Trọng-Kiệt, Văn-Huy phát chiêu tấn công mấy nhà sư. Mấy nhà sư đứng im, không phản ứng, môi mỉm cười rất tươi. Trong khi Phạm Dật vội xen vào giữa, đỡ chiêu của hai người. Bình, bình. Cả ba đều bật lui lại. Trọng-Kiệt kinh ngạc hỏi: - Dật đệ, như thế này là thế nào? Phạm Dật không trả lời Kiệt. Nó cung tay hành lễ với bốn nhà sư: - A-di Đà-Phật. Đệ tử tham kiến chư vị đại sư. Đã bốn năm đệ tử không được thấy bóng dáng Phật gia của chư vị. Không ngờ hôm nay lại được hạnh ngộ ở đây. Nó chỉ bốn nhà sư giới thiệu với Kiệt, Huy: - Bốn đại sư đây là sư huynh của Ỷ-Lan thần-phi, có pháp danh Viên-Mộc, Viên-Căn, Viên-Chi, Viên-Diệp đều là cao đồ của Đại-từ Liên-hoa bồ-tát Viên-Chiếu. Kiệt, Huy chưa từng nghe danh bốn vị sư này, nhưng đã từng nghe tiếng Đại-từ Liên-hoa hoà thượng tức sư Viên-Chiếu với Mộc-tồn Vọng-thê hòa thượng. Cả hai vội cung tay: - A-di Đà-Phật. Xin tham kiến chư vị đại hòa thượng. Trọng-Kiệt chỉ vào Bình, Sang: - Hai vị đây đều là người yêu nước, xin tứ vị đại sư ân xá cho hai vị. Viên-Mộc cầm bình rượu rót ra chung, để trước mặt Trần Bình, rồi giải huyệt cho y: - Trước khi đãi khách, bần tăng xin đạo trưởng uống chung rượu này, rồi mới để hai đô thống Lưu Trọng-Kiệt, Nguyên Văn-Huy và chú bé Phạm Dật uống sau; như thế mới đúng lễ nghi Đại-Việt gọi là tiền chủ, hậu khách. Trần Bình run run không dám cầm chung rượu lên. Hành động của bốn nhà sư, hợp với thái độ của Trần Bình khiến Phạm Dật hiểu rõ: y và hai người bạn suýt nữa bị đánh thuốc độc. May nhờ bốn nhà sư biết trước, bắn sỏi cứu viện. Tính trẻ con nổi dậy, nó bưng chung rượu kề vào miệng vợ Bình: - Mời bà chị xơi rượu. Vợ Bình kinh hãi, vùng vẫy lắc đầu: - Ta không uống. Mụ ngoác mồm ra chửi: - Bốn thằng trọc ăn thịt chó kia. Bọn mi hèn hạ ẩn núp trên xà nhà, rồi ra tay ám toán. Ta không phục. Nhà sư Viên-Diệp cung tay: - A-di Đà-Phật, xin phu nhân khoan thứ cho anh em bần tăng. Anh em bần tăng chỉ có bốn người, tự biết rằng không thể đấu lại hơn trăm giáo đồ của phu nhân, nên phải ra tay kiềm chế phu nhân, để tránh đổ máu. Đến đó trống thúc nhịp nhàng, tiếng quân reo, lẫn với tiếng hổ, báo gầm, voi rống. Chỉ lát sau Trung-thành vương Hoằng-Chân cùng chư tướng vào. Vương thấy bốn nhà sư thì cung tay: - Đệ xin tham kiến bốn vị sư huynh. Đa tạ các sư huynh đã giúp đỡ đệ. Vương nói với Trọng-Kiệt: - Đô-thống tuổi đã bốn mươi, cầm quân hai mươi năm, mà sao không biết cảnh giác, để đến nỗi suýt nữa mất mạng? Đô-thống chết không sao, nhưng quốc-sự hỏng, mới là điều nguy nan. Lần này ta tha tội cho đô-thống, nhưng lần sau thì không được. Phạm Dật xấu hổ hỏi: - Đại ca, sự thể ra sao? - Trước khi khởi hành đến đây, ta đã nhờ bốn vị đại sư nhập trang dò thám. Lúc ba người nói chuyện với hai tên Sang, Bình, thì phòng bên cạnh có hàng chục đứa ghé tai nghe trộm. Các người chỉ nói mấy câu đã bị lòi đuôi ra ngay. Tại sao? Bởi các người xưng là giáo chúng Nghệ-an mà lại nói giọng