Lý-Đoan nói nhỏ:
- Mình thử sai cặp sói lên xem sao!
Lý-Đoan lại ra lệnh cho cặp sói, chúng phóng lên sườn núi liền. Trong bóng đêm mờ ảo, bọn trẻ thấy rõ nơi phát ra tia lửa ban nãy là một cái hang. Đôi sói lên tới cửa hang, hướng mũi vào trong ngửi ngửi, rồi cùng vẫy đuôi chạy vào trong; cũng như chim ưng, cặp sói không thấy trở ra. Ngọc-Liên nói nhỏ:
- Trong hang tất có gì kỳ quái, vậy chúng ta phải lên thám thính xem sao? Biết đâu chẳng có phục binh Chiêm?
Lý-Đoan, Trần-Ninh tình nguyện lên thám thính. Hai trẻ dẫn đôi cọp trắng, mười con sói men theo sườn núi leo lên. Trong khi Ngọc-Liên cho chim ưng tuần hành trên trời bảo vệ. Hai trẻ lên đến nơi, mới thấy đây là một cửa hang khá rộng, trong hang có ánh sáng mờ mờ chiếu ra. Vốn can đảm, Trần-Ninh bảo Lý-Đoan:
- Em với đôi cọp trắng vào trước. Anh theo sau xem sao nghe.
Nói rồi nó vẫy tay, đôi cọp trắng đi trước, nó lần mò bước theo bén gót. Vào trong khoảng ba trượng, thì hang vòng sang phải, phình ra rộng hơn. Một cảnh tượng làm nó kinh hồn động phách: dưới ánh nến mờ mờ, một đôi nam nữ tóc bạc như cước, để xõa xuống đến lưng, nhưng da lại tươi hồng trẻ như người ba mươi, nhất là người đàn bà thực là một giai nhân sắc nước hương trời. Cả hai ngồi theo thức kiết già, đối mặt vào nhau. Hai bàn tay nữ để ngửa, hai bàn tay nam úp lên hai bàn tay nữ. Trên thân hai người đầy rắn, con thì quấn quanh cổ, con thì quấn quanh vai, con thì quấn quanh thân; xung quanh chỗ hai người ngồi có hàng nghìn con quấn quanh những tảng đá, hoặc nằm cuộn tròn trên đất... tất cả đều nghểnh cổ, bành mang, thè lưỡi, lắc lư cái đầu. Cạnh đó không xa, hai con sói của nó nằm ghểnh đầu hướng vào đôi quái nhân. Bốn con chim ưng thì đậu trên một tảng đá đang rỉa lông. Phía trong cùng là hai đỉnh hương, bốc khói nghi ngút, càng tăng thêm vẻ huyền bí.
Đôi cọp trắng tiến tới trước hai người, nhe nanh gầm gừ, hai chân trước cào cào xuống đất như định nhảy tới vồ mồi. Cả hai người cùng mở mắt ra nhìn thẳng vào đôi cọp. Tự nhiên đôi cọp như bị một uy lực nào đó làm cho chúng không gầm gừ nữa. Nhưng chúng vẫn mở to đôi mắt nhìn vào hai quái nhân. Tám mắt nhìn nhau muốn tóe lửa. Trong khoảng nhai dập miếng trầu, đôi cọp từ từ cúi đầu xuống, rồi nằm dài ra, đầu gối lên hai chân trước, bất động, đuôi đập xuống đất liên tiếp.
Kinh hãi, Trần-Ninh hú lên ra lệnh cho chúng tấn công. Nghe hiệu lệnh của chúa tướng, đôi cọp thức dậy, chúng đứng lên mở to mắt rồi gầm gừ định nhảy vào vồ đối thủ. Hai quái nhân lại mở mắt, trong đôi mắt phóng ra tia hàn quang cực mạnh, khiến đôi cọp cúi đầu vẫy đuôi từ từ tiến tới trước mặt hai người rồi quỳ gối hành lễ bốn lần. Hai người vuốt ve đầu đôi cọp tỏ vẻ cực kỳ thương yêu chúng. Chúng nằm dựa lưng vào hông hai quái nhân, liếm tay quái nhân rất thân thiết.
Người đàn bà quay lại nhìn Trần-Ninh, mụ mỉm cười tỏ vẻ đắc thắng, rồi vung tay một cái. Trần-Ninh nhìn thấy rõ ràng bà ta bắn ra bốn viên thuốc mầu đỏ bay rất chậm, nhưng quay tròn cực mau, phát ra tiếng vo vo. Hai viên tới trước hai con trăn khổng lồ đang lắc lư đầu thì tự nhiên kêu lên tiếng véo, rồi đổi chiều trúng vào đầu gối nó. Trần-Ninh định tránh, nhưng không kịp. Hai chân bị tê liệt, nó khụyu xuống như quỳ vậy.
Mụ già nói lảm nhảm một mình bằng tiếng Việt:
- Này anh! Cái thằng Chàm con này ở đâu vào đây quấy rối, làm gián đoạn cuộc luyện công của chúng ta. Thôi, ta tiếp tục.
