watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
17:23:0729/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 11-30 - Trang 37
Chỉ mục bài viết
Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 11-30
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Trang 37
Trang 38
Trang 39
Trang 40
Trang 41
Trang 42
Trang 43
Trang 44
Tất cả các trang
Trang 37 trong tổng số 44

 


Chương 27c

Trí-Cao hô lên một tiếng, đôi cọp, đội sói đứng dổ dậy, chúng rời khỏi hang. Trong khi Thuần-Khanh lấy ra ba cái túi nhỏ, một cái mầu đỏ, một cái mầu vàng, một cái mầu xanh. Bà mở miệng túi ra ném xuống đất, rồi cầm một ống tre thổi lên điệu nhạc du dương. Mấy con trăn chui vào trong cái túi đỏ, trong khi những con rắn lớn chui vào trong cái túi mầu vàng, còn mấy con rắn nhỏ thì chui vào cái túi mầu xanh. Trí-Cao cầm đòn gánh xỏ vào quai ba cái túi, rồi trao cho Trần-Ninh:
- Ta cho cháu đấy.
Trần-Ninh tuy ớn da gà, nhưng nó phải làm gan, tay đỡ đòn gánh, quảy ba túi rắn đi theo Trí-Cao.
Vừa tới chỗ đóng quân, thì có chim ưng mang thư tới. Phạm-Dật mở ra coi, thì là lệnh của Trung-thành vương:
« ... Đại quân phá vỡ phòng tuyền trên bến Thi-nại, đã đổ bộ xong. Trận chiến diễn ra kinh hồn táng đởm. Giữa lúc đại quân Việt, Chiêm dằng co xung sát, thì có tin báo Trần-đông-Thiên với Tây-hồ thất kiệt đánh được hai đồn bên Tây-ngạn sông Tu-mao. Mặt trận Chiêm bị vỡ. Các đồn Chiêm từ Thi-nại tới Tu-mao, đều ra hàng. Trong trận này quân sư Tôn-Đản, quan tổng lĩnh thị vệ Đỗ-Oanh, đô-đốc Hoàng-Kiện, Trần-Lâm đều bị trúng tên thương tích khá nặng. Lê-Lưu tức Bố-bì Đà-na bị sư thúc Ngô-cẩm-Thi giết chết. Về trận chiến ở Bồng-sa, sau khi các sư đệ rút đi, Nguyễn-nhược-Điểu đem quân đuổi theo định tiêu diệt, ta lệnh cho hai hiệu Quảng-vũ, Bổng-nhật chặn đường. Trận chiến diễn ra thực khủng khiếp. Đô-thống Lưu-trọng-Kiệt, Trần-lam-Thanh đều tử thương. Hãy cố gắng hoàn thành sứ mạng... »
Một lát lại có chim ưng mang thư của nguyên soái Thường-Kiệt tới:
« ... Hoàng-thượng cùng đại quân tiến về Đồ-bàn. Đích thân ta với Thường-Hiến, Nguyễn-An mang hạm đội Động-đình đổ bộ Pandurango. Sư thúc Tôn-Đản, Cẩm-Thi đem quân đánh Nỏng-khà. Bất cứ giá nào cũng phải bắt cho được Chế-Củ. Chờ tin lành của Long-biên ngũ hùng... »
Bấy giờ là tháng tư, niên hiệu Thiên-huống Bảo-tượng thứ ba đời vua Thánh-tông nhà Lý của nước Đại-Việt (1069). Từ hơn nửa tháng nay rồi, dân chúng thành Phong-sa-trang 0, dân chúng Chàm náo loạn về tin đại quân Việt đã chiếm xong Thi-nại, Tu-mao, Đồ-bàn, nhà vua Chế-Củ cùng cung quyến bỏ Đồ-bàn rút lui, nhưng không biết hiện nay ra sao? Đang ở đâu? Viên quan trấn thủ tên Chế-đa-Mạc là người trong hoàng tộc vội sai quân đem loa đi trấn an dân chúng rằng: đức vua hiện đang ở một nơi an toàn để lãnh đạo cuộc cần vương chống bọn Việt xâm lăng.
Giữa cái không khí ồn ào, hốt hoảng đó, không hiểu sao chẳng hẹn mà đoàn mãi võ xứ Quảng-Đông của Phạm-thúc-Tề, đoàn ảo thuật xứ Triều-châu của Đặng-túy-Ông lại từ Pandurango tới để trình diễn. Trong những lần trước, khi đoàn ảo thuật tới, thì đoàn mãi võ ra đi, như vậy để khỏi bị cái cảnh tranh khách của nhau, rồi đưa đến hàng thịt ngúyt hàng cá. Nhưng lần này hai đoàn hợp làm một cùng trình diễn, mà giá tiền vào cửa vẫn như cũ.
Hai người trưởng đoàn đều là Hoa-kiều, sang Chiêm lập nghiệp đã lâu, nói tiếng Chàm như người chàm. Cả hai đều là những người văn hay, chữ tốt, kiến thức bao la, lại nổi tiếng hào hoa, chi tiêu rộng rãi, giao du với hầu hết quan chức. Cho nên lần này đến Phong-sa-trang, hai người được dành cho khu hội quân ngay cửa Bắc làm nơi trình diễn. Xung quanh khu vực được rào bằng mấy cái cọc chăng dây. Ai có tiền thì được vào trong, ai không có tiền thì đứng ở ngoài mà nhìn xa xa vậy. Hôm nay hai đoàn trình diễn nhiều màn thực hấp dẫn: nào khỉ đánh võ, cọp đi trên thang dây. Dân chúng tạm quên đi cái kinh hoàng, kéo đến xem. Người người chen nhau, đến nỗi bít cả lối vào cổng Bắc thành. Đoàn ảo thuật đang diễn tới màn hấp dẫn nhất là dùng đội chó sói, đội cọp, đội voi múa theo điệu của xứ Lão-qua, thì một toán kị mã hơn mười người, bụi bám đầy y phục từ ngoài thành phi vào như bay. Tới dinh tổng trấn, toán kỵ mã ngừng lại, xuống ngựa, vào trong. Không biết những gì đã diễn ra, nhưng lát sau một viên quan trong tòa tổng trấn đến gặp trưởng đoàn mãi võ, ban lệnh:
- Đoàn phải di chuyển sang phía Nam thành trình diễn, bởi sắp có đại quan tới, mà dân chúng đứng xem nghẽn mất lối đi.