Thiên-trường, thì đời nào chúng tin? Ta từng dặn phải giả tiếng Thanh-Nghệ mà các người quên mất. Lại nữa truyền thống Hồng-thiết giáo là khi người trên ra lệnh, thì cấp dưới chỉ biết nhắm mắt tuân theo, nhược bằng hơi ngần ngừ là bị xử tử liền. Như vậy làm gì có chuyện bọn ma đầu sai các người xin hỏi ý kiến? Khi thấy các người lòi duôi, những tên núp bên ngoài, đem nước mời mười binh sĩ của các người uống. Uống nước xong, chân tay chúng tê liệt. Bọn giáo đồ họ đem vào trong phòng kín khám xét, thấy trên người có tín bài Thiên-tử binh, là chúng hiểu ngay ra rồi. Bởi vậy một mặt chúng giả đưa đẩy câu chuyện với các người, một mặt chúng sai làm cơm đãi, rồi bỏ thuốc độc vào rượu, đợi các người uống xong lên cơn đau. Bấy giờ chúng bắt các người làm gian tế cho chúng. Nhưng bốn vị sư huynh của ta đã can thiệp kịp. Vương phất tay một cái, giải huyệt cho Nguyễn Minh-Sang, rồi nói với vợ chồng Bình: - Người có biết tại sao đang lúc dầu sôi, lửa bỏng, mà Minh-Sang lại bỏ trang, đến đây bàn chuyện với người không? Nhất là chuyện chống lại Hồng-thiết giáo; có thể nguy đến tính mệnh không? - ??? - Vì Minh-Sang là người yêu nước. Sang tuy theo Hồng-thiết giáo từ lâu, mà chí lại hướng về chủ đạo tộc Việt. Minh-Sang tới đây để chuẩn bị đón quân Đại-Việt bình Chiêm, và tiếp quản trang Vọng-hương này. Võ Xuân-Loan chửi đổng: - Thì ra thế. Tiên nhân cha thằng Minh-Sang kia, mi làm gian tế cho giặc, tiềm ẩn trong bản giáo. Được, sẽ có ngày bà quẳng mày xuống hầm cho rắn ăn thịt. Minh-Sang cười ha hả: - Này chị Xuân-Loan, chị nói gì vậy? Trước hết tôi hỏi chị: thế nào là giặc? Giặc là bọn ác độc, dùng sức mạnh thu góp tài sản của dân, khiến dân đói khổ. Chúng ta đều là người Việt yêu nước, tha phương cầu thực, người người hướng về quê hương; chẳng may bị bọn Hồng-thiết kéo cao ngọn cờ yêu nước đánh lừa. Chúng bắt ta nộp vàng bạc, nộp lúa gạo cho một thiểu số ngồi trên hưởng. Ai phê bình, ai thắc mắc thì chúng giết. Đó mới là giặc. Còn tại quê mình, trên có nhân quân, dưới có anh tài phù tá, làm cho dân giầu, nước mạnh, thì đương nhiên chúng ta phải qui phục. Biết quân ta sắp đánh Vọng-hương, nghĩ tình cố cựu tôi từ Vọng-giang tới đây để cứu anh chị. Nay đã đến nước này, mà chị còn nỏ miệng ư? Sang còn định biện luận gì với mụ, nhưng Trung-thành vương vẫy tay không cho y nói. Vương bảo Trọng-Kiệt: - Bây giờ quan quân đã chiếm xong Vọng-hương, đám nội-giáo trung kiên bị kiềm chế hết rồi, đô-thống hãy đưa Minh-Sang ra ngoài để chuẩn bị chém hết bọn tín đồ Hồng-thiết ác độc, rồi tổ chức lại trang Vọng-hương. Vương nói với Phạm Dật: - Ta để vợ chồng Bình cho đệ với Kim-Loan giải quyết. Phạm Đật cười hì hì nhìn vợ Bình: - Bà chị ơi! Tôi nghe rằng các đạo trưởng đều luyện công bằng nọc rắn, nên dù rắn độc đến đâu cũng không làm gì được. Vậy tôi phiền bà chị xuống hầm rắn bắt cho tôi mấy con hổ mang, nấu cháo đậu xanh đãi Trung-thành vương. Mong bà chị đừng