Trần-Ninh tuy bị tê liệt, nhưng nó vẫn nói được. Nó hô lên một tiếng gọi Lý-Đoan. Lý-Đoan cùng đội sói đã vào đến nơi. Nhìn qua tình hình Lý-Đoan cũng đoán ra rằng Trần-Ninh với đôi cọp bị kiềm chế, nên nó hú lên xua đội sói tấn công cặp quái nhân. Lão già tru lên mấy tiếng như sói tru trong đêm dài. Lạ thay, nghe tiếng rú của quái nhân, đội sói đang hung hăng, bỗng cùng hí hí, đuôi vẫy liên hồi như chó mừng chủ. Lão già vẫy tay một cái, đội chó chạy lại bên hai vợ chồng lão nghểnh cổ, vẫy đuôi tỏ vẻ mừng rỡ. Hai quái nhân bật lên tiếng cười, rồi vung tay tung ra hai viên thuốc đỏ. Lý-Đoan bị hai viên trúng huyệt Dương-lăng-tuyền. Dương-lăng-tuyền là huyệt hội tụ năng lực của gân toàn người, vì vậy nó hoàn toàn mất hết sức lực, đứng như pho tượng.
Lý-Đoan hỏi Trần-Ninh bằng tiếng Chàm:
- Hai quái nhân này là ai vậy? Tại sao họ lại tấn công mình?
- Nào có biết. Thôi, phen này thì chết là cái chắc.
Mụ già nhăn mặt, chỉ vào Lý-Đoan, Trần-Ninh, mụ nói tiếng Chàm với lão già:
- Hai đứa này đem hổ, ưng, sói vào đây thì hẳn bọn chúng ở ngoài còn nhiều lắm, ta giết chúng quách rồi chuồn cho cho lẹ. Bề gì thì chúng ta cũng bị bọn Chàm khá phá ra, ta không thể ở đây được nữa.
Lão già cất tiếng khàn khàn nói với mụ già:
- Khoan! Ta thấy bước đi của hai đứa nhỏ theo quẻ Càn sang quẻ Cấn, thở hít theo nội công Đông-a, lại biết sai ưng, sói, hổ, thì e rằng liên quan đến cặp vợ chồng đó. Để hỏi cho ra lẽ đã.
Lão hỏi Lý-Đoan bằng tiếng Chàm:
- Thằng nhỏ kia, phải chăng mi học võ với sư phụ người Việt?
Lý-Đoan đáp bằng tiếng Việt:
- Chúng tôi là người Việt.
Mụ già giật mình kinh hãi:
- Bọn mi tên gì? Tại sao lại xua thú tấn công bọn ta? Bọn mi là chỗ thế nào với Khai-quốc vương, Khai-quốc vương phi?
Lý-Đoan thấy mụ già gọi Khai-quốc vương bằng chức tước, trong lòng nó nghĩ thầm:
- Dường như hai người này thân thiết với Quốc-phụ, như vậy thì tính mệnh bọn ta coi như chưa đến nỗi nào.
Tuy biết thế, nhưng để bảo mật, nó trả lời lờ mờ:
- Tôi họ Lý tên Đoan còn sư đệ của tôi họ Trần tên Ninh. Anh em chúng tôi rất thân với Khai-quốc vương, Khai-quốc vương phi.
Mụ già nhảy phắt lên:
- Thân là thế nào mới được chứ? Thế mi có phải là con của Lý Phật-Mã hay Lý Nhật-Tông không?
Phật-Mã là tên tục của vua Lý Thái-tông, Nhật-tông là tên tục của Thiên-huống bảo tượng hoàng đế, khắp một giải đất Việt đều phải kiêng húy, không ai được quyền nhắc tới; thế mà mụ già này gọi tên hai vua bằng giọng khinh miệt, khiến Lý-Đoan kinh hãi nghĩ thầm:
- Chắc mụ có thù oán gì với hai vua, mà lại chịu ơn của Quốc-phụ.
Vì vậy nó trả lời để dò dẫm:
- Vua Thái-tông băng hà đã lâu, tôi làm sao là con của người được? Còn đương kim thiên tử thì mới có hoàng nam đây. Tôi không phải là con của hai vua đó.
- Thế mi là con của vương tử nào trong triều Lý?
Lý-Đoan nói thực:
- Tôi vốn họ Lê. Khi mẹ tôi mang thai, thì bố tôi được lệnh xung quân đánh Tống, giúp Nhân-huệ hoàng đế Nùng-trí-Cao. Bố tôi tử trận ở Như-hồng. Đức vua ban ruộng tuất nuôi mẹ con tôi, ban cho tôi quốc tính Lý. Nhưng khi tôi lên năm, thì mẹ tôi lại qua đời, làng giao ruộng cho sư cụ, để sư cụ nuôi dạy tôi.
Nghe Lý-Đoan kể, hai quái nhân nhìn nhau, trên nét mặt hai người hiện ra vẻ thương tiếc nhìn về xa xưa, rồi lại cau mày quan sát Lý-Đoan từ đầu đến chân. Lão già vung tay lên như đe dọa, rồi hỏi:
- Mi nói cha mi tử trận ở Như-hồng có đúng thế không? Thế cha chi thuộc đạo binh nào? Do ai chỉ huy? Nếu mi nói láo, ta nhả chưởng lực thì đầu mi vỡ ngay tức khắc. Nói mau.