Sau khi nhận lệnh, Phạm-thúc-Tề vội lên đài cung tay hướng khán giả xin lỗi phải tạm ngừng trình diễn để di chuyển tới cửa Nam thành, và hẹn tối sẽ có những màn xuất sắc khác.
Thế rồi đoàn mãi võ, ảo thuật phải gỡ sân khấu, thu dọn, đánh xe tới cửa Nam. Dân chúng tản đi khắp nơi.
Lát sau, một đội thiết kị hơn trăm người từ phía Bắc rầm rập nhập thành. Vừa vào trong thành, đội thiết kị dàn ra xung quanh dinh tổng trấn. Tiếp theo tới đội thị-vệ tiền hô, hậu ủng hơn trăm cỗ xe. Trên xe nào đàn bà, nào trẻ con, quần áo quý phái, ngọc ngà vàng bạc đeo đầy người. Dân chúng đứng ven đường thì thầm bàn tán, chỉ chỏ, nhưng họ không biết xe đó chở những vị phu nhân nào? Những công tử, tiểu thư nào? Có người tinh ý nhận ra, nói nho nhỏ:
- Xiêm y của mấy bà thế kia, thì đích thị là hoàng hậu, phi tần rồi. Vậy chắc đây là xa giá đức vua cùng cung quyến rút từ Đồ-bàn trở về chứ không sai đâu!
Tin này lan truyền thực mau, chỉ hơn giờ dân chúng khắp Phong-sa-trang đều biết đức vua cùng cung quyến đang ở trong thành. Tại cửa Nam, trưởng đoàn mãi võ đang cùng nhân viên dựng sân khấu, thì một thị-vệ tới hỏi:
- Có phải ông là Phạm Thúc-Tề không?
- Thưa vâng.
- Quan tổng trấn mời ông vào dinh có việc khẩn.
- Xin tuân lệnh.
Phạm Thúc-Tề trang phục như nho sĩ Trung-quốc rồi vào dinh tổng trấn. Viên tổng trấn Chế-đa-Mạc ra đón khách. Lễ tất, Đa-Mạc nói nhỏ:
- Ông có nghe biết quan đại-tư-đồ Lục-Đình không?
- Dạ thưa biết chứ, dường như người cũng là Hoa-kiều như tôi. Từ sau khi tể tướng Lục-chương-Anh hiện nguyên hình là ma đầu Vũ-chương-Hào rồi phản triều đình... thì quan đại tư-đồ kiêm luôn chức tể-tướng thì phải?
- Đúng thế, đức vua cùng với tể tướng Lục-Đình hiện ở trong thành này. Tể tướng có việc muốn thương lượng với tiên sinh. Mời tiên sinh vào.
Đa-Mạc dẫn Thúc-Tề sang phòng bên cạnh, một người tóc bạc như cước trong y phục đại thần ra đón khách. Biết đây là tể tướng, Thúc-Tề cung tay:
- Hoa dân Phạm Thúc-Tề xin tham kiến đại quan.
Lục-Đình xua tay, y nói bằng tiếng Quảng:
- Lão phu vốn người Quảng như tiên sinh, sang kiều ngụ ở Chiêm. May được hoàng thượng tin dùng cất nhắc mà có chút công danh. Từ lâu, lão phu nghe tiên sinh vốn người cùng quê, cũng có ý làm quen, nhưng đường từ Đồ-bàn vào Pandurango hiểm trở, xa diệu vợi nên chưa có dịp. Hôm nay được tin tiên sinh lưu diễn tại đây, nên mạo muội mời tiên sinh vào uống chung trà, trước đàm đạo quốc sự, sau thỏa tình đồng hương.
Thế rồi hai người nói chuyện về xứ Quảng-Đông... từ những danh nhân từng vùng, tới thổ sản, phong tục, cuối cùng là thơ văn. Lục-Đình vốn là tiến sĩ xuất thân, nức tiếng văn chương, bác học một thời. Thế mà khi ông ta đàm đạo với Phạm Thúc-Tề, ông nhận thấy Thúc-Tề quả là nhân vật xuất chúng. Nhưng khi bàn về chính sự, thì Lục mới bật ngửa ra rằng Phạm không biết gì về thời cuộc Tống, Việt, Chiêm.
Lục nghĩ thầm:
- Người này kiến thức bao la, lưu diễn khắp Chân-lạp, Lão-qua, Chiêm, thì hẳn phải biet rõ tình hình các nơi chứ, có đâu mù tịt. Không chừng y giả bộ cũng nên.
Cuối cùng Lục-Đình khẩn khoản nói với Thúc-Tề:
- Tôi mời tiên-sinh vào đây để chúng ta cùng đàm đạo về quê hương. Sau một lúc luận bàn, tôi nhận thấy tiên sinh quả là người có tấc lòng với xã tắc, vì vậy tôi xin đem tim gan ra để nói với tiên sinh.