từ chối. Nói rồi nó túm cổ áo mụ đem lại gần hầm rắn. Mụ bở vía, kinh hãi nói lắp bắp: - Đừng! Tiểu tướng quân đừng làm thế. Tiểu tỳ chưa từng luyện công bằng nọc rắn. Nhược bằng tiểu tướng quân quẳng tiểu tỳ xuống hầm, thì nhất định tiểu tỳ sẽ bị rắn ăn thịt liền. Kim-Loan vẫy tay: - Này bà Xuân-Loan, chính tôi đã nghe bà khoe rằng, bất cứ ai phạm tội, bà quẳng xuống hầm là hơn giờ sau rắn ăn hết thịt chỉ còn xương. Còn bà, thì bà có thể ngủ ở dưới đó đến mấy tháng kia mà? - Con khốn nạn kia. Xuân-Loan nổi giận chửi: Bà mà thoát chết hôm nay bà sẽ băm vằm mày ra làm từng mảnh. Ai cho mày chõ mồm vào? Kim-Loan bảo Phạm Dật: - Anh quẳng mụ xuống đi. - Ừ. Dật làm bộ định quẳng mụ xuống. Mụ bở vía năn nỉ: - Kim-Loan, cháu nói đỡ cho thím một lần, thím sẽ nhớ ơn cháu đến già. Từ nay thím sẽ không truy lùng bố cháu nữa, rồi cho cháu làm đội trưởng nội-giáo. Phạm-Dật ngán ngẩm: đến nước này mà mụ còn nghĩ đến tác oai tác quái. Nó dọa thêm: - Tôi không tin. Tôi biết chị luyện công, hóa ra mình đồng da sắt. Nhất định bà chị dấu nghề rồi. Thôi bà chị thử xuống cho tôi xem một lần đi. Nói rồi nó tung mụ lên cao. Ở trên không mụ kêu thét lên hãi hùng. Đợi cho mụ rơi gần xuống tới hầm rắn, nó mới phẩy tay một cái, người mụ bay bổng sang bên kia bờ hầm. Mụ run rẩy: - Tiểu tướng quân, tiểu tỳ xin đầu hàng. Xin tiểu tướng quân tha mạng. Tiểu tỳ nguyện đi tiên phong đánh Chàm, lập công chuộc tội. - Vậy mụ thề độc đi. Mụ chắp tay hướng lên trời lạy tám lạy rồi chỉ xuống hầm rắn: - Kính lạy thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh. Kính lạy tiền vị giáo chủ Xích-trà-luyện, Nhật-Hồ lão nhân, Đông-Nhật lão nhân. Đệ tử Võ Xuân-Loan xin thề: kể từ hôm nay, đệ tử nguyện trung thành với Đại-Việt. Nếu đệ tử có lòng nào, thì xin... thì xin để cho Hồng-xà ăn thịt. Phạm Dật chán ngán trong lòng: - Cho đến giờ này, mà con mụ đành hanh còn lấy bọn ma đầu ra chứng giám cho lời thề của mụ, thì thực không còn cách gì cải hóa được mụ nữa. Nó quay ra hỏi Bình: - Còn ông anh? Ông anh tính sao đây? - Vợ tiểu nhân tính sao, thì tiểu nhân hao làm vậy. Xin tiểu tướng quân tha mạng cho. Tiểu nhân xin đầu hàng. - Thôi được, mời anh chị theo tôi ra ngoài gặp Trung-thành vương. Ngoài sân, dân chúng đứng thành ba khu theo hình bán nguyệt: khu người già, khu nam, khu nữ. Ở giữa, có hơn trăm thanh niên nam nữ, cổ quàng khăn đỏ bị trói, ngồi thành mười hàng. Đó là bọn nội giáo. Phía sau dân chúng, ngoài dinh, Thiên-tử binh cùng đám tráng đinh trong trang đứng gác khắp nơi. Tại bậc thềm, một cái bục cao, trên để năm chiếc cẩm-đôn. Trung-Thành vương ngồi trên ghế chính giữa, còn lại mỗi bên hai chiếc, dành cho bốn vị sư chữ Viên. Vũ Quang, Hoàng Nghi, Lý Đoan, Trần Ninh đứng sau, khoanh tay hầu. Các tướng đứng thành hai hàng. Thầy-lang Võ Thương đáng cầm loa đang giảng giải: - ... Chúng ta là con dân Đại-Việt. Trong nước hiện do một hoàng đế nhân từ ngồi trên, dưới