watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
17:06:2629/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 11-30 - Trang 25
Chỉ mục bài viết
Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 11-30
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Trang 37
Trang 38
Trang 39
Trang 40
Trang 41
Trang 42
Trang 43
Trang 44
Tất cả các trang
Trang 25 trong tổng số 44



Chương 22b

Vũ Quang vừa mừng vừa bực:
- Thảo nào! Thì ra mày! Mày chơi trò ú tim, thấy thú của tao vào, mày ra lệnh cho chúng nằm nghỉ. Tao kinh hãi vô cùng, vì dù có bậc cao thủ đến mấy, cũng không thể kiềm chế một lúc sáu chục con vừa cọp, vừa sói, vừa báo của tao.
Trọng Kiệt hỏi:
- Đám chiến thuyền ngoài khơi hiện do ai điều khiển?
- Do hoàng nam Vọng-hương.
Hoàng Nghi trả lời: Bọn em quân ít, nên đêm phải ra khơi thả neo. Bây giờ có thể gọi họ vào rồi.
Hoàng Nghi tung mình nhạy xuống đất, ra sân cầm cờ phất. Lập tức trên các chiến thuyền, chiêng trống đánh vang lừng, rồi các hoàng nam xuất hiện, nhổ neo, chèo thuyền vào bờ. Thuyền cập bến, hai người xuất hiện, làm Trọng-Kiệt hơi kinh ngạc, đó là Lê Mưu và Võ Thương.
Hoàng Nghi chỉ Lê Mưu, nói với Trọng Kiệt:
- Sau khi chiếm dinh an-vũ sứ, Trung-thành vương chỉ định bác Lê làm an-vũ sứ Ma-linh. Bác Võ-Thương làm chuyển-vận sứ. Vương truyền lệnh cho đô-thống chia quân đi các huyện, trang ấp của Chiêm, của ta, giúp bác Lê Mưu, Võ Thương thiết lập lại hệ thống cai trị giống như bên Đại-Việt; về chính sách điền thổ, nhất nhất theo như bên ta. Việc nội trị, phải tuân hành bằng này điều.
Nó xé con gà nướng trong bọc đeo bên hông đưa cho Trọng Kiệt, Vũ Quang miệng cười hì hì: Một là những quan lại Chiêm cũ thuộc loại ác bá, thì đem giết ngay. Hai là những người Chiêm muốn tiếp tục làm quan với ta, thì được giữ nguyên chức tước, tài sản. Ba là tha thuế cho toàn thể lộ Ma-linh trong một năm, tha luôn cả thuế nợ từ năm trước. Bốn là quan lại cứ ba người Chiêm, thì ít nhất có một người Việt. Bốn là người Chiêm, người Việt được đối xử như nhau. Năm là khuyến khích Chiêm, Việt kết hôn với nhau.
Nó chỉ Nguyễn Văn-Huy:
- Còn đô-thống với bản bộ quân mã trấn thủ Tư-dung, lúc nào cũng phải sẵn sàng chiến đấu. Riêng bọn nhãi Dật, Quang với tôi phải đem đội binh thú lên đường tức thời.
Trọng-Kiệt hội chư tướng truyền lệnh, phân chia công tác, khao quân, cho binh sĩ nghỉ ba ngày, rồi lên đường. Viên đội trưởng tượng binh trình với Lưu Trọng-Kiệt:
- Trong quân ta không có kị binh, nhưng năm chục ngựa của chư tướng, năm chục ngựa của Vọng-hương, bốn mươi thớt voi... từ hôm rời Vọng-hương đến giờ trải đã năm ngày, quân di chuyển không ngừng, nên ngựa, voi cứ phải ăn cỏ khô với thóc, thành ra chúng không được khoẻ. Xung quanh trại này chỉ có những bãi cỏ nhỏ, cỏ lại không mấy tươi. Xin đô thống định liệu.
Trọng-Kiệt hỏi Võ Xuân-Loan:
- Trần phu nhân, gần đây có khu nào cỏ tươi tốt không?