Lục bưng chung trà mời Phạm. Phạm cạn hết chung trà rồi, Lục tiếp:
- Tôi xuất thân tiến-sĩ, được làm việc tại Khu-mật viện dưới thời vua Nhân-tông. Rồi nhờ công lao tôi được bổ về đồng trấn Quảng-châu. Vì tôi chủ trương đánh chiếm Đại-Việt, nên bị Ưng-sơn song hiệp kết án tử hình. May thay, giữa lúc đó Nùng-trí-Cao làm loạn chiếm Lưỡng-Quảng, tôi cùng gia đình lấy thuyền sang kiều ngụ ở Chiêm, mở trường dạy học. Sau Nùng-trí-Cao bị phá, triều đình cho tìm tôi về phục chức. Nhưng Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai vẫn còn có, tôi không dám trở về cố quốc nữa. Vua Nhân-tông thương tình phong cho tôi làm kiểm-hiệu thái-phó, trấn Nam thượng tướng quân, Việt quốc công, truyền cho tôi giúp triều đình Chiêm, biến Chiêm thành phên dậu của Tống, đánh sau lưng Đại-Việt.
Giọng lão trở lên nhỏ như tơ:
- Đấy là bề ngoài, chứ bề trong thì tôi được mật chỉ của Khu-mật viện rằng: sau khi quân tan, nước mất, thì Nùng-trí-Cao với bọn dư đảng chạy trốn vào đất Chiêm ẩn thân. Bổn phận tôi là phải tìm ra tung tích chúng, rồi dùng binh lực Chiêm trừ đi. Còn như dùng binh Chiêm không được, thì mật tấu về triều đình, để cử cao thủ sang giết chúng.
Lục ngừng lại, nhìn thẳng vào mặt Phạm:
- Triều đình ban chỉ cắt Nghệ-an phong cho Chiêm vương, rồi truyền Chiêm đem quân đánh Nghệ-an. Chiêm vương cùng tôi thượng biểu về triều rằng Chiêm không đủ sức đương đầu với Đại-Việt. Triều đình ban dụ hứa: nếu Đại-Việt đem quân đánh Chiêm, thì quân Lưỡng-Quảng sẽ đánh vào Đại-Việt ngay. Chính vì thế, mà Chiêm mới chuẩn bị đánh Nghệ-an. Không ngờ chúng tôi chưa kịp khởi binh, thì Đại-Việt biết được, mang quân đánh trước; mà quân Thiên-triều thì chưa rục rịch gì!
- Như vậy là triều đình thất hứa rồi!
Phạm Thúc-Tề chua chát: Tính ra đến nay Đại-Việt tiến binh sang đã hơn bốn tháng, mà quân triều vẫn chưa thấy động tĩnh, không biết tiểu nhân luận có đúng không?
- Không phải thế!
Lục-Đình giải thích: Khi quân Đại-Việt mới vượt biên, tôi đã tâu với Chiêm vương rằng ít ra mình phải cầm cự được sáu tháng, thì quân Thiên-triều mới có thể can thiệp. Vì đường từ đây về Biện-kinh, xa diệu vợi, mình sai sứ thượng biểu đi đường mất hai tháng. Triều đình ban chỉ cho kinh-lược sứ Lưỡng-Quảng cũng mất một tháng. Lưỡng-Quảng chỉnh bị binh mã mất ba tháng nữa. Nhưng... nhưng quân Đại-Việt đánh thần tốc quá, tính cho đến nay, mới ba tháng mà kinh đô Đồ-bàn đã thất thủ.
- Như vậy quân Thiên-triều có sang cũng vô ích thôi!
Thúc-Tề than dài, rồi bàn: tiểu nhân thấy từ trước đến nay mỗi lần quân Đại-Việt đánh Chiêm thì chỉ chiếm Đồ-bàn rồi bỏ về. Lần này chắc cũng thế.
- Tiên sinh luận sai rồi.
Lục-Đình lắc đầu, phân tích: Lần này quân Việt không chỉ chiếm Đồ-bàn, mà còn chiếm hết các quận huyện, tổ chức cai trị. Họ định đuổi bắt bằng được Chiêm vương. Cho nên tôi bàn với Chiêm vương rằng mình phải ban hịch cần vương, kêu gọi nhà nhà, người người nổi lên chống Việt. Mặt khác Chiêm vương ẩn thân, tổ chức kháng chiến, để chờ quân Thiên-triều nhập Việt, ắt quân Việt phải rút về giữ nước. Bấy giờ ta truy kích theo, chiếm lại phần đất mất. Cứu binh như cứu hỏa, trong lúc đại quân chưa ra, Hy-Ninh hoàng đế sai hai đại tướng là Yên-Đạt, Tu-Kỷ đem ba trăm võ sĩ thuộc loại giang hồ, cao thủ đi đường biển tới Pandurango, nội trong ba ngày nữa sẽ tới đây, mục đích bảo giá Chiêm vương ẩn vào dân chúng kháng chiến. Với ba trăm cao thủ này cùng đội thị vệ Chiêm theo hộ tống, thì quân Việt không thể nào hại được vương. Chỉ còn vấn đề sao cho cung quyến được an toàn.
Độ chừng Phạm Thúc-Tề không hiểu được ý mình, Lục-Đình tiếp:
- Người Việt ở Chiêm chiếm đến ba phần mười dân số. Hồng-thiết giáo quy tụ chúng theo Chiêm, nhưng nay quân Việt sang, họ lại phản Chiêm hướng về cố lý hết rồi. Người Hoa của ta cũng khá đông. Tôi có cho tổ chức họ thành đội ngũ. Người Việt hướng về đất tổ thì người Hoa cũng hướng về Trung-nguyên. Nay tôi trao tổ chức người Hoa cho tiên sinh để đối phó với quân Việt.
- Tể tướng trao cho tiểu nhân?
Thúc-Tề kinh ngạc: Tiểu nhân thì biết gì về quân sự?