Lý-Đoan nghĩ thầm:
- Không biết lão già này là ai? Tại sao lão lại kính trọng Quốc-phụ, mà khinh khiến hai vua? Khi mình nói đến cha mình tử trận, lão lại tỏ ra thương yêu mình? Rồi lại đe dọa rằng nếu mình nói lão, lão sẽ giết chết. Bố mình chết vì nước là một danh dự, âu là mình cứ nói thực, rủi có chết cũng không sao.
Lý-Đoan thở dài:
- Bố tôi chết ba tháng, tôi mới ra đời, nhưng trên mộ chí của bố tôi ghi rằng: bố tôi tên Lê-Mậu, thuộc hiệu Thiên-tử binh Đằng-hải tả, đo tướng Lý Nhân-Nghĩa chỉ huy, tử trận năm 23 tuổi tại Như-hồng.
Bàn tay lão già hạ xuống, hai giọt nước mắt từ từ lăn trên má lão. Lão tiến đến nắm lấy tay Lý-Đoan:
- Trời ơi! Suýt nữa ta giết lầm giọt máu của người đã vì ta hy sinh mạng sống.
Lão vuốt tay một cái, huyệt đạo được giải, chân tay Lý-Đoan cử động được như thường, trong khi đó lão bà cũng giải huyệt cho Trần-Ninh.
Lý-Đoan kinh ngạc hỏi:
- Hai vị cao danh quý tính là gì xin cho bọn tiểu bối biết để tiện xưng hô.
Người đàn bà lắc đầu:
- Chúng ta là những người danh vang Hoa-Việt hồi mười mấy năm trước. Nhưng nay đã đi vào lãng quên, chẳng nên nói đến làm gì. Chúng ta đáng tuổi cha, tuổi mẹ các cháu. Các cháu cứ gọi chúng ta là bá bá được rồi. Ta chỉ có thể cho cháu biết: xưa kia bố cháu đã ở dưới quyền chúng ta, chẳng may tuẫn quốc, vì vậy chúng ta có bổn phận thương yêu cháu như con.
Bà già hỏi Lý-Đoan:
- Ban nãy cháu nói rằng cháu rất thân với Khai-quốc vương, với vương phi. Vậy nay hai vị đó... hai vị đó có được khoẻ mạnh không?
Đến đây dường như bà muốn khóc vậy. Lý-Đoan nói thực:
- Quốc-phụ, Quốc-mẫu vẫn bình an. Khi anh em cháu lên đường bình Chiêm, hai vị có tiễn đưa chúng cháu, dạy dỗ đủ điều.
- Bình Chiêm? Quân Đại-Việt lại đánh Chiêm nữa đấy à?
Bà già sửng sốt: Ai làm nguyên soái? Tại sao các cháu còn nhỏ mà đã xung quân? Các cháu thuộc đạo binh nào?
Trần-Ninh đáp thực:
- Thưa bá mẫu, anh em chúng cháu học được thuật chỉ huy thú của Bắc-biên, tình nguyện xung quân đánh giặc, chứ triều đình không hề bắt buộc. Nguyên soái bình Chiêm là Thái-bảo Lý-hường-Kiệt. Cháu thuộc đạo binh của Trung-thành vương.
Mặt người đàn bà đang căng thẳng lập tức đổi ra nhu mì, nét ửng hồng hiện trên đôi má bà. Bà nhìn lên trên nóc hang như tưởng nhớ điều gì xa xưa. Lão ông hỏi:
- Trung-thành vương là ai vậy?
- Vương có tên là Lý Hoằng-Chân, hoàng trưởng tử của Quốc-phụ.
Lão bà nói với lão ông:
- Ông muốn sao thì muốn, tôi phải xuất động ra giúp Trung-thành vương một chuyến cho trọn tình trọn nghĩa. Dù sao nó cũng là em mình.
Lý-Đoan vờ hỏi, để khai thác bí mật của cặp vợ chồng quái nhân:
- Hai vị lão bá là chỗ thế nào với Quốc-phụ, Quốc-mẫu?
Lão già cúi mặt xuống đáp rất ôn nhu, tay chỉ vào lão bà:
- Đây là vợ của ta. Ông nhạc ta là sư đệ của Khai-quốc vương. Hồi niên thiếu, vợ ta được Khai-quốc vương với vương phi thương mến như con gái. Người định hỏi vợ ta cho nghĩa tử của người là Lý Thường-Kiệt. Nhưng sau... nhưng sau sư huynh Thường-Kiệt bị kẻ gian ám hại, người lại gả vợ ta cho ta.
Nghe lão già kể, Lý-Đoan, Trần-Ninh bật lên tiếng kêu lớn:
--Như vậy lão bá là Nùng Trí-Cao, là Nhân-huệ hoàng đế nức danh Hoa-Việt thời trước sao?
Lão già gật đầu:
- Kiến thức các cháu rộng lắm nhỉ?