- Trình đô-thống có đấy, nhưng hơi xa, phải đi mất nửa giờ sức ngựa. Vùng đó có khe suối, nước suối thơm ngọt, cỏ tươi quanh năm. Nơi ấy Chiêm cấm trâu bò, lừa ngựa của dân chúng lai vãng, dành để cắt cỏ phơi khô, làm lương cho voi ngựa. Nếu đô thống muốn, vợ chồng tiểu tỳ cùng hoàng nam, tượng binh đem voi, ngựa đến đó chăn một ngày, thì voi ngựa phục hồi sức khoẻ ngay.
- Vậy xin hai vị đi ngay cho.
Trọng-Kiệt ra lệnh: Hôm nay là một, ngày mai là hai. Nội trong ngày thứ ba phải đem ngựa, voi về để cho binh tướng khởi hành.
Xuân-Loan bàn với tượng binh:
- Tiểu tướng quân có bốn mươi thớt voi, mỗi thớt do ba vị điều khiển. Nhưng chăn cho chúng ăn thì đâu cần đi hết gần hai trăm người? Tốt hơn mỗi voi chỉ cần một vị đi theo mà thôi. Còn lại các vị nghỉ ngơi cho khỏe. Đi nhiều vô ích.
Lời Xuân-Loan có lý, đám tượng binh, mã phu được nghỉ ngơi, đều khoan khoái ra mặt. Trần Bình nói với đám hoàng nam, cựu nội-giáo:
- Chúng ta đều mới quy phục triều đình, thì phải gắng sức để tỏ lòng trung thành với đức vua. Vậy tất cả phải đem ngựa, voi đi chăn, tắm rửa. Thời gian có hai ngày, đâu đáng gì?
Sang ngày thứ ba, Trọng-Kiệt phân chia binh, tướng thành nhiều toán, mỗi toán sẽ đi bình định những trang, những xã chỉ định. Hẹn giờ Ngọ thì khởi hành. Nhưng cho đến giờ Tỵ, vẫn không thấy vợ chồng Trần Bình đem voi, ngựa về. Hoàng Nghi hỏi Vũ Quang:
- Sư huynh có biết vợ chồng y chăn voi ngựa ở đâu không?
- Đệ không rõ.
Hoàng Nghi cảm thấy có gì bất tường, nó nói với Phạm Dật:
- Sư huynh thử sai chim ưng đi tìm xem, hay có sự gì xẩy ra không?
Phạm Dật thổi tù và, gọi tám con chim ưng, chia làm bốn cặp, bay đi bốn phía tìm kiếm. Hơn giờ sau, vẫn không thấy chúng về. Nó nói với Trọng-Kiệt:
- Nguy quá, tốc độ của chim ưng trung bình ba trăm dặm một giờ 75km. Mà sao chúng đi hơn giờ rồi, cũng không thấy tin tức gì?
Lát sau ba cặp bay về phía Nam, Tây-Nam, chính Tây đều trở về không. Còn cặp bay về hướng Bắc vẫn chưa về. Phạm Dật định gọi mấy cặp sai bay về hướng Bắc, thì thấy đôi ưng do thám trở về. Chúng kêu lên những tiếng khẩn cấp, báo hiệu. Hoàng Nghi than:
- Tìm ra rồi, chúng báo rằng có nhiều người chết, còn voi, ngựa, không thấy đâu cả. Phải theo sự hướng dẫn của chúng để xem cái gì đã xẩy ra?
Trọng-Kiệt than:
- Tại đây chúng ta không còn con ngựa nào cả, làm sao bây giờ?
Hoàng Nghi gọi Phạm Dật, Vũ Quang:
- Ba chúng ta cỡi cọp, rồi xua đoàn hổ, báo, sói đi tìm xem sao?
Ba đứa cầm tù và ra lệnh, đám hổ, báo, sói được thả ra khỏi cũi. Ba đứa nhảy lên lưng cọp theo hướng chim ưng hướng dẫn phi như bay. Đi khoảng nửa giờ, chúng tìm thấy xác một tượng binh nằm bên đường đã chương lên, chứng tỏ y chết ít nhất hai ngày rồi. Phi thêm quãng nữa lại thấy năm xác tượng binh với ba xác nội-giáo. Xác tượng binh, cái thì bị chém, cái thì bị đâm, cái thì bị chưởng lực đánh. Còn xác bọn nội-giáo thì bị voi quật chết, hoặc dầy nát ngực ra.
Hoàng Nghi than:
- Như vậy là có cuộc giao chiến giữa nội-giáo với tượng binh rồi.