- Không khó. Tiên sinh có hơn trăm đệ tử võ công cao cường, lại thêm Đặng-túy-Ông cũng có hơn trăm đệ tử nữa. Đoàn ảo thuật có nhiều thú dữ. Hai tiên sinh sẽ chỉ huy đội ngũ người Hoa, đệ tử đoàn mãi võ ảo thuật cùng thú dữ trấn thủ thành Phong-sa-trang, bảo vệ cung quyến. Còn tôi thì đem đội thị vệ, đoàn cao thủ Thiên-triều với Chiêm vương ẩn vào núi lưu động kháng chiến.
Phạm-thúc-Tề đứng dậy cung tay:
- Kẻ giang hồ này xin tuân lệnh Tể-tướng. Nhưng xin Tể-tướng ban cho một ơn huệ.
- Tiên sinh cần gì?
- Nguyên đám Hoa-kiều gốc Quảng của tiểu nhân có năm người kết bạn với nhau rất thân. Nếu như nay tiểu nhân lĩnh nhiệm vụ giữ thành Phong-sa-trang, thì xin cho tất cả năm người đều xuất mã hầu tể tướng.
- Được chứ! À, tôi thực hủ lậu, trong năm vị thì tiên sinh là một, Đặng Túy-Ông là hai. Vậy còn ba vị nữa là những vị nào?
- Năm đứa trong bọn tiểu nhân tự xưng là « Quảng-Đông ngũ cái ».
Lục-Đình lắc đầu:
- Các vị tiên sinh thực là người đạt nhân, khiêm khiêm quân tử. Rõ ràng các vị là những người học thức uyên thâm, kiến văn rộng rãi. Nếu các vị đi thi thì không đỗ trạng-nguyên cũng đỗ bảnh nhãn, thám hoa. Nhưng lại khiêm tốn xưng là năm người ăn mày vong quốc. Hà, vàng trong cát ai hay. Các vị hãy đổi tên là Quảng-Đông ngũ kiệt thì hơn. Thế năm vị là những vị nào?
- Thưa ngài, trong năm anh em tiểu nhân, thì người lớn tuổi nhất tên Phạm Bá-Di, tiểu nhân đứng thừ nhì. Thứ ba là Đặng Túy-Ông, thứ tư là Hồ Đơn-Á, thứ năm là Đinh Môn. Tất cả đều đang ở Phong-sa-trang.
- Vậy thì được rồi, tiên-sinh hãy ra bàn giao chức vụ tổng trấn Phong-sa-trang với Chế-đa-Mạc rồi điều động binh tướng, huynh đệ, gia thuộc. Còn Chế-đa-Mạc phải theo bảo giá Chiêm vương.
Đến đó quân hầu mang vào một cái hộp sơn son thiếp vàng, cung kính trao cho Lục-Đình:
- Trình đại nhân, có người đem cái hộp này tới, nói rằng của cố nhân gửi từ Trung-nguyên sang dâng tể-tướng.
Lục-Đình cau mày:
- Người đó đâu rồi?
- Y trao hộp xong, lại lên ngựa đi mất. Tuổi y vào khoảng ba chục.
Mặt Lục-Đình tái xanh như tầu lá, tay y cầm hộp mà run run, cơ hồ đứng muốn không vững. Thúc-Tề vội đỡ Lục Đình ngồi xuống rồi hỏi:
- Không biết đại nhân có gì bất như ý?
Lục Đình chỉ cái hộp: trên nắp hộp vẽ hình con chim ưng xòe cánh bay trên ngọn núi. Ông ta nói thều thào không ra hơi:
- Ưng-sơn song hiệp! Rốt cuộc tôi trốn không khỏi lưỡi gươm của Kinh-Nam vương Trần-tự-Mai với công chúa Huệ-Nhu.
Ông mở cái hộp ra, thì bên trong có một cái đùi chó luộc chín, mấy lát riềng thái mỏng, vài chục lá mơ tươi, một dúm muối, một con dao bằng vàng mà chuôi chạm trổ con chim ưng bay qua núi, nét chạm rất tinh vi. Chân tay Lục-Đình run lập cập:
- Rút cuộc Ưng-sơn song hiệp với Mộc-tồn Vọng-thê hòa thượng cùng truy lùng tung tích lão phu.
Thúc-Tề an ủi:
- Tuy Ưng-sơn với Mộc-tồn đã tìm ra đại nhân thực. Nhưng này đại nhân, đại nhân đừng theo Chiêm vương bôn ba kháng chiến nữa, mà cứ ẩn ở trong thành này với anh em chúng tôi. Thành này được canh phòng rất cẩn thận, thì hai người đó dễ gì hại nổi đại nhân!
Lục Đình lắc đầu:
- Ưng-sơn với Mộc-tồn là hai người khác nhau, xưa nay hai người chưa từng hành động chung bao giờ, mà nay cùng hợp sức thì lão phu... lão phu khó có thể thoát nổi. Tiên sinh không biết đấy thôi. Khi hai người này tuyên án, thì họ đã nghiên cứu đường đi nước bước, ăn chắc có thể hành động được, họ mới lên án tội nhân. Nhưng thôi, lão phu đành gửi cái mạng nhỏ bé này cho tiên sinh, làm thằng khờ ẩn trốn trong thành này vậy. Thôi tiên sinh ra bàn giao chức vụ ngay đi.
Phạm Thúc-Tề cáo từ Lục Đình ra ngoài, thì gặp Chế-ma-Đa. Cuộc bàn giao thực mau chóng. Bởi lực lượng phòng vệ Chàm tại Phong-sa-trang chỉ có khoảng hơn nghìn bộ binh, dưới quyền viên lữ-trương tên Yan-Dung.
