Hoàng-Nghi cung cung kính kính đem tấm bản đồ trả lại cho Đông-Thiên, rồi nó đem tấm bản đồ sao chép ra chỉ vào hai con đường:
- Thưa giáo chủ, đây có hai con đường tiến vào Đồ-bàn, mà ít quân Chiêm đồn trú. Con đường thứ nhất là vòng sang Lão-qua, rồi vượt núi đổ vào Đồ-bàn. Hồi trước Trung-thành vương đã dùng nhưng không thành, vì kế hoạch bị lộ, nên Chiêm đem nghìn quân đóng đồng chặn mất đường đi. Nhưng nay ta dùng quân đánh úp thì cũng thành công. Con đường thứ nhì, đi theo đường mòn dưới chân Hải-vân sơn. Không biết giáo chủ chọn con đường nào?
- Ta dùng cả hai con đường. Con đường Hải-vân quá nhỏ, voi, thú, ngựa không đi được. Ta đùng một đội quân tinh nhuệ đổ vào, không cần mang theo lương thực, bởi Nam Hải-vân đến Đồ-bàn ta có tới hơn mười trang do Hồng-thiết giáo thống thuộc các kỳ chủ. Chúng sẽ làm nội ứng, cung cấp lương thảo. Con đường này không có nhiều quân Chiêm đồn trú, vì chúng đoán không bao giờ Đại-Việt có thể vượt nổi Hải-vân. Còn con đường thượng đạo Tây Trường-sơn, tuy phải đối phó với đồn binh ở Tà-lầm, nhưng không khó, ta có cách đánh úp đồn này.
Trước khi khởi hành, Thường-Kiệt đã ban lệnh cho Tây-hồ thất kiệt rằng: bọn Hồng-thiết giáo rất tinh tế, chỉ mình Trần-Di được đối đáp mà thôi. Vì vậy sáu trẻ đành ngồi câm miệng hến, rất khó chịu. Quách-Y là đứa trẻ có năng khiếu về binh pháp nhất, bây giờ nghe Đông-Thiên nói, nó nhịn không được, buột miệng hỏi:
- Thưa giáo chủ, đánh úp cách nào, vì đồn ở trên đồi, có suối nước, lại rất kiên cố?
Đông-Thiên cười khành khạch:
- Khó là khó với các cháu, chứ với ta thì dễ, bởi đồn binh này thống thuộc Vũ-chương-Hào. Gã đồn trưởng là một đô thống, đệ tử của Lam trưởng lão. Hiện trong tay chúng ta đều có binh phù của Vũ-chương-Hào. Chúng ta cho lão Lam đem một đội giáo chúng, mang binh phù của Vũ-chương-Hào, nói rằng đến tiếp viện cho đồn Tà-lầm. Khi ta vào đồn rồi, thì kiềm chế tên đồn trưởng, đánh úp đồn.
Bọn trẻ reo lên mừng rỡ.
Đông-Thiên thở dài:
- Nhưng ta chỉ có hơn nghìn tráng sĩ của các cháu, thì sao có đủ quân đánh Đồ-bàn?
Hoàng-Nghi cười lớn:
- Uy danh giáo chủ quá lớn, thì đâu có gì khó? Hiện ta có hơn hai nghìn tù, hơn nghìn hàng binh Chiêm. Ta thống nhất lại cũng được ba nghìn người. Ta lại viết thư xin Tín-nghĩa vương gửi trả hai vạn tù binh ở Bố-chánh... Còn trận bộ chiến giữa Dư tướng quân với bộ binh Chiêm, ít ra cũng bắt được vài nghìn nữa. Như vậy ta có vạn rưởi rồi.
Quỳnh-Hoa nhăn mặt:
- Vạn rưởi mà làm gì, trong khi ở Thi-nại Chiêm có sáu vạn bộ, ba nghìn kị, môt trăm thớt voi. Đồ-bàn chúng có hai vạn bộ, ba nghìn kị, năm mươi thớt voi, đem vạn rưởi quân ô hợp đến để nộp mạng cho chúng ư?
- Thưa phó giáo chủ.
Hoàng-Nghi cung tay: Hiện ngoài khơi nguyên soái Thường-Kiệt có trong tay hơn vạn tù binh nữa. Nhưng thưa phó giáo chủ, đấy chỉ là lực lượng trừ bị mà thôi. Lực lượng chính ta mong mỏi là lực lượng do Vũ-chương-Hào, Lê-phúc-Huynh chỉ huy đánh từ trong ra kia.