phò tá bởi các đại thần văn mô, vũ lược. Từ trước đến giờ Chiêm luôn thần phục ta. Thế mà gần đây Chế-Củ giết chúa, cướp ngôi, rồi lại muốn cùng Tống đánh chiếm Đại-Việt. Cho nên đức vua ta mới phải đem quân chinh tiễu. Ông chỉ vào Trung-Thành vương: - Từ mấy chục năm nay, chúng ta bị bọn dư đảng Hồng-thiết áp chế, đến nỗi muốn sống không xong, mà chết cũng không nổi. Bây giờ quân nhân nghĩa do vương gia chỉ huy, đã bắt hết bọn ác độc. Kể từ hôm nay, ruộng vườn của ai, thì trả cho người đó. Nhà của ai, thì trao trả lại chủ cũ. Tất cả mọi thứ thuế đều đợc tha. Dân chúng chỉ phải đóng góp tiền bạc để chi phí vào những công ích trong trang, do hội đồng kỳ mục ấn định mà thôi. Dân chúng vỗ tay hoan hô: - Đức vua Đại-Việt vạn tuế! Vạn vạn tuế. Lê Mưu lại cầm loa nói tiếp: - Trai tráng trong trang từ mười sáu tới bốn mươi lăm vẫn được gọi là hoàng-nam. Trương-tuần sẽ họp các hoàng-nam để phân chia canh gác. Sau đó Lê Mưu giảng giải về cải cách canh nông ở Đại-Việt, nay áp dụng ở trong trang. Tuy nhiên, có đôi điều khác biệt là: tất cả không ai phải nộp thuế. Cũng không có việc hoàng nam xung quân v.v. Dân chúng sung sướng reo hò. Hoằng-Chân đứng dậy chỉ vào đám gần trăm thanh niên Hồng-thiết bị trói. Vương nói: - Đám thanh niên này là nội-giáo, chẳng qua vì tuổi trẻ, yêu nước, tưởng đâu gia nhập Hồng-thiết giáo để bảo vệ dân, làm lợi cho đất nước. Nào ngờ họ bị sa bẫy tụi ma đầu mà lầm lạc. Nay cô gia xin các bậc trưởng thượng, cùng toàn thể dân trong trang hãy tha thứ cho chúng, để chúng theo cô-gia đánh Chàm, lập công chuộc tội. Dân chúng bấy lâu nay bị bọn đầu trâu mặt ngựa nội-giáo hành hạ, ức hiếp đủ điều, người người đều thề sẽ có dịp băm vằm chúng ra. Bây giờ dịp đó đến, mà vị vương gia này lại truyền ân xá cho chúng, thì thực là điều họ không thể chịu nổi. Nhưng nghĩ lại, từ nay họ được sống thanh thản, không bị hành hạ, ức hiếp nữa, họ đành chấp hành lệnh. Vương nói với đám nội-giáo: - Các người cũng như vợ chồng Trần Bình, tội ngập đầu, dù có ném xuống hầm rắn đến nghìn lần cũng đáng. Nay cô gia ân xá cho, để các người theo cô gia đánh Chàm. Sau khi chiến thắng rồi, ai có công sẽ được phong thưởng. Bấy giờ các người trở về trang, hương đảng không thể báo thù, mà còn phải kính trọng. Các người hiểu không? Bọn nội giáo răm rắp dạ ran. Sau khi khao quân, Trung-thành vương họp chư tướng truyền lệnh: - Bây giờ chúng ta tiến binh đánh Tư-dung, Ma-linh. Lợi dụng hai nơi này chưa biết Vọng-hương, Vọng-giang thất thủ, chúng ta giả làm giáo chúng chở lương tới nạp cho hai kho này, rồi đánh úp, như vậy đỡ đổ máu. Vương gọi Lưu Trọng-Kiệt, Nguyễn Văn-Huy, Phạm Dật, Vũ Quang: - Từ đây tới Tư-dung, đi bộ mất một ngày. Vậy cô gia giao cho Lưu Trọng-Kiệt làm chánh tướng, Nguyễn Văn-Huy làm phó tướng. Cô gia cũng cho sư đệ Phạm Dật, Vũ Quang đem voi, hổ, báo, sói, đười ươi, mỗi thứ hai đội. Quân thì có hiệu Quảng-vũ. Tất cả trang phục như dân