Thúc-Tề tổ chức ngay lập tức buổi họp tại dinh tổng-trấn phân chia nhiệm vụ xong, thì vào yết kiến Chiêm vương Chế-Củ với triều đình để tường trình công cuộc phòng thủ: Phạm Bá-Di trấn cửa Tây, Đặng Túy-Ông trấn cửa Bắc, Đinh Môn trấn cửa Đông, Hồ Đơn-Á trấn cửa Nam, Phạm Thúc-Tề điều động trung ương. Các đệ tử, bang hội người Hoa được phân chia cho bốn cửa, mỗi cửa ba trăm người, với hổ, báo, voi v.v. Riêng đội quân của Yan-Dung đóng tại trung-ương, tùy nghi điều động tiếp cứu các mặt. Những nữ đệ tử của Quảng-Đông ngũ cái thì được xung vào bảo vệ nội cung. Còn dân chúng thì đàn ông con trai tuổi từ mười lăm đến năm mươi phải ở lại giữ thành. Đàn bà, con gái, người gìa thì tạm cho tản về trang ấp. Vì lương thực chỉ có thể đủ nuôi quân, nuôi dân quân, cung quyến trong hai tháng. Thúc-Tề đã cho chuyển kho lương ở miền Nam Runsari về tích trữ trong thành, một là để nuôi quân, hai là để giặc không thể cướp mất.
Lục Đình kinh ngạc vô cùng khi thấy Thúc-Tề điều động, tổ chức phòng thủ mau chóng, đúng binh pháp Tống, như một đại tướng quân kinh nghiệm.
Chế-Củ ban chỉ dụ:
- Chiều mai thì đội cao thủ Tống sẽ đến. Vậy Phạm tiên sinh dẫn người chỉ huy cao nhất vào yết kiến trẫm, trẫm cùng y kiểm điểm lại, bàn kế sách. Sau đó trẫm cùng thị vệ, cao thủ Tống rút vào khu rừng phía Tây. Còn tể tướng thì trấn ở đèo Runsari. Như vậy có trời mà biết, chứ đừng nói là bọn Việt.
Thấy Thúc-Tề tỏ vẻ trầm ngâm, Chế-Củ hỏi:
- Phạm tiên sinh có gì nghi hoặc chăng?
- Thần hơi lấy làm lo lắng về đoàn cao thủ Tống. Theo tể tướng cho biết, chỉ có hai vị là quan chức triều đình, còn lại là phường vong mạng, đầu trộm đuôi cướp bị tù, mới được ân xá. Nay đưa họ vào thành, vạn nhất mà họ quen thói cũ, thì làm sao mà kiềm chế được?
- Ý khanh ra sao?
- Đêm nay bệ hạ ban hịch cần vương phải không? Khi bệ hạ ban hịch đến các thôn trang, mà ở đó không có người tổng chỉ huy, thì dân chúng mạnh ai nấy làm, người nọ dẫm chân lên người kia, có khi đánh lẫn nhau thì nguy vô cùng. Theo ý thần, thì bệ hạ phân các đại thần mỗi người tổng chỉ huy một vùng, lãnh đạo cuộc kháng chiến phục quốc. Nhưng liệu dân chúng có nghe theo chư vị đó không?
Chế-Củ gật đầu:
- Tiên sinh luận đúng.
- Vậy bệ hạ hãy phân chia cho mỗi vị: người thì năm, người thì mười thị-vệ, để các vị ấy có một sức mạnh tối thiểu khiến quần chúng khuất phục. Đợi đám cao thủ Tống tới, bệ hạ lại phân chia họ thành ba mươi toán, mỗi toán mười người đi theo chư đại thần. Như vậy ta có thể lợi dụng cái sức của họ, nhưng không sợ cái bất lợi trong họ, vì ta có thị vệ bên cạnh kiềm chế.
- Kiến thức tiên sinh thực vĩ đại.
- Bằng nay bệ hạ đem cả ba trăm cao thủ, mấy trăm thị vệ mà muốn âm thầm di chuyển thôn này, qua trang kia, thì có khác gì vác loa gọi cho quân Việt: trẫm ở đây, đến mà bắt đi?
Chế-Củ dơ tay lên trời:
- Trời Phật đem tiên sinh cho ta. Cái mà tiên sinh nhìn thấy, quả ta không thấy. Vậy ngay bây giờ Lục tể tướng hãy nghiên cứu xem ta nên gửi các đại thần tới thôn nào, ấp nào, rồi chia toán thị-vệ. Đêm nay chúng ta cùng các đại thần âm thầm ra đi. Khi đám võ lâm cao thủ Tống tới, thì chỉ việc phân chia họ thành từng toán nhỏ, rồi gửi thẳng tới thôn ấp. Như vậy khỏi lo lắng về hành vi bất lợi của họ.
Thế rồi hịch cần vương ban ra, rồi lệnh của Phạm Thúc-Tề truyền cho dân chúng rời thành, để tránh gươm đao. Dân dân chúng lũ lượt kéo nhau rời Phong-sa-trang về các trang ấp xung quanh. Còn lại thì binh sĩ, đệ tử Quảng-Đông ngũ cái, trai tráng được phân chia trấn thủ bốn cửa thành. Chế-Củ, Lục-Đình duyệt một vòng thành, cả hai đều kinh ngạc, vì đám đệ tử của Quảng-Đông ngũ cái ngoài kiến thức rộng, võ công cao, họ lại đều giỏi về binh sự như những đội trưởng, lữ trưởng. Họ điều khiển tráng đinh phân chia nhiệm vụ đâu ra đấy.
Sau đó Lục-Đình, cùng hai chục thị-vệ trang phục dân dã, hộ tống Chiêm-vương rời khỏi thành bằng bốn chiếc xe ngựa tiến vào dẫy núi phía Tây, là căn cứ để Chiêm vương điều động cuộc kháng chiến. Trong khi cung quyến để trong dinh tổng trấn.