Quỳnh-Hoa lại lắc đầu:
- Người Chiêm vốn thù hận ta từ lâu. Nay ta tập trung hàng binh lại đi đánh chúa của chúng, thì bất đắc dĩ chúng phải theo. Nhưng lỡ ra khi hai quân đối trận, mà chúng trở cờ thì hóa ra ta nộp mạng cho chúng sao?
Hoàng-Nghi mỉm cười:
- Thưa phu nhân, ta đâu có để cho chúng trở cờ dễ thế? Trước khi khởi hành, ta tập họp chúng lại, nói cho chúng biết: đúng ra khi chúng bị bắt là ta đem chặt đầu hết. Bởi chúa ta là đấng nhân từ, nên tha mạng cho chúng. Nay chúa ta sai chúng đi đánh vua vô đạo Chế-Củ, vợ con chúng ở nhà được chu cấp lương thảo đầy đủ. Nếu như chúng phản bội, hoặc không hết lòng, thì ta sẽ giết hết vợ con, bố mẹ, anh em của chúng. Như vậy đến trời bảo, chúng cũng phải chịu phép.
Đến đó có tiếng công chúa Động-Thiên dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai Hoàng-Nghi:
- Dò xem ngũ sứ của y là ai?
Hoàng-Nghi hỏi:
- Thưa giáo chủ, giáo chủ còn ngũ sứ nữa, không biết cao danh quý tính của ngũ sứ là gì, bọn tiểu bối chưa hề nghe qua?
- À, các cháu không biết, thì cũng không có gì lạ, vì chúng ta dấu kín. Ngoại trừ ta với phó giáo chủ, thân phận lớn lao, không thể dấu tên. Đinh-kiếm-Thương, vì được phong tước Cửu-chân vương nên phải giữ tên Việt. Còn lại, tất cả đều thay tên đổi họ, hoặc mang tên Chiêm. Như Vũ-chương-Hào đổi là Lục-chương-Anh, Lê-phúc-Huynh đổi tên là Thi-đại-Năng. Ngũ sứ cũng thế, Trung-ương sứ giả tên là Thâm-phúc-Dũng. Y là em cùng cha khác mẹ với ta.
Bọn trẻ cùng bật lên:
- Úi chà, bọn tiểu bối từng nghe danh Thâm tiên sinh, nhưng đâu có ngờ người lại là trung-sứ!
- Kiến thức các cháu cũng rộng đấy. Tây-phương sứ giả tên là Phan-vũ-Tỉnh chắc các người chưa biết gì về y. Bắc-phương sứ giả tên Nguyễn-nhược-Điểu. Đông-phương sứ giả là Nguyễn-thị-Bằng. Nam-phương sứ giả là Bố-bì Đà-na. Trong năm tên này thì bốn tên là đệ tử của ta, chỉ mình tên Phan-vũ-Tỉnh thì theo học với Tây-dương giáo chủ. Hiện Đông-phương sứ đang làm lễ-nghi học sĩ trong cung Chế-Củ. Nam-phương sứ Bố-bì Đà-na, Bắc-phương sứ giả Nguyễn-nhược-Điểu trấn thủ cử biển Thi-nại. Còn Trung-ương sứ giả Thâm-phúc-Dũng, Phan-vũ-Tỉnh trấn thủ Phan-du Răng-go.
Ghi chú,
Lãnh thổ Chiêm thời Lý phía Đông giáp biển Nam-hải, phía Tây giáp Ai-lao, phía Bắc giáp Nghệ-an, phía Nam tới vùng ranh giới Phan-rang, Bình-tuy bây giờ. Cái tên Phan-du Răng-go, chúng tôi phiên âm theo tiếng Chàm. Về sau chúa Nguyễn chiếm vùng này đặt trực thuộc Khánh-hòa. Đến gần đây mới gọi là Phan-rang, chắc gốc ở tiếng Phan-du Răng-go mà ra.
Dương-Minh thở phào một tiếng, rồi nói:
- Như vậy, hiện người của ta nắm hết các chức vụ then chốt của Chiêm rồi. Theo tiểu bối nghĩ thì giáo chủ chỉ việc ban dụ cho chư đệ tử chuẩn bị sẵn, khi đại giá giáo chủ tới đâu thì ở đó phất cờ đón giáo chủ vào là xong chứ có gì?
- Đâu có giản dị như vậy.