Lý-Đoan nhìn người đàn bà:
- Còn bá mẫu, dường như bá mẫu nhũ danh là Tạ Thuần-Khanh, trưởng nữ của Phụ-quốc thượng tướng quân, tước phong Kiểm hiệu thái phó, Cổ-loa quốc công sao?
- Sao cháu biết?
- Dạ, chúng cháu nghe Quốc-phụ, Quốc-mẫu kể chuyện hai vị hoài, nhất là công nghiệp hai vị được chép trong « Nhân-huệ hoàng đế kỷ sự ». Nếu đúng như vậy, thì năm nay hai lão bá tuổi khoảng năm mươi hơn là cùng, mà sao tóc đã bạc hết rồi, trong khi khuôn mặt lại như người mới ba mươi? Sách Nhân-huệ hoàng đế kỷ sự chép rằng: sau khi bị Địch-Thanh đánh bại, hai lão bá trốn sang Đại-lý rồi qua đời ở đó, nên... nên... vạn vạn lần cháu cũng không ngờ hai lão bá ở đây.
Trần-Ninh nói với Lý-Đoan:
- Hèn chi, hai lão bá biết sai chim ưng, sai sói, phục hổ. Thì ra hai lão bá đã từng chỉ huy thú rừng ở nước Đại-Nam hồi trước.
Ghi chú:
Sự việc Lý-thường-Kiệt đính hôn với Tạ Thuần-Khanh, giữa lúc sắp làm đám cưới, thì Thường-Kiệt bị gian nhân đánh thuốc mê rồi đem thiến. Cho đến nay cũng chưa tìm ra manh mối thủ phạm, dù gần ba chục năm qua. Sau đó Thuần-Khanh được gả cho Nùng-trí-Cao. Khai-Quốc vương suất lĩnh tám vùng tộc Việt đánh chiếm lại vùng Quảng-Đông, Quảng-Tây, cho Trí-Cao làm vua, xưng nước là Đại-Nam, hiệu Nhân-huệ hoàng đế v.v. Những sự kiện đó được thuật trong bộ Anh-linh thần võ tộc Việt của Yên-tử cư-sĩ, gồm 4 quyển, do Xuân-thu Hoa-kỳ xuất bản 1994.
Nùng-trí-Cao thở dài:
- Sau khi thất bại, ta bỏ vùng Bắc, trốn vào đây cùng mấy người thân tín. Bọn thủ hạ của ta, kẻ thì lập ra gánh hát ảo thuật, người lập ra đội mãi võ. Riêng chúng ta, chúng ta giả làm vợ chồng thợ săn để tránh con mắt dòm ngó của người Tống. Chúng ta chẳng lý gì đến sự đời. Thành ra tình hình Tống, tình hình Việt, tình hình Chiêm ra sao, ta tuyệt không biết. Cháu có thể kể cho ta nghe được không?
Lý-Đoan tóm tắt tất cả những cuộc tiến binh của vua bà Bình-Dương, phò mã Thân-thiệu-Thái hồi mười năm trước (1059) ra sao, rồi tiếp đến họ Dương chuyên quyền bị Ưng-sơn song hiệp, Mộc-tồn hòa thượng xử như thế nào, việc Ỷ-Lan nhập cung... cho đến ngày Nam chinh. Bên Tống thì việc Nhân-tông, Anh-tông băng, từ khi Hy-ninh hoàng đế lên ngôi, trọng dụng Vương-an-Thạch cải tổ pháp chế... Nhất nhất nó tóm lược cho vợ chồng Nùng-trí-Cao nghe.
Sau Lý-Đoan, Trần-Ninh lại thuật chi tiết cuộc bình Chiêm. Cuối cùng nó kết luận:
- Nghe ngôn từ của bá phụ, thì dường như bá phụ cực kỳ hiếu kính Quốc-phụ, Quốc-mẫu, mà không bằng lòng vua Thái-tông với đương kim thiên tử thì phải? Cháu e trung gian bên trong có gì bất thường. Bá phụ có thể cho cháu biết được không?
Trí-Cao nghiến răng kèn kẹt vào nhau:
- Cháu lầm rồi! Ta không có điều gì bất mãn với Nhật-Tông, vì ta với hắn biết nhau, có ơn với nhau trong vụ án Bắc-ngạn. Nhưng ta căm hận tên Phật-Mã. Tại sao? Vì anh hùng võ lâm tám vùng tộc Việt cùng mưu đòi lại cố thổ hời vua Hùng, vua An-Dương vương. Nhưng y thì chí quá nhỏ, nên y không muốn. Cuộc Bắc chinh chiếm lại lưỡng Quảng sở dĩ có là do Khai-Quốc vương với võ lâm. Phật-Mã bất đắc dĩ phải nhắm mắt để cho vương với chúng ta làm. Thảng hoặc thất bại, thì y đổ thừa cho vương. Còn thành công thì y hưởng.
