hợi (1059) cải niên là Chương-thánh Gia-khánh. Năm Bính-Ngọ (1066) nhân sinh thái-tử Càn-Đức, cải nguyên là Long-chương Thiên-tự. Chỉ hai năm sau, năm Mậu-Thân (1068) nhân được hiến voi trắng, coi là điềm lành, cải niên là Thiên-huống Bảo-tượng. Hồi đầu năm 1069 vẫn còn dùng niên hiệu Thiên-huống Bảo-tượng. Đến giữa năm, sau chiến thắng mới đổi là Thần-vũ nguyên niên. Kể từ đầu đời Lý, các vua vẫn lấy quốc hiệu là Đại-Việt, nhưng trên văn kiện chưa bao giờ dùng chính thức. Đến đời vua Thánh-tông, ngài chính thức dùng quốc danh Đại-Việt trong văn kiện, và cả ngay với những văn kiện bang giao với Tống. Vì hồi đó Đại-Việt quá mạnh, khiến Tống kiềng! »

Sáng sớm, xung quanh điện Uy-viễn bao trùm một không khí uy nghi cùng cực. Trên trời, lúc nào cùng có hai chực chim ưng bay lượn tuần hành, theo lệnh của một Ưng-binh đứng trên ngọn cây điều khiển. Xung quanh điện, giáp-sĩ gươm đao sáng ngời, đứng canh gác, thân bất động như những pho tượng đá. Vòng ngoài Ngao-binh dàn hơn trăm chó sói tuần hành. Những đại thần, tướng lĩnh dù thị vệ đã quen, nhưng khi vào điện cũng phải bỏ mũ, để xem mặt . Ai cũng biết đây là cuộc họp cực mật.
Đúng giờ Thìn, Thiên-huống Bảo-tượng hoàng đế đi trước, phía sau là Ỷ-Lan thần-phi, có thị vệ hộ tống đến điện Uy-viễn. Hoàng đế vào trong rồi, thì đàn chó sói khép vòng vậy. Kể từ giờ này, nội bất xuất, ngoại bất nhập.
Nhạc cử bài Nguyên-thọ (đã nói trong hồi trước), báo hiệu vua thiết đại triều.
Lễ nghi tất.
Quan Tổng-lĩnh thị-vệ Đỗ Oanh thân tiễn một trăm hai mươi nhạc công rời khỏi điện.
Năm trước mỗi khi thiết triều Tể-tướng Lý Đạo-Thành tâu điều gì, phải xưng tên, cùng toàn vẹn chức tước. Tháng trước đây, hoàng-đế giáng chỉ ban cho ông khi tâu không phải xưng tên nữa. Kể từ khi triều Lý lập lên đến giờ, chỉ có mình Khai-Quốc vương được ban cho danh dự này, nay Tể tướng Lý Đạo-Thành là người thứ nhì.
Ông tâu:
- Hôm nay thiết triều cơ mật, để quyết định kế sách bình Chiêm. Tất cả tướng soái, đô-đốc liên hệ đều tề tựu. Riêng quốc-phụ thánh thể bất an, nên quốc-mẫu phải săn sóc người, thành ra vắng mặt. Khác với mọi lần, hôm nay tất cả lục vị phu nhân phụ giúp Ỷ-Lan thần phi cũng tham dự để biết tình hình.
Ông chỉ sáu phu nhân:
- Tâu bệ hạ, sáu vị phu nhân trợ giúp thần-phi là: công chúa Thiên-Ninh giúp về việc bộ Hộ, nội cung, Hoàng-thành. Công chúa Động-Thiên trợ giúp về việc bộ Hình. Vương-phi Trung-thành vương Hoằng-Chân là Nguyễn-thị Trinh-Dung trợ gúp về Binh-bộ, Khu-mật viện. Vương phi Tín-nghĩa vương Chiêu-văn là Lê Ngọc-Nam giúp về Lại-bộ. Phu-nhân Định-viễn tướng quân Nguyễn Căn là Vũ Thanh-Thảo giúp về Công-bộ. Phu nhân của Tả-thiên ngưu vệ thượng tướng quân Bùi Hoàng-Quan là Trần-thị Ngọc-Huệ giúp về Lễ-bộ. Xin bệ hạ ban chỉ.
Nhà vua hướng vào hai con trai của quốc-phụ là Trung-thành vương Hoằng-Chân, Tín-nghĩa vương Chiêu-văn, hỏi:
- Hôm qua trẫm đến thăm Quốc-phụ, người có vẻ mệt. Trẫm dâng sâm thang. Không biết tình trạng nay ra sao?