Đông-Thiên nhăn mặt: Hồng-thiết giáo của ta không giống như bang Nhật-hồ hồi phụ thân ta làm giáo chủ. Thời đó, trên dưới một lòng. Nay Hồng-thiết giáo của ta phải lưu vong sang Chiêm, ăn nhờ ở đậu, cơ sở gây dựng trên đám Việt-kiều. Mà Việt-kiều thì trăm người trăm lòng. Tên Lê-phúc-Huynh, Vũ-chương-Hào,Đinh-kiếm-Thương,Thâm-phúc-Dũng, mỗi đứa tự thu đệ tử, gây dựng thế lực riêng. Giữa chúng với nhau không đồng tâm đã đành, mà ngay đối với ta, chúng cũng giang sơn nhất khoảnh. Võ công, kiến thức ta không hơn chúng, nên chúng coi thường ta. Ngoài miệng tuy chúng gọi ta là giáo chủ, mà sự kính trọng thì không có. Sở dĩ chúng tôn ta làm giáo chủ bù nhìn, vì bốn đứa không đứa nào chịu khuất phục đứa nào, mà tất cả đều phải tránh tương tàn hầu Chế-Củ nể nang. Cái tên Kiếm-Thương bỏ cuộc đi tu, không phải vì muốn thành Phật đâu, mà vì sau trận Bố-chánh, thân bại danh liệt, nếu trở về Đồ-bàn, e bị tên Vũ-chương-Hào thanh toán, nên mượn cớ bỏ đi tu. Y không thiết tranh dành để mấy tên kia không thanh toán, tha cái mạng cùi cho, thế thôi... Đấy, người xem, chúng như vậy mà bảo ta ra lệnh cho chúng ư?
Trần-Di định lên tiếng bàn, thì có tiếng công chúa Động-Thiên dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai:
- Di, hãy nói theo chị.
Trần-Di nói theo lời công chúa Động-Thiên:
- Giáo chủ ơi, xưa kia Nhật-Hồ lão nhân từ Tây-vực về chỉ có một thân một mình, mà người gây dựng lên cơ đồ lớn lao. Vậy thì giáo chủ cũng đi lại từ đầu. Muốn đi lại từ đầu, trước hết giáo chủ giết chết hết những bọn không tuân phục, rồi huấn luyện đệ tử thay thế. Có khó gì đâu?
- Ta cũng muốn giết hết bọn chúng, nhưng không đủ sức.
- Thưa giáo chủ, võ công giáo chủ không đủ thì ta dùng mưu.
- Mưu gì?
Trần-Di chỉ Hoàng-Nghi:
- Nghi ơi! Trình giáo chủ phương thức giết bọn bất trung với người đi.
Hoàng-Nghi thấy hàng ngày Trần-Di không khôn hơn mình làm bao, tự nhiên hôm nay nó kiến giải sự việc minh mẫn vô cùng thì kinh ngạc không ít. Bỗng tiếng công chúa Động-Thiên rót vào tai nó:
- Nghi đệ, nói theo chị.
Nó vội vàng cung kính:
- Thưa giáo chủ, cho đến lúc này Chế-Củ vẫn chưa biết gì về đại kế muốn làm vua Chiêm của giáo chủ. Bọn Vũ-chương-Hào, Lê-phúc-Huynh cũng chưa biết giáo chủ được Đại-Việt hoàng đế giúp. Vậy một mặt giáo chủ sai sứ đi truyền lệnh cho họ nhất loạt nổi dậy đánh Chế-Củ, một mặt giáo chủ cùng anh em tiểu bối đánh úp Đồ-Bàn. Nếu như người nào theo giáo chủ thì chứng tỏ họ trung thành, giáo chủ để nguyên. Khi lên ngôi vua, giáo chủ trọng đãi họ. Còn như người nào không theo giáo chủ, thì Chế-Củ sẽ giết chết.
Đông-Thiên, Quỳnh-Hoa với đám kỳ chủ cùng vỗ tay hoan hô. Tiếng công chúa Động-Thiên vẫn rót vào tai Hoàng-Nghi, nó nói theo:
- Vậy ngay bây giờ giáo chủ ấn định ngày nổi dậy của giáo chúng, rồi sai sứ truyền mật lệnh đi khắp nơi. Giáo chủ cũng báo cho nguyên soái Thường-Kiệt biết để người tiến quân vào cửa Thi-nại. Đúng ngày đó, giáo chủ cùng anh em tiểu bối đánh úp Đồ-Bàn.