Nói đến đây Trí-Cao nhổ nước bọt đến toẹt một cái:
- Cứ mỗi lần nói đến tên Phật-Mã là ta lợm giọng. Trong vụ Bắc chinh, y vừa đéo vừa run, vừa sướng vừa hét. Thực là trò đéo mèo. Y ngồi trên ngai vàng, luôn khệnh khạng, điệu bộ, kiêu căng, kiểu cách mà chả có tài con mẹ gì cả. Thu phục nhân tâm, giữ gìn mở rộng biên cương là Khai-Quốc vương. Bình Chiêm là sư thúc Tôn-Đản Cẩm-Thi. Bắc chinh là tiên nương Bảo-Hòa, vua bà Bình-Dương. Còn y ư? Y chỉ biết cái « lộ phồ » con gái họ Dương. Y chui đầu vào cái lỗ đó rồi thành u mê, để đến nỗi thằng bố nó bắt giam thái-tử, định dâng nước cho Tống, mà cũng ù ù cạc cạc.
Nói đến đây mặt Trí-Cao đỏ gay, y nghiến răng:
- Cho đến khi chiếm lại được lưỡng Quảng, ta lên ngôi vua. Nước của ta lớn ngang với Đại-lý, Xiêm-la, nhỏ hơn Đại-Việt một chút, thế mà y dám sai sứ lên bắt ta quy phục. Con bà nó, quy phục cái « củ thìu » ông đây này. Ta bèn sai sứ về xin quy phục Khai-Quốc vương, và không thèm đáp lễ y.
Trí-Cao đưa mắt nhìn lên nóc hang, như nhớ lại chuyện xưa:
- Khi khởi binh, y đồng ý rằng tám vùng tộc Việt liên kết trong thế môi hở răng lạnh. Nếu Tống đánh một nước, thì bẩy nước kia cùng khởi binh. Thế nhưng sau khi ta lên ngôi vua, Tống sai bọn Địch-Thanh sang đánh ta. Ta loan báo cho bẩy nước khởi binh. Y...y ... không những lờ đi, mà còn cản trở Xiêm-la, Lão-qua, Đại-lý đem quân giúp ta. Vì vậy ta thất bại, rồi vùng đất lưỡng Quảng lại thuộc về Tống. Cho đến nay y chết rồi, mà ta còn căm hờn y.
Tạ-thuần-Khanh an ủi chồng:
- Nay sự đã rồi, vua Thái-tông băng hà cũng lâu. Người làm vua là Nhật-tông chẳng từng có ơn với anh đó sao? Thường-Kiệt chẳng là sư huynh của anh đó sao? Nay hai người đó đem quân bình Chiêm, anh nên xuất động ra giúp cố nhân một phen.
Nghe đến Thường-Kiệt, Nhật-tông, mặt Nùng-trí-Cao hiện ra nét nhu mì, hiền hậu. Ông vỗ vai Lý-Đoan:
- Bọn cháu là hiện thân của sư thúc Tôn-Đản, Tự-Mai, Lê-Văn xưa. Ta yêu các cháu lắm. Được, ta vì phu nhân mà xuất động phen này. Ta sẽ trợ giúp các cháu.
Ông hỏi Trần-Ninh:
- Bọn cháu còn mấy đứa ở ngoài phải không? Để ta gọi chúng vào.
Ông tru lên mấy tiếng như tiếng sói, lập tức mười con sói đứng nhổm dậy gật đầu hành lễ rồi ra khỏi hang. Lát sau chúng dẫn Phạm-Dật, Hoàng-Nghi cùng bọn Kim-Liên, Kim-Loan, Ngọc-Liên, Ngọc-Hương vào. Sáu người ngơ ngơ ngác ngác như xẩm vào đám, không hiểu gì cả. Lý-Đoan phải tóm lược sự kiện đã xẩy ra trong hang, rồi giới thiệu hai bên.
Hoàng-Nghi là con mọt sách, hồi ở Thăng-long nó đã đọc đến thuộc làu bộ « Nhân-huệ hoàng đế kỷ sự », trong lòng nó cực kỳ kính trọng Nùng-trí-Cao, nay gặp ông, không giữ được cảm động, nó nắm lấy tay ông:
- Thưa bá phụ, cháu nghe trong các quan của triều đình Đại-Nam, có danh sĩ Phạm Đình-Huy, Phạm Văn-Nhân đều xuất thân bần hàn mà thành danh. Lại còn Đặng-vũ Nùng nổi tiếng Nam-phương túy ông, uống rượu không bao giờ biết say, nhưng gan lỳ cóc tía; Hồ Liên-Biện người nhỏ như Án-Anh của nước Tề, mà học thức thực bao la; Đinh Nho-Quan nguyên là cháu bốn đời vua Đinh thuộc giòng Nam-Việt vương Đinh-Liễn, làm chức Kiểm-hiệu tư-không của Đại-Nam. Không biết nay các vị ấy ra sao? Còn tại thế hay đã quy tiên?
- Những người ấy của ta thì chết thế chó nào được? Ta có chết thì họ mới có thể chết. Ta còn sống thi trăm mưu, nghìn kế ta phải cứu họ chứ! Tuy thua Địch-Thanh, sự nghiệp tan nát, nhưng ta đâu có bỏ nghĩa? Những người ấy bị Tống bắt giam. Ta chờ Địch-Thanh đưa họ về Biện-kinh hành tội, rồi nhờ sư phụ là tiên-nương Bảo-Hòa gửi sang hơn mười cao thủ phái Tản-viên, chúng ta đón đường giải thoát cho bọn bộ hạ, rồi cùng nhau vào tận cùng đất Chiêm là Pandurango ẩn thân. Những người ấy với vợ con hiện đều ở Pandurango cả.