chúng, cổ đeo khăn đỏ, giả làm giáo chúng Hồng-thiết, đem xe, ngựa, chuyên chở lương thực của ta, giả đem lương nộp cho kho Tư-dung. Ngay sáng mai lên đường, sao cho tối thì tới khu rừng gần Tư-dung, rồi cho quân qua đêm, để sáng hôm sau thình lình đánh úp trại thủy quân, kho lương. Sau đó tổ chức canh phòng thực cẩn thận. Bằng không thủy quân Chiêm trở về chiếm lại. Vương nói với vợ chồng Trần Bình: - Hai người được đặt thuộc quyền đô-thống Lưu Trọng-Kiệt, đem đội nội-giáo theo làm hướng đạo. Mọi đối đáp với binh tướng dọc đường do hai người đảm trách. Hãy cố gắng lập công. Vương nói với Lê Mưu, Võ Thương: - Tôi thấy hai cháu Kim-Liên, Kim-Loan võ công, kiến thức không tầm thường. Vậy tôi xin hai vị cho hai cháu đi cùng với Phạm Dật, Vũ Quang để thông dịch tiếng Chàm, và hướng đạo. Lê Mưu, Võ Thương cùng cúi đầu: - Đa tạ vương gia ban ơn cho hai cháu. Vương gọi đô-thống Vương Văn-Trổ, Mã Diệu-Phong: - Vương đô-thống làm chánh tướng, Mã đô-thống làm phó tướng. Sư đệ Lý Đoan, Trần Ninh đem voi, hổ, báo, sói, đười ươi mỗi thứ hai đội theo yểm trợ. Quân thì có hiệu Bổng-nhật. Tất cả cũng trang phục như dân dã, cổ đeo khăn đỏ, giả làm giáo chúng Hồng-thiết. Khi đi qua trang Vọng-giang, sẽ có giáo chúng ở đây cùng Nguyễn-minh-Sang theo giúp. Mọi đối đáp với Chiêm dọc đường, cũng như binh lính Ma-linh, Nhật-lệ để cho Sang lo. Tại Ma-linh, Chiêm có khoảng năm nghìn binh, canh giữ lương thảo với một đội chiến thuyền tiếp tế. Sau khi chiếm được Ma-linh, phải tổ chức phòng thủ thực chu đáo, bằng không thủy-quân từ Nhật-lệ có thể trở về chiếm lại. Vương gọi Lê Mưu, Võ Thương, Hoàng Nghi: - Chúng ta còn voi, báo, hổ, sói, mỗi loại hai đội. Với đám ninh thú này, cùng ba trăm hoàng-nam trang Vọng-hương, chúng ta sẽ làm một nhiệm vụ đặc biệt là chuyển lương cho đạo binh đánh Tư-Dung. Đạo binh của Lưu Trọng-Kiệt giả làm dân-phu trang Vọng-hương, do bọn nội-giáo Hồng-thiết giáo tải lương rầm rộ lên đường. Đội binh thú, thì chỉ có voi là di chuyển bình thường. Còn cọp, báo, sói, đười ươi được chở bằng xe, bên ngoài phủ sơ một lớp cỏ mỏng. Suốt dọc đường, qua hơn mười trang ấp của Chàm. Bọn hương dịch thấy đám võ-trang Hồng-thiết kéo cờ Chiêm, nói tiếng Chiêm, lại có thẻ bài chứng minh của an-vũ sứ Ma-linh, thì không thắc mắc gì. Chiều hôm đó, thì tới cánh rừng cỏ, sú. Tên hướng đạo của Vọng-hương báo cho biết, chỉ còn một giờ đường bộ nữa thì tới căn cứ Tư-dung. Lưu Trọng-Kiệt ra lệnh cho dừng quân qua đêm. Phạm Dật, Vũ Quang mắc võng lên một cây cao, điều khiển Thần-ưng bay trên trời tuần thám. Vòng ngoài của trại quân được hai mươi con sói canh phòng. Lê Kim-Loan, Võ Kim-Liên là những thiếu nữ sinh sống ở hải ngoại. Hai người chỉ biết quê hương, yêu quê hương qua lời kể của phụ huynh, qua sách vở. Bây giờ gặp hai thiếu niên đồng lứa tuổi là Phạm Dật, Vũ Quang đầy kinh nghiệm, từng trải tại quê nhà. Hai đứa thi nhau thuật lại những cảnh trí mà chùng đã