Đông-Thiên truyền cho Quỳnh-Hoa với vợ chồng Trần-Bình, Võ-xuân-Loan lên đường di sứ thuyết phục Vũ-chương-Hào, Lê-phúc-Huynh cùng ngũ sứ.
Từ hôm tái ngộ với Nang-chang-Lan, trong người Hoàng-Nghi cảm thấy bứt rứt vô cùng, vì nàng luôn đi sát bên cạnh gã Đông-Thiên. Nàng phụ trách hầu hạ cơm nước, giặt giũ quần áo cho lão. Đêm đến nàng lại ngủ cùng lều với lão, nó không thể nào cùng nàng tâm tình. Cứ mỗi chiều, nàng lại gọi một trong các vợ kỳ chủ vào lều để làm cây thuốc cho giáo chủ luyện công. Một trong những điều khiến Hoàng-Nghi băn khoăn nữa là Nang-chang-Lan tỏ ra rất có oai với mười kỳ chủ. Đôi khi nàng ra lệnh cho họ, mà họ cũng răm rắp tuân theo. Đã đến lúc không đừng được nó hỏi vợ chồng Huyền kỳ chủ. Nhưng hai người lắc đầu, tỏ vẻ không dám nói.
Hôm nay nhân Đông-Thiên bận họp với mười kỳ chủ, Nang-chang-Lan được tự do. Hoàng-Nghi rủ nàng ra bờ suối tâm tình. Đây là ngày đầu tiên Hoàng-Nghi được nói chuyện riêng với Lan, mà không có đệ tam nhân bên cạnh. Không cầm được lòng, nó hỏi Lan:
- Em ơi! Anh lấy làm lạ rằng tại sao từ hôm tái ngộ đến giờ, em cứ tìm cách tránh né anh là lý do gì vậy?
Chang-Lan cau mày, tỏ vẻ bực mình:
- Thì em phải phục thị giáo chủ. Anh nên nhớ rằng, trong bản giáo có hàng vạn vạn người ước mơ được hầu hạ lão nhân gia, nhưng chỉ mình em được lão nhân gia ban hồng ân. Ngay mười nữ kỳ chủ, nhan sắc thực hiếm có trên đời, mà cũng hàng tháng mới được ban hồng ân một lần. Em nghĩ, anh phải hãnh diện chứ? Tại sao anh lại trách em?
Hoàng-Nghi chán nản trong lòng:
- Em nói phục thị. Vậy phục thị là thế nào?
- Anh chưa nhập bản giáo anh chưa biết. Để em nói cho anh nghe: trong mỗi môn phái đều có một phương pháp luyện công riêng biệt. Riêng bản giáo, thì khi luyện Hồng-thiết tâm kinh đến chỗ cao thâm, thì độc tố làm hao thận, tổn não, thần trí trở lên mơ hồ. Vì vậy trên từ giáo-chủ cho tới tả hữu hộ pháp, ngũ sứ, mười kỳ chủ, các đạo trưởng phải dùng những giai nhân đang tuổi thanh xuân: từ lúc khởi có kinh, đến bốn mươi, làm thuốc, trong bản giáo gọi là cây thuốc. Nhưng không phải ai cũng làm cây thuốc được. Cây thuốc phải là giai nhân, đang tuổi còn kinh nguyệt, không bệnh hoạn, người phải thơm tho không mùi hôi.
Hoàng-Nghi đã đọc bộ « Thái-tổ thực lục » trong đó nói về giáo chủ Nhật-hồ cùng các trưởng lão bắt những thiếu nữ, hoặc thiếu phụ xinh đẹp dùng nước tiểu, kinh nguyệt của họ làm thuốc phụ trợ luyện công. Nay nghe Chang-Lan nói, nó rùng mình: không ngờ người yêu nó lại bị lão Đông-Thiên xử dụng làm cây thuốc, mà dường như nàng coi như một hãnh diện. Bỗng một cảm giác kinh tởm sinh ra trong người nó. Nó nhìn Chang-Lan, mà lòng nguội như tro tàn. Nó vốn thâm nhiễm Nho học, nên nghe Lan nói, nó chán nản:
- Thôi, lúc khác ta nói chuyện tiếp.