Tín-nghĩa vương Chiêu-Văn tâu:
- Đạ tạ bệ hạ, phụ vương chỉ còn mệt chút ít thôi.
Long-tâm mở rộng, nhà vua hướng vào chư tướng ban chỉ:
- Từ khi mở nước, đời nào cũng có những anh hùng cầm gươm ra trận để bảo vệ đất tổ. Nước Chiêm-thành, vốn thuộc tộc Việt. Nhưng trong hơn nghìn năm tộc Việt ta bị Trung-quốc cai trị, họ bỏ rơi vùng phía Nam Đại-Việt. Trong khi đó, một dị tộc Mã-lị-á vốn là dân man mọi ven biển, hung dữ, không văn hóa, tiến dần lên phía Bắc, chiếm lĩnh vùng Việt-thường, chia cắt lập ra nước Chiêm-thành, Chân-lạp. Tuy nhiên, Chân-lạp vẫn do tộc Việt cai trị. Duy Chiêm-thành, tộc Mã luôn nổi lên giết tộc Việt lập triều đại. Mỗi khi triều đại tộc Mã cầm quyền, là chúng đem quân vượt biển hoặc tràn qua biên giới vào cướp phá phía Nam ta. Triều đình nhiều lần sai sứ vào răn dạy, chúng gửi sứ sang tạ tội, nhưng chứng nào tật ấy. Hôm nay tạ tội, ngày mai lại tái phạm. Tội quấy rối biên thùy còn có thể làm ngơ cho được. Gần đây, Chế Củ gửi sứ sang Tống, ước hẹn với Tống cùng khởi binh đánh phá Đại-Việt. Tống hứa, cắt vùng đất từ Thanh-hóa trở vào phong cho Chế Củ. Từ đấy Chế Củ đồn trữ lương thảo, thao luyện quân sĩ, đóng chiến thuyền, định năm tới cùng Tống tiến quân vào Đại-Việt ta. Than ôi! Trẫm nhận ngôi từ liệt tổ, muốn cho dân giầu, hạnh phúc như thời vua Hùng, vua Trưng, mà Bắc thì Tống không để yên. Nam thì Chiêm quấy phá. Cùng chẳng đã cây muốn lặng, gió chẳng muốn đừng, trẫm phải tự vệ. Trong phép dụng binh, tiên hạ thủ chế nhân, hậu hạ thủ chế ư nhân (mình ra tay trước thì khống chế được người, mình ra tay sau thì bị người khống chế). Nay trẫm họp chư khanh tại đây để bàn định kế sách tiến quân phạt Chiêm.
Ngài gọi Lý Thường-Kiệt:
- Người hãy lại đây.
Lý Thường-Kiệt quỳ gối trước ngai vàng. Nhà vua cầm thanh Thượng-phương bảo kiếm trao cho ông, rồi ban chỉ:
- Người với ta có tình sư thúc, sư điệt, người lại là bạn học với ta từ thời thơ ấu. Sau duyên đưa đẩy người thành nghĩa tử của ta. Suốt hơn hai mươi năm qua, ta với người tuy nghĩa là chúa tôi, nhưng tình thì e hơn ruột thịt. Hôm nay ta thân chinh, phong người làm nguyên soái. Cuộc Nam chinh này là cuộc chiến một mất một còn. Nếu ta thắng, thì Tống không dám đem quân qua. Ta bại, thì Tống sẽ dốc quân chiếm nước đánh ta. Ta thắng, thì Đại-Việt còn, như ta bại thì Đại-Việt mất. Này Thường-Kiệt, người thắng thì Đại-Việt còn, người bại, Đại-Việt mất. Đại-Việt còn hay mất hoàn toàn do người đấy.
Thường-Kiệt tiếp kiếm:
- Thần xin hết sức mình để bảo vệ đất tổ.
Nhà vua rót ngự tửu ban cho Thường-Kiệt ba chung. Thường-Kiệt uống rồi, đứng dậy, ngồi vào ghế dành cho nguyên soái. Ông hướng vào cử tọa:
- Phàm ra quân, thì phải lo phòng vệ căn bản. Ta Nam chinh, thì trước hết phải phòng Tống ở phương Bắc có thể đánh úp. Xin mời Lạng-châu quốc-công trình bầy về tình hình mới nhất của Tống đã.