Ghi chú,
Các bộ sử như: Tống-sử, Đại-Việt sử lý toàn thư, Việt-sử lược đều chép về cái chết của Nùng-trí-Cao rất lờ mờ. Sách thì nói Trí-Cao chết tại trận. Sách thì nói Trí-Cao chạy vào Đại-lý rồi chết ở đó.
Nhưng Quách-thị Nam-chinh và Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký, chép như sau: Tháng giêng niên hiệu Sùng-hưng đại-bảo (1053) đời vua Lý Thái-tông, bênTrung-hoa là niên hiệu Hoàng-hữu thứ năm đời vua Tống Nhân-tông, Địch-Thanh đem đại quân, cùng chư tướng thiện chiến đang chống nhau với Tây-hạ xuống đánh nước Đai-Nam 0. Tư-mã Đại-Nam hiến kế rằng: quân của Thanh đa số là quân kị. Mà quân kị thì chỉ lợi hại ở đồng bằng, mà vô dụng ở rừng núi, vậy nên đem quân chặn Thanh ở ải Côn-lôn, là vùng rừng núi, không cho quân Tống xuống đồng bằng tiếp cứu Tân-châu, Ung-châu. Nhưng Nhân-huệ hoàng-đế Nùng-Trí-Cao không dám tung hết quân ra ngay, vì nếu tung hết quân ra thì để hở phía sau, là điều cấm kị của việc hành quân; ông có ý chờ quân Lý tiếp cứu. Vì ông trì nghi chậm mất một ngày, nên Địch-Thanh đã đem quân vượt qua Côn-lôn. Bất đắc dĩ ông phải xuất quân, vì vậy trận đánh ở Qui-nhân phố diễn ra, bộ binh của Đại-Nam bị kị binh Tống phá tan.
Sau khi bại trận, Nhân-huệ đế Trí-Cao đem tàn quân về đóng ở Đặc-ma 0 chuẩn bị trởlại tái chiếm Ung-châu. Một mặt ông sai bộ hạ là Nùng Hạ-Thành thủ lãnh Đặc-ma mua thực nhiều ngựa, thao luyện kị-binh; một mặt sai Tư-đồ sang Đại-lý, Tư-không sang Xiêm-la, Lễ-bộ thượng thư Lương-Châu về Thăng-long...Xin các nơi cùng khởi binh tiếp cứu. Vua Lý Thái-Tông sai Tả-kim ngô lãnh vệ thượng tướng quân là Dương-Bình, giả xưng là Vũ-Nhĩ đem năm hiệu Thiên-tử binh lên Bắc-biên, ý định giúp Đại-Nam. Nhưng bấy giờ Khai-Quốc vương vắng nhà, tể tướng Dương Đức-Thành bàn rằng: Thế của Trí-Cao đã tàn, chẳng nên giúp y nữa, e gây thù với Tống. Vua Thái-tông nghe lời Thành, ra lệnh cho Dương Bình ngừng tiến quân. Đại-lý, Xiêm-la thấy Đại-Việt không tiếp cứu Đại-Nam, cũng không tiến binh.
Các bộ Tống-sử, Việt-sử lược chép rằng hai năm sau Dư-Tĩnh tiến quân vào Đặc-ma bắt được mẹ, em và con Trí-Cao. Còn Trí-Cao trốn vào Đại-lý rồi chết ở đó. Sự kiện này rất mơ hồ. Tôi cứ phân vân từ thời con thơ, mãi cho đến thời gian 1977-1992 mới tìm được ánh sáng sự thực. Thời gian đó, trong những lần hướng dẫn phái đoàn Pháp sang Trung-quốc nghiên cứu, trao đổi y-học, tôi lần mò vào các thư viện, viện bảo tàng văn hóa, viện văn học địa phương vùng Quảng-Tây, Vân-Nam, tìm được hai bộ Quách-thị Nam-chinh, Triệu-thịchinh tiễu Giao-chỉ ký. Tôi cũng đọc hầu hết các bia đá, mộ chí (chép in thành sách), các bộ phổ, các bản xã chí, động-chí, tộc chí, tôi tìm ra sự thực. Tám trong ba mươi ba cuốn gia phả; bốn trong hơn trăm bia đá; chín trong tám mươi tư mộ chí, mười một trong hơn trăm xã-chí, động-chí, châu-chí, tộc-chí.. đã chép sự kiện giống nhau: Nhân-huệ hoàng-đế Nùng Trí-Cao, cùng hoàng hậu, tư mã, tư đồ, tư không, thái úy, tể tướng »di giá» vào Chiêm-thành lập nghiệp. Khi Đại-Việt bình Chiêm, đã giúp vua Lý bắt Chế-Củ. Những người này, sau là thủy tổ của giòng giống: mắt đen, tóc bóng, da trắng tại Chiêm. Khác hẳn với giống Mã-lị-á mắt sâu, da ngăm đen, tóc hơi quăn, vốn là dân bản sứ. Như vậy người Việt ở vùng Nam Hải-vân tới Phan-rang hiện nay hầu hết là con cháu di thần nước Đại-Nam?