Ghi chú,
Dùng phụ nữ trong thời gian còn kinh nguyệt làm thuốc, tăng sức lực, tuổi thọ y học Việt-Hoa đã tìm ra từ thế kỷ thứ nhất. Trong bộ Anh-hùng lĩnh Nam 0, đoạn thuật Tô-Định dùng mỳ nhân kế bắt Ngũ-kiếm và đoạn Khất-Đại phu giảng cho chư anh hùng nghe khi từ Đinh-Đào đảo trở về. Trong Cẩm-khê di hận 0 tôi lại trình bầy chi tiết trong phần nói về ”ngũ pháp trường xuân”. Nhưng bấy giờ y học Hoa-Việt chưa có cơ sở vừng chắc, nên rất sơ sài. Trải qua mười thế kỷ, tới thời Thuận-thiên -18 thuật này mới có cơ sở vững chắc. Xin đọc trong bộ Thuận-thiên di sử, Nhật-hồ lão nhân cùng các trưởng lão coi lý thuyết này như khuôn vàng thước ngọc để luyện công.
Cho đến thời kỳ gần đây, ngay cả thánh Ghandi của Ấn-độ cũng dùng. Giai đoạn 1939-1976, chủ-tịch Mao-trạch-Đông của Trung-quốc và bộ chính-trị triệt để dùng thuật này để bồi dưỡng sức khoẻ. Trong những lần đi cùng phái đoàn y học châu Âu sang Trung-quốc trao đổi y học, tôi đã được nghe, được đọc, được học rất nhiều về y-án này của các danh nhân Trung-quốc cận đại, hiện đại. Đây là y-khoa, không phải là dâm dục. Năm trước, một đồng nghiệp của tôi là bác-sĩ Lý-chí-Túy; y-sĩ riêng của chủ tịch Mao-trạch-Đông cũng có tường thuật sơ về cách bồi dưỡng sức khoẻ của nhà lãnh đạo Trung-quốc nàng bằng cách dùng thiếu nữ trẻ.
Thời gian 1978 cho đến nay (1993) trước sau tôi đã giảng thuật này bốn lần trong các cuộc đại hội y-khoa về Vu-sơn học (Sexologie médicale chinoise). Nếu các độc giả Nam-quốc sơn hà muốn tìm hiểu về thuật này, cứ tập trung khoảng 300 người trở lên, tôi xin sẵn sàng diễn giải.
Không đầy mười lăm ngày, binh tướng Chiêm bị bắt làm tù binh trong trận Nam-giới, Nhật-lệ, Tư-dung đã tập trung về Vọng-hương, Vọng-giang. Đông-Thiên cùng đám kỳ chủ Hồng-thiết giáo được đám thiếu niên Long-biên, Tây-hồ trợ giúp tổ chức thành năm hiệu quân. Mỗi hiệu quân do hai kỳ chủ chỉ huy. Năm hiệu quân mang tên Hoàng-kỳ, Bạch-kỳ, Huyền-kỳ, Lam-kỳ, Hồng-kỳ.
Đám Hồng-thiết thấy bọn trẻ tổ chức, làm việc phối hợp nhịp nhàng, thứ tự: phong chức tước cho các hàng tướng Chiêm, võ trang vũ khí, cung tên, cung ứng quân trang, quân dụng, rồi thao luyện lại; họ vô cùng kinh ngạc. Nhưng họ đâu biết rằng công chúa Động-Thiên cùng mười nữ tướng thân cận giả trai ẩn trong đội Giao-long binh điều động bọn chúng. Trung-thành vương đóng bản doanh ở cửa Tư-dung, không ra mặt, cũng chẳng tiếp xúc với bọn Đông-Thiên, nhưng vương liên lạc với công chúa Động-Thiên bằng chim ưng, để giúp đỡ trong việc cấp vũ khí, lương thảo.
Hôm ấy, mọi việc vừa cụ bị, thì chim ưng mang lệnh của nguyên soái Thường-Kiệt:
« ... Báo cho giáo-chủ, phó giáo chủ, chư vị kỳ-chủ biết ngày 25 tháng tư là ngày quân Đại-Việt trợ giúp Hồng-thiết giáo tiến đánh Thi-nại. Vậy hai cánh quân bộ do giáo chủ thống lĩnh phải tiến đánh Đồ-bàn cùng ngày, để quân Chiêm không cứu được nhau... »
Hoàng-Nghi trình thư cho Đông-Thiên. Y truyền lệnh đánh trống tập họp chư tướng, rồi nói:
- Bản nhân họp chư tướng, để chúng ta tiến quân đánh Đồ-bàn. Hôm nay là ngày mười rằm tháng tư rồi. Chỉ còn mười ngày nữa, chúng ta phải tiến đến Đồ-bàn. Vậy ta trao quyền cho quân sư Hoàng-Nghi.