Đi thêm quãng nữa, thì lại thấy xác tượng binh, nội-giáo nằm la liệt. Vũ Quang ngừng lại thở dài:
- Mọi sự đã rõ ràng, vợ chồng Trần Bình đánh lừa Lưu đô thống, xin đem bọn nội-giáo chăn voi, ngựa. Khi tới đây, chúng trở mặt giết tượng binh, rồi đem ngựa, voi chạy trốn rồi.
Vũ Quang nổi cáu, văng tục:
- Tổ bà nó, mình mất bốn chục thớt voi, hơn trăm ngựa. Bây giờ lấy gì mà đuổi theo chúng? Vả chúng chạy đã ba ngày, có dùng chim ưng tìm kiếm cũng vô ích. Thôi ta về bàn với Lưu đô-thống.
Ba trẻ cỡi cọp, xua thú trở về.
Nghe tin mất bốn chục thớt voi, bốn chục tượng binh chết, Lưu-trọng-Kiệt kinh hoàng hỏi Lê-Mưu:
- Chúng ta phải làm gì bây giờ? Làm sao kiếm ra mấy con ngựa để đuổi theo chúng?
Võ Thương lắc đầu:
- Đuổi cũng vô ích. Chi bằng dùng chim ưng báo cho Trung-thành vương cùng các đạo quân khác biết. Một đằng vào các trang ấp trưng dụng ngựa của dân chúng.
Hoàng Nghi đề nghị:
- Bây giờ một mặt ta sai chim ưng đi báo cáo với vương gia. Một mặt bọn đệ đem theo đám binh hổ, báo, sói, một mặt trưng dụng ngựa của dân chúng cỡi, rồi cho chim ưng theo dấu vợ chồng Bình, đuổi theo, đoạt lại voi ngựa. Bằng không chúng dùng voi ngựa đó đánh ta thì nguy lắm.
Việc trưng dụng ngựa không khó. Ba đứa cùng Kim-Loan, Kim-Liên hô lên một tiếng phi ngựa trước, ba đoàn thú chạy theo. Chiều hôm đó, cả ba đã đi vào địa phận Địa-lý. Khi tiến vào trị sở Địa-lý, thấy cờ Đại-Việt bay trên cột cờ an-vũ sứ. Ba trẻ biết quân Việt đã làm chủ châu này rồi. Ba đứa vào dinh, thì gặp đô-thống Vương Văn-Trổ, với Nguyễn Minh-Sang. Thấy ba trẻ cùng bầy thú người đầy bụi, Trổ hỏi:
- Có gì khẩn cấp vậy?
Hoàng Nghi thuật lại chi tiết vợ chồng Trần Bình. Vương Văn-Trổ nhảy dựng lên:
- Sáng hôm qua, vợ chồng Bình cùng đám nội-giáo cỡi 40 thớt voi, trăm ngựa qua đây, chúng nói rằng được lệnh Lưu đô thống đem voi, ngựa, hoàng-nam đi tiếp viện cho đạo quân của tướng Dư Phi. Chúng xin tôi tiếp tế lương thực cho chúng; lúa, cỏ cho voi, ngựa, sau đó chúng lên đường rồi.
Vũ Quang hỏi:
- Trung-Thành vương hiện ở đâu?
Minh-Sang chỉ về hướng Bắc:
- Vương gia mang theo hai tiểu tướng Lý Đoan, Trần Ninh, với tất cả voi, hổ, báo, sói, hầu tiến về Nhật-lệ, hội với quân của tướng Dư Phi từ hai ngày rồi.
Vương Văn-Trổ chỉ vào đàn thú:
- Đám thú này chạy hơn một ngày rồi, nếu ba em cho chúng chạy nữa, thì e khi xuất trận chúng không còn sức. Đằng nào vợ chồng Bình cũng chạy tới Nhật-lệ, có đuổi theo cũng vô ích. Việc đánh úp Nhật-lệ coi như không thành nữa vì vợ chồng Bình báo cho giặc rồi. Kế hoạch phải đình lại, chờ nguyên soái Thường-Kiệt quyết định. Bây giờ ta cho thú nghỉ ngơi. Tôi đem lừa ngựa trở về Tư-dung để kéo hết đám xe chở thú cùng các tướng của chúng về đây. Các em chờ lệnh vương gia xem phải làm gì đã.