Chỉ độc giả Nam-quốc sơn-hà mới biết rõ sự kiện lịch sử này.
Trí-Cao vừa nói, vừa nhìn Hoàng-Nghi chăm chú, đôi khi lông mày nhíu lại tỏ vẻ suy nghĩ. Hoàng-Nghi thấy có sự lạ, nó hỏi:
- Thưa bá phụ, không biết bá phụ có điều gì khó xử không mà đăm chiêu, bối rối trong lòng?
- Thoạt mới nhìn cháu, ta thấy một tình cảm rất thân ái, rất quen thuộc, nhưng ta không hiểu tại sao? Bây giờ ta mới tìm ra rằng cháu rất giống một người thân của ta. Giống đến như hai giọt nước vậy.
- Thưa vị đó là ai?
Nùng-trí-Cao không trả lời Hoàng-Nghi mà hỏi vợ:
- Em có thấy nó giống y không?
- Giống! Giống nhau quá.
Bà hỏi Hoàng-Nghi: cháu có người bác, người chú nào tên là Đinh Tùng không?
Từ nhỏ Hoàng-Nghi có mối hận canh cánh bên lòng vì không rõ bố mẹ là ai. Nó chỉ biết về gốc gác qua lời thuật của sư cụ Viên-Chiếu rằng: một đêm nọ, có kỵ mã bị thương đầy người, lưng địu đứa trẻ đến chùa. Sư cụ băng bó, điều trị cho y. Sau hai ngày, y xin gửi đứa trẻ lại nhờ sư cụ nuôi dùm, rồi bỏ đi. Vì vậy bây giờ Thuần-Khanh hỏi nó về gia thế, nó xịu mặt xuống, rồi thuật cho bà nghe. Cuối cùng nó kết luận:
- Cái tên Hoàng-Nghi là do sư cụ đặt cho cháu.
Trí-Cao vỗ lưng Hoàng-Nghi:
- Anh hùng đâu quản xuất thân? Ta nói cho cháu biết, ta có một người thân cách nay ba chục năm, mà từ khuôn mặt cho đến cử chỉ, tiếng nói đều giống cháu như hai giọt nước vậy. Thôi bỏ chuyện đó đi. Bây giờ ta sẽ dùng người của ta giúp cháu đánh Pandurango.
Nghe Trí-Cao nói, Hoàng-Nghi mừng muốn chảy nước mắt ra được. Bởi Long-biên ngũ hùng muốn lập kỳ công là đánh úp Pandurango, nhưng nó chưa tìm ra kế. Nay nghe nói, những đại thần triều Nhân-huệ đều kiều ngụ ở đấy, thì hẳn đường đi, nước bước phải thông thạo lắm. Nếu họ giúp thì việc bắt Chế-Củ không khó. Nó có thể nhờ vả họ qua Trí-Cao.
Nùng-trí-Cao là một thứ anh hùng thảo khấu, từng thành công, từng thất bại, nên mỗi sự việc xẩy ra, ông chỉ liếc qua là biết liền. Nghe Hoàng-Nghi hỏi, nhìn nét mặt nó, ông biết ngay nó muốn gì. Ông vỗ vai nó:
- Có phải trong quân của Nhật-tông hiện có hai khuynh hướng; một khuynh hướng muốn rút quân về; một khuynh hướng muốn đánh đến cùng... các cháu thuộc khuynh hướng thứ nhì phải không?
Bọn Phạm-Dật cúi đầu:
- Quả như lời bá phụ dạy.
- Nhưng hiện quân trải ra quá rộng, nên không đủ quân số đánh tới Pandurango. Các cháu tình nguyện đánh vùng này, mà gặp trở ngại về địa thế, về tình hình địch, về quân số. Có đúng thế không?
- Dạ.
Trí-Cao chỉ vào Hoàng-Nghi:
- Mưu trí như cháu mà đành bó tay sao?
Hoàng-Nghi lắc đầu:
- Hôm rồi bọn cháu đang đuổi theo Chế-Củ thì bị Nguyễn Nhược-Điểu dùng quân số đông gấp mười, giữa đêm tấn công thiếu chút nữa chúng cháu bỏ mạng. Bọn cháu phải lợi dụng đêm tối trốn sang Lão-qua, đi đường Tây Trường-sơn, rồi đột nhập vào đây. Chúng cháu định hội với đạo quân của Dư-Phi, rồi đánh Pandurango. Nhưng Dư tướng quân chỉ có hai đạo Lam-kỳ, Xích-kỳ quá ít, mà binh sĩ toàn là binh sĩ Chiêm đầu hàng, vì vậy chúng cháu nghĩ chưa ra kế.
Thuần-Khanh mỉm cười, bà nắm lấy tay Kim-Loan:
- Ta nghĩ, trường hợp này phải mạo hiểm, đánh táo bạo mới thành công. Vậy ta đề nghị: các cháu phải giả làm người Chàm, rồi thình lình kiềm chế Chế-Củ với cung quyến của y, bắt y ra lệnh cho binh tướng đầu hàng. Như thế thì mới thành công. Được, trước tiên ta dò thám quân tình Chế-Củ đã.