Hoàng-Nghi thấy lão trao trọng trách cho mình, nó cũng hơi bỡ ngỡ. Tiếng công chúa Động-Thiên rót vào tai nó:
- Đừng sợ, cứ nhận lời, chị dạy cho.
Hoàng-Nghi đứng lên nhận kiếm lệnh của Đông-Thiên, rồi hướng vào cử tọa:
- Hiện thủy quân Chiêm bị phá tan ở Nhật-lệ, cho nên thủy quân Đại-Việt đang trên đường tiến về Thi-nại, rồi vượt sông Tu-mao đánh Đồ-bàn. Chiêm có trọng binh đóng ở Thi-nại với Đồ-bàn. Đại quân của nguyên soái Thường-Kiệt đánh Thi-nại. Đánh Đồ-bàn là nhiệm vụ của chúng ta. Hiện quân của chúng ta là quân của Đinh-kiếm-Thương, Lê-phúc-Huynh đầu hàng. Nay sẵn binh phù của Đinh, Lê, chúng ta cho quân kéo cờ Chiêm, dối rằng rút từ Nhật-lệ, Tư-dung, Bố-chánh trở về. Chỉ cần sao qua được các đồn kiểm soát dọc đường. Khi tới Đồ-bàn, ta đánh úp mới dễ.
Nó nhìn Tây-hồ thất kiệt:
- Bẩy huynh, đem đội võ sĩ giao long cùng hai đạo quân Hoàng-kỳ, Bạch-kỳ mang cờ Chiêm, âm thầm đi đường thượng đạo men dưới chân Hải-vân tiến quân. Sau khi qua Hải-vân, gặp trang Bạch-sa của người Việt. Trang này sẽ cung cấp lương thảo, cử người hướng đạo tiến về Nam. Từ Bạch-sa đến Đồ-bàn còn qua các trang Cờ-ri-bản, Phong-sá, U-bặc. Tới U-bặc thì dùng chim ưng liên lạc với chúng tôi để cùng tiến đánh Đồ-bàn.
Quách-Y hỏi:
- Trong bẩy chúng tôi, thì Trần-Di làm chúa tướng, tôi làm quân sư. Nay có bốn vị kỳ chủ Hoàng, Bạch nữa. Vậy ai làm chánh tướng?
Đông-Thiên ra lệnh:
- Các kỳ chủ của ta chỉ là những người võ công cao, sẽ xuất lực đánh giặc. Còn chỉ huy là các cháu. Vậy Trần-Di làm chánh tướng.
Hoàng-Nghi tiếp:
- Bây giờ đến đạo binh vượt Tây Trường-sơn. Tiền đạo do nhị vị Lam kỳ chủ đem bản bộ quân mã tiến đến Tà-lầm, dối rằng được lệnh đem quân tiếp viện cho đồn này. Khi vào trong đồn rồi, thì chiếm lấy đồn. Anh Phạm-Dật, chị Kim-Loan dẫn đội hổ binh đi theo trợ giúp. Trung đạo do nhị vị Huyền kỳ chủ dẫn đạo Huyền-kỳ đi tiếp ứng. Anh Vũ-Quang, chị Kim-Liên dẫn đội tượng theo yểm trợ. Hậu quân do nhị vị Xích kỳ chủ dẫn đạo Xích-kỳ đi đoạn hậu. Hai sư đệ Trần-Ninh, Lý-Đoan với Ngọc-Hương, Ngọc-Liên đem đạo báo, sói yểm trợ.
Nó hỏi Đông-Thiên:
- Còn đại giá giáo chủ, không biết giáo chủ định đi theo đạo nào?
Đông-Thiên chỉ Trần-Di:
- Ta phải đi theo đạo của cháu Trần-Di, vì nếu không có ta, khó mà các trang trưởng chịu tiếp tế lương thảo, cùng cung cấp dân phu.
- Vậy thì cháu đi theo đạo Tây Trường-Sơn. Sáng mai, giờ Mão, ta xuất phát.
Ngày 24 tháng tư đạo vượt Tây Trường-sơn lội suối, băng rừng, đã qua thung lũng Đắc-sút, rồi Đắc-tô, cuối cùng đi vào địa phận vùng Mang-bút, thì gặp đồng bằng Đắc-lĩnh. Trưa hôm ấy, đạo binh tiền phong lên đỉnh ngọn núi Đắc-lăng, nhìn sang sườn bên kia, chúng reo lên bầy tỏ sự vui mừng, vì trước mặt họ, hiện ra một cánh đồng bằng phì nhiêu, nhà cửa san sát. Viên đội trưởng quay trở lại báo với Phạm-Dật:
- Thưa tướng quân, hiện tiền đội đã tới thấy đồng bằng, dưới chân núi có một đồn binh. Vậy xin trình tướng quân rõ.