Ba trẻ thấy Trổ bàn đúng lý, chúng bình tĩnh lại, rồi viết thư sai chim ưng mang đi. Chiều hôm sau, các tướng binh hổ, báo, sói, hầu cùng xe từ Tư-dung đã tới. Đám tượng binh gồm một trăm sáu mươi người, chết bốn chục, nay chỉ còn trăm hai. Chúng không còn voi để sai khiến, mặt buồn rười rượi.
Về mặt trận trên biển.
Kể từ hôm diễn ra trận đánh Nhật-lệ đầu tiên, cho đến nay, đã tám ngày qua. Thủy-quân Việt-Chiêm vẫn cứ cầm cự nhau trên biển. Khi Chiêm khiêu chiến thì Việt án binh bất động. Khi Việt tấn công thì Chiêm rút lui. Vào một buổi chiều, ưng binh trình cho nguyên soái Thường-Kiệt một lúc ba bốn bức thư từ các mặt trận gửi về.
Thư của Trung-thành vương:
« ... Tiến chiếm Ma-linh, Tư-dung dễ dàng. Thu phục được chín trang người Việt. Đã dùng hoàng-nam Việt cùng binh Chiêm đầu hàng, tổ chức thành quân địa phương. Đang cải tổ cai trị. Đã ban bố chính sách giống như Đại-Việt. Một biến cố bất lợi của ta: bọn Hồng-thiết giáo giả đầu hàng, rồi cướp trăm ngựa, bốn mươi voi đem về Nhật-lệ. Kế hoạch của ta bị lộ hoàn toàn. Tìm ra con đường thượng đạo, có thể vượt Hải-vân vào Nam. Đợi lệnh ».
Thư của Tín-nghĩa vương Chiêu-Văn cho biết:
« ... Tin Ma-linh, Địa-lý cùng kho lương Tư-dung, Đại-tràng-sa bị chiếm đã đến với Đinh-kiếm-Thương. Y định chia quân làm hai. Một nửa giữ thành, còn một nửa rút về chặn đường tiến quân của Trung-thành vương. Vậy nên tiến đánh thành Bố-chánh, hay bỏ Bố-chánh, tiến đánh Nhật-lệ ? »
Thường-Kiệt tâu với nhà vua, rồi cho phất cờ họp tướng soái. Chư tướng tề tựu đầy đủ. Thường-Kiệt trình bầy diễn tiến mặt trận trên bộ, rồi hỏi ý kiến Tôn Đản. Ông cười:
- Tâu bệ hạ kế hoạch của ta bị lộ đúng lúc đã thi hành xong. Ta đang cần báo tin Ma-linh, Địa-lý bị chiếm, nguồn tiếp tế lương thảo, cùng đường rút lui bị tuyệt, khiến giặc vỡ mật; thì bọn Hồng-thiết giáo vô tình đã làm dùm ta. Lương thực của Chiêm ở Nhật-lệ giỏi lắm chỉ đủ nuôi quân trong mười ngày là cùng. Sự thể bắt buộc chúng phải tấn công ta, hy vọng thắng lợi, mới còn đường sống. Ta khẩn chuẩn bị giao chiến. Vậy mặt thủy để đô-đốc Hoàng Kiện chỉ huy.
Ông hỏi Thường-Kiệt:
- Nguyên soái định thế nào?
- Thưa sư thúc, cháu thấy đến nay chỉ cần đánh hai trận là đủ. Trận thứ nhất là thủy chiến ở đây. Trận thứ nhì là bộ chiến ở Thi-nại. Cho nên đánh trận Nhật-lệ cần giữ quân khí, tránh tổn thất. Tốt hơn hết mình dùng tâm chiến, làm nát lòng quân giặc.
- Nguyên soái luận thực chính xác. Bây giờ lệnh cho Dư Phi tiến quân thực gấp về Nhật-lệ. Còn Tín-nghĩa vương vây hãm không cho Đinh-kiếm-Thương chia quân cứu Nhật-lệ. Nhật-lệ bị uy hiếp, thì bộ quân ở Nhật-lệ ắt phải ở trên bờ phòng vệ. Thành qua thủy quân của họ không có bộ binh theo trợ chiến.