Đến chiều, Lục Đình lại trở về thành, trong y phục dân dã, đến thị vệ, cùng quân canh cửa cũng không nhận ra ông. Ông đến nhà Thúc-Tề. Thúc-Tề ra đón ông vào. Ông xoa hai tay vào nhau:
- Bây giờ Ưng-sơn, Mộc-tồn đều tưởng hoàng thượng trao cho tiên sinh trấn thủ Phong-sa-trang bảo vệ cung quyến. Còn tôi thì ẩn thân, tổ chức trấn thủ đèo Runsari. Nhưng họ đâu có ngờ tôi bỏ Runsari về đây!
Thúc-Tề sai dọn cơm đãi khách, trong khi ăn uống, Lục Đình nói trong vẻ mừng rỡ :
- Tôi giao cho Chế-ma-Đa trấn thủ Runsari, để tôi lưu động di chuyển liên lạc giữa hoàng thượng với các đại thần. Trong khi tôi về ẩn ở đây, ngay vợ con tôi cũng không biết tôi ở đâu, thì Ưng-sơn với Mộc-tồn lào sao mà tìm ra tôi cho được!
Hai người ăn uống đàm đạo, sau bữa ăn, người nhà bưng món điểm tâm lên, Lục-Đình đưa tay ra đỡ lấy. Bất giác mặt ông tái xanh: con dao cắt bánh là mũi tên bằng vàng trên khắc hình chim ưng bay qua núi.
Thúc-Tề kinh hãi vội gọi đầu bếp với thị nữ lên tra hỏi xem mũi tên bằng vàng đó ở đâu? Thì cả hai cùng ngơ ngơ ngác ngác không hiểu tại sao? Ai đã lấy con dao đi, rồi thay bằng mũi tên?
Thúc-Tề nghiến răng vào nhau, ghé miệng vào tai Lục Đình:
- Ưng-sơn thực kinh khủng, quả danh bất hư truyền. Qua hai lần gửi tên, dường như Ưng-sơn chỉ muốn đe dọa đại nhân, chứ chưa muốn xuống tay. Bằng họ xuống tay, thì giờ này đại nhân đâu có còn tại thế? Bây giờ, tốt hơn hết khi tiểu nhân đi đâu, thì đại nhân đi bên cạnh là an toàn nhất.
Lục Đình run run:
- Đành vậy.
Hai hôm sau, bấy giờ là giờ Ngọ, trên con đường thiên lý từ phía Nam dẫn tới thành Phong-sa-trang tự nhiên có đám bụi bốc lên như đám khói đỏ. Trong đám bụi ấy mờ mờ ẩn hiện đội kị mã phi như bay. Người võ sinh trưởng toán canh gác vội lên vọng đài quan sát. Sau khi suy nghĩ, y cầm dùi đánh ba tiếng trống. Lập tức Hồ Đơn-Á từ dưới thành tung mình lên vọng lầu hỏi:
- Cái gì vậy?
- Trình sư phụ, một đội kị mã hỗn độn đang phi tới.
Hồ Đơn-Á mở to mắt nhìn đám bụi, đoàn kị mã, rồi cau mày:
- Đám kị mã này y phục không giống người Chàm, quân không ra quân, dân không ra dân, trong khi ngựa thì lại là ngựa chiến của Pandurango. Hãy thúc trống báo động.
Người đệ tử vội cầm dùi đánh trống. Lập tức các cửa khác cũng thúc trống vang trời. Bốn cửa thành đóng lại. Võ-sinh, binh-sĩ, dân quân đều vào vị trí phòng vệ. Đến đó, thì đội kị mã đã tới. Người chỉ huy ngửa mặt nhìn lên vọng lầu, rồi nói một tràng tiếp ộp ệp. Nghe qua, Hồ Đơn-Á biết viên chỉ huy này nói tiếng Hoa vùng Biện-kinh. Một kị mã trong y phục võ quan Chiêm đi cạnh người chỉ huy thông dịch:
- Đại quan Thiên-triều muốn nói chuyện với tướng trấn thủ.
- Trấn cửa thành Nam là tôi.
Hồ Đơn-Á đáp lại bằng tiếng Biện-kinh: Nhưng tôi không phải là tướng trấn thủ thành. Dám hỏi các vị là ai?
Kị mã đó ngước mắt nhìn lên, thấy Hồ Đơn-Á là một trung niên Hán tử, trang phục như nho sĩ Trung-quốc. Y nói lớn:
- Ta là chinh Nam thượng tướng quân Tu Kỷ của Thiên-triều. Ta được chỉ dụ của Hy-Ninh hoàng đế đem đội võ sĩ sang trợ giúp cho Chế-Củ để đánh bọn Giao-chỉ.
Chế-Củ là tên tục của Chiêm-vương, khắp nước Chiêm, không ai dám gọi như vậy. Nay Tu-Kỷ hô hoán lên là điều cực kỳ vô phép. Cạnh Tu-Kỷ có năm hán tử to lớn, râu ria xồm xoàm, trang phục theo ngũ hành: vàng, trắng, đen, xanh, đỏ. Nghe Tu-Kỷ hống hách Đơn-Á phát bực mình. Ông nghĩ thầm:
- Đám cao thủ của Tống viện trợ đã tới. Viên tướng này tỏ vẻ hách dịch, đã vậy ta làm bộ ngớ ngẩn trêu y cho bõ ghét.
- Ông tên là Chinh Thượng-Kỷ hả? Ông là lái buôn ngựa phải không?
Đơn-Á nói với Tu-Kỷ: Ông định bán bao nhiêu tiền một con ngựa?