đi qua: nào chùa một cột, nào chùa Trấn-quốc nào đền Trấn-võ, nào chùa Tiêu-sơn (Dâu), nào kinh đô Trường-yên thời Đinh... Lê Kim-Loan hỏi: - Nghe người ta kể, hai anh là người cùng quê với Ỷ-Lan thần phi, vương phi Trung-thành vương phải không? - Đúng thế, vì vậy chúng tôi gọi mấy bà ấy bằng chị. Hồi chúng tôi sáu bẩy tuổi, thì các bà ấy đã dậy thì. Hồi bà Ỷ-Lan ở chùa, thì chúng tôi học tại đấy. Chị em chúng tôi thân với nhau vô cùng. Chị Ỷ-Lan thường lấy lộc Phật cho chúng tôi ăn. Vì Ỷ-Lan thần phi coi chúng tôi như em ruột, mà người là vợ của nhà vua, tức chị dâu của Trung-thành vương. Cho nên khi vương dạy võ cho chúng tôi, thì chỉ cho chúng tôi gọi là sư huynh, chứ không cho gọi là sư phụ. Kim-Liên hỏi: - Sau trận giặc này trở về, các anh có thể dẫn tôi vào yết kiến thần phi được không? - Được chứ. Chị tôi lúc nào cũng thích những nam nữ thiếu niên có khí tiết như chúng mình. Sau khi cơm chiều xong, Lưu Trọng-Kiệt gọi chư tướng tới lều chỉ huy để bàn kế hoạch đánh Tư-dung. Vũ Quang nói nhỏ vào tai Trọng-Kiệt: - Trung-thành vương đã dặn nhỏ em phải nhắc với anh một điều: cái gương thời Thuận-thiên, bọn trưởng lão được võ lâm, triều đình tha cho sau trận Lộc-hà, rồi cuối cùng chúng cũng phản. Vì vậy ta có giao nhiệm vụ cho vợ chồng Trần Bình, phải cẩn thận. Bằng không thì nguy lắm. - Được, ta nhớ điều đó. Chư tướng có mặt đầy đủ trong lều chỉ huy. Vũ Quang cho bốn con sói canh bốn góc lều. Lưu Trọng-Kiệt hỏi Võ Xuân-Loan: - Chị Loan đã từng tải lương tới Tư-dung, hẳn chị biết rõ địa thế của trại này. Vậy chị trình bầy cho chúng tôi nghe, để còn thiết kế tấn công. Võ Xuân-Loan đứng lên, trình ra một trục lụa, trên vẽ bản đồ căn cứ Tư-dung: - Thưa tướng quân, vì địa thế nước Chiêm nằm dọc theo bờ biển, có những dẫy núi chia cắt lãnh thổ làm nhiều khu, cho nên mọi di chuyển quân lương đều do đường biển. Do vậy những căn cứ tồn trữ lương đều nằm trên các hải cảng. Tư-dung không phải là căn cứ hải quân, mà chỉ là căn cứ tồn trữ lương thảo. Quân số ba nghìn người, thì bộ binh chỉ có năm trăm, giữ nhiệm vụ canh phòng, đóng làm ba đồn. Ban ngày thì có mặt đầy đủ. Còn ban đêm, cứ ba người, thì một người ngủ tại đồn, thay nhau canh gác. Còn hai người về nhà ngủ. Nguyễn Văn-Huy hỏi: - Thế gia đình của đám bộ binh này ở thành trại, hay ở rải rác trong dân? - Họ ở rải rác trong dân. - Còn thủy quân? - Hai nghìn năm trăm thủy quân, thì chia làm ba hải-đội, mỗi hải đội mười thuyền để vận tải lương đi Nhật-lệ. Mồng một, đội một lên đường, mồng mười đội hai lên đường. Hai mươi, đội một về, thì đội ba lên đường. Như hôm nay là ngày mười bẩy thì đội một, đội hai vắng nhà, đội ba đang tu bổ chèo, buồm, chuyên chở lương xuống thuyền. Ban ngày thì thủy thủ làm việc, ban đêm chúng về nhà ngủ. Lưu Trọng-Kiệt ban lệnh cho Nguyễn Văn-Huy: - Đô-thống chỉ huy đạo Quảng-vũ hữu bao vây, tấn công khu dân chúng gần cảng, bắt hết đám quân binh đang ngủ tại