Phạm-Dật, Kim-Loan, vợ chồng Lam-kỳ chủ cùng lên trước quan sát. Kim-Loan hỏi Lam kỳ chủ:
- Theo như giáo chủ dạy, thì trang dưới chân núi này do giáo chúng Hồng-thiết cai quản phải không? Liệu họ có trung thành với sư huynh không?
Lam kỳ chủ dùng ngón tay viết xuống đất:
- Đúng thế, trang trưởng này là đệ tử của tôi. Để vợ chồng chúng tôi xuống gọi y lên đây. Chúng sẽ làm hướng đạo cho mình. Nhưng này Phạm hiền đệ, tuy chúng trung thành thực, nhưng huynh đệ cũng phải cẩn thận lắm mới được.
Hoàng-Nghi dặn:
- Sư huynh sư tỷ cẩn thận như vậy cũng phải. Nhưng hai vị đừng quên rằng họ là người Chiêm, khó biết rằng họ trung thành với Hồng-thiết giáo hay với Chiêm. Nay chúng ta đem đạo quân mà gốc là người Chiêm đã là một điều nguy hiểm rồi, lại nữa chúng ta giả là quân của Đinh-kiếm-Thương bị thua, rút chạy về, là hai điều nguy hiểm. Vậy tốt hơn hết nhị vị đừng cho trang trưởng biết rằng chúng ta là đại quân của giáo chủ, mà cứ xưng là quân của Đinh-kiếm-Thương rút về bảo vệ Đồ-bàn.
Vợ chồng Lam kỳ chủ nhanh nhẹn vượt đỉnh núi xuống dưới trang. Trong khi Phạm-Dật cho đóng quân lại dưới chân núi Đắc-lăng chờ đợi. Hoàng-Nghi cho mời các kỳ chủ cùng Long-biên ngũ hùng đến một gốc cây bên bờ suối ngồi họp, bàn kế hoạch tập kích thành Đồ-bàn. Phạm-Dật lo lắng:
- Sao giờ này mà chúng ta chưa nhận được tin tức của phó giáo chủ đi thuyết phục Vũ-chương-Hào, Lê-phúc-Huynh với Bố-bì Đà-na nhỉ? Lạ một điều, hàng ngày chúng ta đều nhận được thư của đoàn vượt Hải-vân vào giờ Mão, mà bây giờ là giờ Mùi rồi, cũng chưa thấy gì nhỉ?
Hoàng-Nghi cũng hơi phân vân, nó nói cứng:
- Ta cứ chờ một lát xem sao?
Nó mở tấm bản đồ sao lại của Đông-Thiên ra cùng các bạn bàn: đây, núi Đắc-lĩnh là chỗ này đây. Ta vượt qua đồng bằng Đắc-lăng thì tới Đồ-bàn. Còn đây là U-bặc. Cứ như lời ước hẹn, thì giờ này đạo vượt Hải-vân phải tới U-bặc rồi. Ta cứ ém quân chờ đợi, hôm nay là 24, ta tiến quân vào Đồ-bàn, và ngày 25 ta đánh thành.
Bỗng có tiếng chim ưng kêu, Phạm-Dật thở phào nhẹ nhõm, phất cờ gọi chúng xuống. Nó mở ống tre dưới chân chim ra xem; đó là lệnh của nguyên soái Thường-Kiệt:
« ... Tin tế tác cho biết, phó giáo chủ cùng vợ chồng Trần-Bình, Võ-xuân-Loan đều bị Vũ-chương-Hào bắt giam. Ngũ sứ đều phản giáo chủ. Tuy nhiên giữa Chế-Củ với Chương-Hào, ngũ-sứ đã có sự nghi ngờ lẫn nhau. Trước kia toàn bộ binh mã Đồ-bàn do Chương-Hào thống lĩnh, các tướng chỉ huy ngự-lâmquân, kị binh đều là đệ tử của y. Nay Chế-Củ đặt đạo kị binh, ngự lâm quân trực thuộc hoàng đệ Chế-ma-Đa. Dưới tay Chương-Hào chỉ còn mấy hiệu bộ binh.