Tu-Kỷ nổi giận, y nhắc lại:
- Ta là tướng quân Thiên-triều sang giúp chúa người. Người mau vào gọi tướng trấn thủ ra nói chuyện với ta.
- Tướng trấn thủ của tôi khó tính lắm, ông phải nói cho rõ thân phận thì tôi mới dám vào thưa lại.
Tu-Kỷ nổi cáu:
- Chế-Củ dâng biểu sang xin Thiên-triều trợ giúp chống bọn Việt. Cho nên Thiên-tử sai chúng ta sang cứu chúa người. Ta họ Tu tên Kỷ, lĩnh chức Chinh Nam thượng tướng quân. Nghe chưa. Mau vào báo với chúa người, để y mở cửa đón ta!
Thấy Tu-Kỷ càng hạch dịch, nổi nóng, Đơn-Á càng trêu già:
- Vua kiêu căng thì mất nước, quan kiêu căng thì mất chức, tướng kiêu căng thì bại trận. Này Tu tướng quân, nếu tôi là người Chiêm, thì tôi sẽ khinh bỉ tướng quân là phường vô học bất thuật, là bọn võ phu cục cằn. Còn tôi, thì tôi cũng là người Hoa như tướng quân, tôi xin mạo muội góp mấy câu, mong tướng quân để vào tai.
Ông nói khoan thai như thầy dạy trò:
- Dù tướng quân có là Hy-Ninh hoàng đế đi nữa, thì khi tới Chiêm cũng là khách. Là khách thì nên nói năng từ tốn, nhã nhặn, tỏ ra là người Trung-quốc, vốn làm chủ Hoa-hạ, chứ có đâu vô phép, gọi tên chúa nước Chiêm ra loạn xạ như vậy? Tôi cũng là người Hoa như tướng quân, tuy xa cố quốc lâu ngày, nhưng cũng dám chê tướng quân nói năng như thế là không phải vậy! Tôi không báo với tướng trấn thủ thành đâu. Vì báo, rồi ông ta ra đây để thấy một người Hoa thô lỗ cục cằn như tướng quân à?
Một người từ phía sau phi ngựa vọt lên, cung tay lễ phép, y nói bằng tiếng Biện-kinh:
- Xin lỗi tiên sinh, chúng tôi từ Pandurango tới. Khi đi đường chúng tôi được tin quân Việt đã hạ xong thành Nỏng-khà, hiện đang đem quân vượt đèo Rundari đến đây. Một đạo thủy bộ khác sắp đổ bộ Pandurango, như vậy ngay cả chúng tôi, tiền hậu đều thọ địch, chứ không phải mình tiên sinh đâu! Vì lẽ đó Tu tướng quân hơi nóng nảy, mong tiên sinh bỏ quá đi cho.
- À thì ra thế. Tu tướng quân vì sợ giặc quá, thọt dế lên cổ, nên muốn vào thành ẩn thân, thế mà Tu tướng quân cứ nói quanh co mãi. Tu tướng quân ơi, giặc đã đến đâu mà tướng quân quá kinh hãi vậy? Tướng quân kinh hãi như thế rồi chim teo lại, e đức vua tuyển làm tổng lĩnh thái giám không chừng.
Nghe Đơn-Á nói, đám võ sĩ đi theo Tu Kỷ cùng cười ồ lên, làm y ngượng chín cả người. Nguyên thời niên thiếu, Tu Kỷ được Khu-mật viện Tống bố trí sang tranh chức châu trưởng ở Bắc-biên Đại-Việt. Trong trận đấu, y bị đối thủ bóp dương vật đến hư hai quả ngọc hành, cho nên sau y ứng tuyển làm phò mã ở Biện-kinh bị loại. Chuyện này võ lâm đều biết. Nay vô tình Đơn-Á đùa y, mà lại trúng vào cố tật, nên mọi người đều bật cười, khiến y ngượng quá, tưởng muốn chui xuống đất như con giun. 0.
Đơn-Á vẫn vô tình:
- Xin tướng quân cho biết cao danh quý tính?
Hồ Đơn-Á hỏi viên tướng đó: nghe ngôn từ của tướng quân, thì rõ ra là người văn võ kiêm toàn.
- Tôi là Yên Đạt, hiện lĩnh chức Trấn-viễn đại tướng quân.
- Vậy xin đại giá Yên tướng quân chờ một lát, để tôi vào báo với Phạm tiên sinh là người trấn thủ thành này.
Lát sau Hồ Đơn-Á với Phạm Thúc-Tề cùng lên cổng thành. Thúc-Tề cung tay hành lễ:
- Vong quốc Quảng-châu Hoa nhân Phạm-Thúc-Tề kính chào nhị vị đại tướng quân. Thành này hiện không do quân Chiêm trấn giữ, mà đo bọn Hoa kiều chúng tôi đảm trách. Vậy chúng tôi kính mời đại giá nhị vị đại tướng quân vào thành, còn quý vị võ-sĩ hãy tạm dừng bước chờ đợi.
Một võ-sĩ râu rậm, y phục mầu vàng tỏ vẻ bực mình:
- Chúng ta đem mạng sống đi ngàn dặm cứu chúa người, mà người còn nghi ngờ ư?
Thúc-Tề cung tay:
- Xin tráng-sĩ miễn chấp. Bởi theo quân luật bản triều lập ra từ thời vua Thái-tông chinh tiễu Thái-nguyên, U-tô đã định rằng: « Trong lúc có chiến tranh, bất cứ quân tướng nào mới tới, đều phải ở ngoài thành chờ đợi, chỉ chúa tướng được vào để bàn luận kế sách hay nhận lệnh mà thôi ». Nay dù các vị với chúng tôi rời cố quốc muôn dậm, cũng không thể không giữ luật nước, bằng không người Chiêm họ cười chúng ta rằng: bọn vai u thịt bắp vô pháp vô thiên.