nhà. Anh Trần Bình, mang năm mươi nội-giáo theo giúp Nguyễn đô thống để thông dịch, cùng nhận diện binh tướng chiêm. - Lực lượng còn lại, ta chia làm ba đội. Đội một gồm đạo Quảng-vũ tả, bốn mươi thớt voi do đích thân tôi chỉ huy, bất thần tấn công chiếm ba đồn quân. Đội hai do sư đệ Vũ Quang, sư muội Kim-Liên mang hai đội báo, hổ, sói, cùng chị Võ Xuân-Loan, với năm chục nội-giáo ập vào chiếm các kho lương. Đội ba do sư đệ Phạm Dật, sư muội Kim-Loan đem hai chục đười ươi, một trăm nội-giáo, thình lình chiếm lĩnh các chiến thuyền. Sáng sớm hôm sau, các đạo quân âm thầm lên đường tới tuyến xuất phát. Đúng giờ Mão, đô-thống Lưu Trọng-Kiệt đốt cây pháo thăng thiên tung lên trời. Cây pháo nổ một tiếng lớn rồi tỏa ra hình con chim ưng mầu đỏ chói. Đạo quân Quảng-vũ hữu hô lên một tiếng, rồi ập vào tấn công ba đồn. Binh tướng nhanh chóng tràn qua cổng. Nhưng không thấy quân canh, mà cổng đồn thì lại mở rộng. Họ tìm khắp doanh trại, không một bóng người. Viên sư trưởng kinh hoảng, ra lệnh cho binh sĩ chia nhau trấn giữ các căn trại trong đồn, rồi y cỡi voi ra ngoài đồn, thì gặp ba viên sư trưởng kia cũng đang tìm mình. Cả ba đồn cùng trống trơn. Đô-thống Lưu Trọng-Kiệt đã tới. Ông kinh hãi, ra lệnh cho các sư trưởng rút quân ra khỏi đồn, trấn phía ngoài. Ông dùng voi phóng tới khu cảng, thì gặp Phạm Dật, Kim Loan đang đứng ngây người nhìn ra khơi: một dẫy chiến thuyền dàn thành hàng dài, thả neo đang nằm im lìm, dường như không có người. Quá kinh hãi, ông cùng Phạm Dật sang khu vực kho lương, thì thấy Vũ Quang, Võ Xuân-Loan, Kim-Liên với đám nội-giáo đang vây phủ phía ngoài mấy dẫy nhà chứa lương. Ông hỏi: - Sư đệ. Cái gì đã xẩy ra? - Đệ xua mười báo vào dẫy nhà chứa lương, mười hổ vào khu nhà chứa cỏ, mười sói vào khu nhà chứa vũ khí. Nhưng không thấy chúng báo hiệu. Đệ xua ba đội kế tiếp vào, cũng im lìm. Đệ thổi tù và gọi mấy lần cũng không thấy chúng ra. Vì vậy đệ còn trì nghi, chưa dám tấn công, vì chỉ có năm chục nội giáo. Trọng-Kiệt quyết định: - Dù có cạm bẫy gì chăng nữa, với ba sư của ta đóng ngoài ta há sợ sao? Chúng ta tiến lên. Trọng-Kiệt, Phạm Dật, Vũ Quang, Võ Xuân-Loan cùng đám nội-giáo cùng rút vũ khí cầm tay, rồi tràn vào khu nhà lớn nhất chứa lương. Khi vừa đẩy cửa vào, một cảnh làm họ kinh ngạc: hổ, báo, sói nằm thành hàng trong tư thế rất ngoan ngoãn. Có tiếng cười khúc khích trên sàn nhà, mọi người nhìn lên: Hoàng Nghi đang ngồi trên đó, tay cầm con gà nướng xé ra ăn. Vũ Quang hỏi: - Chú ba. Thế này là thế nào? - Lưu đô thống sao chậm quá vậy? Hoàng Nghi cắn một miếng thịt gà rồi tiếp: Trung-Thành vương với đệ dùng toàn hoàng nam của Vọng-hương, đi đường tắt thình lình đánh bắt được an-vũ sứ Ma-linh, rồi kề gươm vào cổ, lệnh cho y dẫn đường tới chiếm doanh trại ngày hôm qua rồi. Binh Chiêm bị bắt trọn. Vương đã đem quân Chiêm với hoàng nam, lập thành đạo quân Tư-dung lên đường đánh Địa-lý. Vương để đệ ở lại đây chờ các vị.