Đạo quân vượt Hải-vân hiện đang tiến về U-bặc, không gặp trở ngại gì. Hãy chỉnh bị binh mã để tiến về Đồ-bàn. Phải tối cẩn thận... »
Đến đó vợ chồng Lam kỳ chủ trở lại với một toán năm người Chiêm. Như đã ước hẹn trước, bọn Phạm-Dật không biết tiếng Chàm, nên chúng im lặng, chỉ có Kim-Loan, Kim-Liên giả trai tiếp xúc với họ mà thôi. Thoáng nhìn con mắt năm người đầy nghi ngờ, Hoàng-Nghi than thầm:
- Con mẹ nó! Không xong rồi! Dường như năm tên này biết mình giả trá đây.
Nghĩ vậy nó dùng lăng không truyền ngữ nói vào tai Kim-Loan:
- Chị cả hỏi han chúng tình hình, để chúng khỏi nghi ngờ.
Kim-Loan nói tiếng Chàm:
- Trong năm vị, vị nào là quản giáo? Vị nào là đạo tưởng? Vị nào là trang trưởng?
Thấy Kim-Loan nói tiếng Chàm không chút vướng víu, lại tỏ ra rất đúng quy củ Hồng-thiết giáo: lớn nhất là quản giáo, rồi tới đạo trưởng, kế đến là trang trưởng. Bọn này đã bớt nghi ngờ. Một người đàn ông cổ quấn khăn hồng tự giới thiệu:
- Tôi tên Yan-chu-Bang là quản giáo. Dám hỏi: các vị thuộc đạo binh nào? Tại sao lại đi đường rừng về đây?
Kim-Loan đáp:
- Chúng tôi là quân bộ, trấn ở Nhật-lệ. Nhật-lệ thất thủ, thủy quân tan rã, nên chúng tôi phải đi đường rừng mà về.
- Thưa, trong các vị đây, vị nào có chức tước lớn nhất?
- Chẳng có ai lớn nhất cả. Chư tướng thất lạc, nên sau kỳ chủ Huyền, Lam, Xích đứng ra tụ tập tàn binh, rồi dẫn về đây mà thôi. Vậy các người phải chu cấp lương bổng cho chúng ta.
Yan-chu-Bang cau mày:
- Cách đây mấy ngày, chúng tiểu nhân được lệnh của tể tướng Lục-chương-Anh 0 rằng phải tra xét, đề phòng cẩn thận, vì sợ quân Đại-Việt băng rừng tiến công. Vậy xin các vị tạm đồn quân ở đây, để tiểu nhân cho ngựa phi về Đồ-bàn báo tin đã, rồi các vị hãy dẫn quân đi.
Kim-Loan gật đầu:
- Cũng được, nhưng các người phải cung ứng lương thảo đầy đủ cho chúng ta. Bây giờ ta để hai vị Xích kỳ chủ với ta cùng theo các vị về kinh để báo cáo quân tình một thể.
Yan-chu-Bang đồng ý. Y nói:
- Thế thì tiểu nhân đi với các vị.
Y chỉ mấy người đi theo:
- Vị này là Cao-Huy, đạo trưởng, vị này là Y-Bang trang trưởng. Hai người sẽ tiếp tế lương thảo cho các vị.
Vợ chồng Xích kỳ chủ, Phạm-Dật, Kim-Loan cùng lấy ngựa lên đường về Đồ-bàn với Yan-chu-Bang. Khi rời khỏi vùng núi đồi hơn hai mươi dặm, thì chim ưng đem thư đến cho Phạm-Dật. Nó mở thư ra, thì là thư của Hoàng-Nghi:
« ... Giết chết tên Yan-chu-Bang, rồi trở về, nói rằng đã báo với Lục-chương-Anh. Nếu Cao-Huy hỏi Yan đâu, thì nói rằng y ở lại Đồ-bàn, mai về... »
Phạm-Dật xé thư vụn thành từng miếng nhỏ, rồi tung theo gió. Yan-chu-Bang hỏi:
- Thưa thượng quan, thư gì vậy?
Phạm-Dật rút kiếm đưa một nhát, đầu y rơi khỏi cổ. Vợ chồng Xích kỳ chủ kinh ngạc trố mắt nhìn. Dật giải thích cho y nghe. Ba người đem xác Yan vứt vào rừng, nghỉ ngơi đến chiều thì lên đường trở lại chân núi: xa xa, thấy toàn quân đóng dài thành một trại liên tiếp.