Yên-Đạt, Tu-Kỷ thấy Thúc-Tề đem quân luật của Đại-Tống ra để ước thúc viên võ sĩ của mình bằng ngôn từ ôn nhu văn nhã, lại chửi khéo y là bọn vai u thịt bắp, thì không dám coi thường. Tu-Kỷ quay lại nói với đám võ sĩ:
- Các vị hãy tạm chờ chúng tôi ngoài thành. Sau khi yết kiến quốc vương, chúng tôi sẽ trở ra để phân chia nhiệm vụ cho các vị.
Thúc-Tề sai mở cửa thành. Tu-Kỷ, Yên-Đạt với năm võ sĩ râu rậm vừa vào thành, thì cổng đóng lại. Võ-sinh, dân quân trở về vị trí của mình để canh gác. Tới dinh tổng trấn, Thúc-Tề mời Tu, Yên với năm võ sĩ râu rậm vào trong. Phân ngôi chủ khách xong, Thúc-Tề giới thiệu Quảng-Đông ngũ cái, rồi trình bầy kế hoạch cần vương mục đích: kéo dài cuộc chiến để chờ quân Tống đánh sang Đại-Việt, bấy giờ Chiêm mới phản công. Ông đề nghị phân chia võ sĩ làm ba mươi toán như kế hoạch đã định.
Tu-Kỷ nổi giận:
- Thế là thế nào? Chúng tôi là đại diện Thiên-triều sang đây trợ giúp Chiêm vương, thì vương phải chờ bọn tôi sang rồi mới định kế sách mới phải chứ? Có đâu đặt cái cầy trước con trâu? Tôi không đồng ý phân chia như vậy. Việc trước mắt, yêu cầu tiên sinh cho anh em chúng tôi vào thành nghỉ ngơi, ăn uống đã. Sau đó tôi xin yết kiến quốc vương để luận kế sách.
Thúc-Tề đành chấp thuận. Ông truyền cho chư đệ tử mở cổng thành đưa đám võ sĩ vào cư ngụ trong trại quân; sai binh sĩ làm cơm đãi khách, sai người tắm ngựa, cho ngựa ăn.
Riêng Tu-Kỷ, Yên-Đạt với năm võ sĩ râu rậm được mời vào dinh tổng-trấn. Tu-Kỷ nóng nảy:
- Quốc vương của người đâu? Ta muốn được gặp y ngay.
Phạm Bá-Di đưa mắt nhìn Tu-Kỷ, rồi nói bằng giọng lạnh như băng:
- Này Tu tướng quân. Cái gì là « quốc vương của người »? Chúng tôi đã thưa với tướng quân rằng chúng tôi là dân Tống, thì chúa của chúng tôi là Hy-Ninh hoàng đế. Hy-Ninh đế hiện đang ở Biện-kinh chứ đâu có ở đây?
Từ lúc đến Phong-sa-trang Tu-Kỷ hết bị Hồ Đơn-Á giả bộ ngơ ngơ ngẩn ngẩn trêu chọc, bây giờ lại đến Phạm-bá-Di nói ngang, y chịu hết nổi. Điên tiết, y vung tay chặt vào góc cái án thư. Một mảnh án thư bị tiện đứt ngon, bằng phẳng. Y nói với Yên-Đạt trong giận dữ:
- Thật là xui cùng mạng, khi chúng ta vào cái xứ thấp nhiệt này lại gặp bọn ngớ ngớ ngẩn ngẩn.
Phạm Bá-Di lẳng lặng cúi xuống nhặt miếng gỗ bị chém đứt để lên bàn, rồi nói bâng quơ:
- Ối chao! Cái bàn dễ thường làm từ đời ông Bành-tổ mục nát cả rồi nên Tu tướng quân mới chạm tay vào, đã bị gẫy như thế này đây.
Nghe Bá-Di nói, Tu-Kỷ mới hiểu rằng mình đang đối diện với bọn hủ nho, không có một chút kiến thức gì về võ công. Cơn giận của y tiêu tan ngay:
- Ta nói cho các người biết, hai ta là đại tướng quân, đem những võ sĩ vô địch sang đây giúp Chiêm vương, thế mà Chiêm vương với các người lại lập kế trốn chui, trốn nhủi, thì chúng ta không chấp thuận. Chúng ta muốn đối trận với bọn Việt, rồi chỉ cần một hai chiêu, chúng ta giết hết bọn tướng của chúng, sau đó không cần đánh, bọn quân sĩ cũng chạy như vịt.
Y chỉ năm võ sĩ râu rậm:
- Không cần nói đâu xa, ngay Trường-bạch ngũ hùng đây mà ra tay, thì không một cao thủ Việt nào chịu nổi lấy quá hai chiêu. Bây giờ ta muốn các người đưa ta đi gặp Chiêm vương.
Nguyên bọn năm người râu rậm là năm tên đại đạo khét tiếng xuất thân từ phái Trường-bạch, hai chục năm qua, chúng tung hoành suốt một giải Quan-ngoại tới Liêu-đông. Dù hắc đạo, dù bạch đạo nghe đến tên chúng đều kinh hồn táng đởm. Hy-Ninh đế phải tốn không biết bao nhiêu tiền bạc mới chiêu hàng được chúng. Nay nhân cứu Chiêm-thành, nhà vua sai chúng theo Tu-Kỷ để lập chút công, rồi phong chức tước cho sau. Tu-Kỷ tưởng đem tên chúng ra, thì bọn Thúc-Tề phải rét run, không ngờ năm người vẫn thản nhiên như không, vì không biết gì về ân oán giang-hồ ở Trung-nguyên.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 152
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com