Thân Thiệu-Cực tâu:
- Thần Hữu kim-ngô thượng-tướng quân, lĩnh Đại-tư-mã Bắc-biên, Lạng-châu quốc-công kính xin tâu trình về tình hình Tống. Năm trước thần đã tâu về việc Nhân-tông bên Tống băng hà, Hy-Ninh đế lên ngôi, triều đình chia làm hai phe. Một chủ xâm Nam thùy và một phe chủ hòa. Nhưng mới đây, một biến cố rung động Trung-nguyên, có ảnh hưởng lớn lao vô cùng đến các nước lân bang. Đó là Tống mới nảy ra một thiên tài, thông kim bác cổ tên là Vương An-Thạch. An-Thạch có chương trình cải cách làm cho nước giầu, binh mạnh. Nếu cuộc cải cách của Thạch thành công, có thể đưa Tống đến giầu mạnh bất khả đương.
Nhà vua phán:
- Trẫm theo dõi tấu trình của Khu-mật viện nói về cuộc cải cách này lẻ tẻ. Nay khanh khá trình bầy thực chi tiết vụ này để triều thần cùng biết. Trước hết khanh nói về tiểu sử Vương An-Thạch đã. Tại sao y đang là một chức quan nhỏ, bỗng chốc nhảy lên địa vị tể thần? Ai đã tiến cử y? Tiến cử trong trường hợp nào? Chương trình cải cách của y ra sao, mà lại gọi là Tân-pháp.
Thiệu-Cực lấy ta một số thẻ tre, trên viết đầy chữ, rồi liềc qua một lượt. Ông tâu:
- Vương An-Thạch, hiệu là Bán-sơn, tự là Giới-phủ, người đất Lâm-xuyên thuộc Phủ-châu, sinh giờ Tuất ngày 12 tháng 11 năm Tân-Dậu niên hiệu Thiên-hy thứ tư đồi Tống Chân-tông, so với bản triều là niên hiệu Thuận-thiên thứ 12 đời đức Thái-tổ (1021).
Ghi chú
Xét số Tử-vi của Vương An-Thạch thì thấy: mệnh lập tại Dần, Cự-môn, Thái-dương thủ mệnh. Cát tinh phù gồm Hóa-lộc, Hóa-quyền, Hóa-khoa, Văn-khúc, Tả-phụ, Thiên-khôi. Thực trên đời nghiên cứu Tử-vi, chưa bao giờ tôi thấy một lá số lại hội đủ tất cả những cát thiên về biện thuyết ở mệnh như vậy. Cự-môn, Thái-dương ở Dần là cách Nhật xuất thiên môn, cả hai sao đều là quyền tinh, khiến đương số nói giỏi, nói được nhiều người nghe; thông minh tuyệt đỉnh, nổi tiếng khi sống, chết rồi muôn đời sau còn được người ta khâm phục. Đã vậy Cự ngộ Quyền, đắc thêm cách « Quyền hội Cự, Vũ anh hùng ». Nên ông là một loại anh hùng của Tống. Đã hết đâu, còn hội Khoa, Xương khiến cho công danh nhẹ bước, được người đời kính trọng. Khoa, Xương, Lộc tạo cho ông thành đại văn hào, đại thi hào, đại tư tưởng gia. Cung quan vô chánh diệu tại Ngọ; Nhật tại Dần, Nguyệt tại Tý chiếu lên là cách Nhật, Nguyệt tịnh minh, tá cửu trùng ư kim điện, nghiã là làm tể thần. Vì Thiên-khôi thủ mệnh, Thiên-việt cư quan, đắc cách tọa quý hướng quý nên thi tiến-sĩ ông đỗ đầu. Chỉ tiếc rằng Kình-dương cư Tuất, Đà-la cư Thân chiếu vào cung mệnh nên trên hoạn đồ luôn bị dèm pha, chỉ trích.

Những cải cách của ông giống như những biện pháp kinh tế đời nay, đi trước Âu-Mỹ cả nghìn năm. Nếu Tống tận dụng cải cách này, thì thế cuộc thay đổi; Trung-quốc đã ngự trị thế giới từ mấy thế kỷ trước, chứ đâu đến nỗi bị Bát-quốc làm nhục ở cuối thế kỷ thứ mười chín. Chỉ tiếc rằng vì bị đồng liêu chỉ trích, Vương An-Thạch xui vua Thần-tông xâm lăng Đại-Việt bị Ỷ-Lan với Lý Thường-Kiệt đánh bại, đưa đến ông mất chức Tể-tướng, rồi cải cách của ông bị bỏ.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 172
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com