Bà moi trong hốc đá ra nào bút, nào mực, rồi viết một lúc mười lá thư. Bà trao cho Lý-Đoan:
- Cháu trao sai chim ưng mang đi những nơi này...nơi này... ở đó toàn là người của ta. Họ cũng biết chỉ huy chim ưng. Nhận được thư họ sẽ phúc đáp tình hình Chiêm. Bấy giờ chúng ta mới có thể thiết kế.
Lý-Đoan mang thư ra ngoài, sai Ưng-binh chuyển đi.
Trời dần sáng.
Đến trưa thì cả mười chim ưng đều mang thư về. Lý-Đoan mở ra trình cho Trí-Cao. Trí-Cao đọc một lượt rồi cười:
- À, ta có đủ tin tức rồi đây, chuyến này chúng ta mạo hiểm một lần cho bọn Tống nể mặt.
Trí-Cao đưa ra hai phong thư:
- Thư của Phạm Đình-Huy cho biết Tống đã can thiệp vào chiến cuộc Chiêm-Việt. Dường như chúng đoán được ý định của Đại-Việt, chúng thành lập một đội cảm tử binh gửi vào giúp Chiêm. Hy-Ninh đế ban chỉ ân xá cho bọn du thủ, du thực, bọn trộm cướp giết người không gớm tay. Bọn này võ công cực cao, lại can đảm, đặt dưới quyền hai danh tướng Yên-Đạt, Tu-Kỷ. Mục đích của Tống là bảo vệ Chế-Củ lẩn trốn vào dân chúng, hầu hô hào kháng chiến, cần vương; kéo dài cuộc chiến. Chúng dùng thuyền đổ vào bờ biển cực Nam Chiêm. Bọn này hiện đang ở Pandurango. Trong khi Chế-Củ để hết binh tướng lại Nỏng-khà; y với triều đình, cung quyến vượt Trưởng-sơn, đang ở đèo Rundari rất gần đây. Phía Nam Rundari là thành Phong-sa-trang. Không chừng y sẽ tới nghỉ ở thành này, rồi đi Pandurango. Thành Phong-sa-trang chỉ có hơn nghìn quân đồn trú, trong khi tại Pandurango có trọng binh trấn thủ. Vậy ta phải bắt y ở Phong-sa-trang. Chứ nếu để y đi Pandurango thì khó mà đánh được.
Hoàng-Nghi nhảy phắt lên:
- Thực là trời giúp chúng ta!
Trí-Cao bật cười:
- Cháu định sao?
- Cháu nghĩ, Chế-Củ muôn nghìn lần không ngờ bọn cháu dám đột nhập vào vùng Rundari, nên y để quân lại trấn thủ mặt Bắc là Nỏng-khà. Còn mặt Nam y có đại quân ở Pandurango. Bây giờ quanh y chỉ có đội thị-vệ với cung quyến. Ta mạo hiểm đánh chớp nhoáng bắt sống y, rồi dí dao vào cổ bắt y ra lệnh đầu hàng, thế là mọi chuyện êm.
Lý thì như thế, nhưng chúng ta cũng phải nghĩ đến trường hợp có biến, vì: tướng trấn thủ Pandurango là Thâm Phúc-Dũng, Phan Vũ-Tỉnh tham vọng không vừa. Tuy chúng là người Việt, nhưng lại mang tên Chiêm. Từ lâu chúng cũng ngấp nghé ngôi vua Chiêm. Nếu bây giờ nghe tin Chế-Củ bị bắt, chúng có thể hô hào binh tướng hy sinh tính mệnh, đánh ta để cứu chúa; dù ta có kề gươm vào cổ Chế, Chế ra lệnh cho chúng buông vũ khí, chúng cũng không buông. Nếu ta giết Chế, thì là điều chúng mong mỏi, để chúng có chính nghĩa lên làm vua thay Chế.
Trí-Cao suy nghĩ một lúc, rồi nói với vợ:
- Bây giờ thế này: phía Nam Rundari là thị trấn Phong-sa-trang, ở đó có gánh ảo thuật của Đặng-vũ Nùng, đội mãi võ của Phạm Văn-Nhân. Ta viết thư cho họ, để họ đem xe đến khu rừng cạnh đèo Rundari chờ ta. Thuần-Khanh dẫn Phạm-Dật Kim-Liên, Lý-Đoan Ngọc-Liên, Trần-Ninh Ngọc-Hương đem theo mấy chục hổ, mấy chục giả làm nhân viên đoàn ảo thuật. Còn ta với Hoàng-Nghi mang đội võ sĩ Long-biên với đội thú đợi Dư-Phi còn phục ở ngoài thành Phong-sa-trang. Chờ khi Chế-Củ tới Phong-sa-trang, trong đêm, Khanh muội với đám trẻ tung thú, người đánh quân canh, mở cửa cho chúng ta vào. Như thế ắt ta bắt được Chế-Củ. Thôi chúng ta xuất động.