Ông hỏi nhà vua:
- Xin hoàng thượng ban chỉ dụ.
- Trẫm thấy cần phải nhổ cái gai thành Bố-chánh, trước khi khai diễn trận thủy chiến. Có như vậy lòng quân Chiêm mới thực sự bị loạn.
Tôn Đản truyền cho thư lại:
- Lệnh cho đạo quân của Tín-nghĩa vương tiến đánh thành Bố-chánh, phải chiếm được thành trong ba ngày. Đánh như vậy thì đổ máu nhiều, nhưng sự không đừng được. Sau khi chiếm thành Bố-chánh, vương kéo quân về hợp với Dư Phi tiến đánh Nhật-lệ.
Sau khi lệnh cho hai đạo quân Dư Phi, Tín-nghĩa gửi đi, Thường-Kiệt ghé miệng vào tai Tôn Đản nói nhỏ:
- Cháu đề nghị lệnh cho Trung-thành vương kéo quân trở về hợp với Dư Phi, chờ khi trận Nhật-lệ trên biển diễn ra, thì tiến lên đánh vào đám bộ binh.
Tôn Đản gật đầu:
- Như vậy ta bỏ trống Tư-dung, nếu thủy quân Chiêm rút về chiếm lại, thì đạo quân Trung-thành vương ắt tiền hậu thọ địch.
- Thưa sư thúc, sau khi đánh chiếm thành Bố-chánh, ta ra lệnh cho Tín-Nghĩa vương gửi đạo binh voi, hổ, báo, sói, hầu về giúp Trung-thành vương. Vương sẽ để lại mấy hiệu Thiên-tử binh trấn tại đây. Nếu như thủy quân Chiêm về đánh chiếm lại Tư-dung, thì một người giữ, trăm người đánh không lại. Trong khi đó ta dùng thủy quân đuổi sát phía sau.
- Đành vậy.
Tôn-Đản quyết định: Ta mạo hiểm một phen. Có điều đánh vào mặt bộ Nhật-lệ rất khó khăn. Bởi bộ binh Chiêm làm một chiến lũy vòng cung, bao vây căn cứ. Nếu như Trung-thành vương đánh từ trước vào, thì phải chịu tổn thất lớn. Giá như ta có cách nào đem một đạo kỳ binh đánh vào hông, rồi chiếm Thủy-trại, nhân đó đánh phía sau lưng chiến lũy bộ binh Chiêm. Chiến lũy của chúng trở thành rối loạn. Như vậy mới mong thanh công.
Nhà vua mỉm cười nói sẽ vào tai Thường-Kiệt, Tôn Đản:
- Sư-thúc với Kiệt đừng lo, ta dùng đám Long-biên ngũ hùng vào nhiệm vụ này thì ắt thành công. Tuổi trẻ Việt kinh lắm.
Tôn Đản, Thường-Kiệt gật gật đầu:
- Bọn thần cũng nghĩ như vậy.
Thường-Kiệt tâu nhỏ:
- Tâu bệ hạ! Vì sợ gian tế, nên thần tuyệt đối giữ kín: Ta còn đội Giao-long binh do Tây-hồ thất kiệt chỉ huy gồm năm trăm người. Người nào võ công cũng cao cường, lặn dưới nước như rái cá. Năm trăm người đó sẽ được dùng vào trận thủy chiến này. Trước ngày khai diển trận đánh, ta bí mật cho họ đột nhập thủy trại Chiêm, dùng dao ”đục nhớm” đáy thuyền một lỗ bằng cái mâm, giữa ”cái mâm” đó đóng một cái đinh thực lớn, đầu đinh móc sợi xích sắt thả thoòng-lòong xuống lòng biển. Sau khi đục xong, Giao-long binh trở về. Ta cho chuyển họ tới các hạm đội. Khi hai bên đang giao chiến, ta cho Giao-long binh chuồn xuống nước, cầm xích sắt giật tung miếng ván đục nhớm ra. Thế là chiến thuyền của chúng chìm hết.
- Sao khanh không cho Giao-long binh đi với đạo binh thủy, mà cho đi với Tín-nghĩa vương?
Nhà vua hỏi: À, chắc khanh cho đi như vậy, để tế tác Chiêm không biết mà đề phòng phải không?
- Tâu quả như thế.
Đô-đốc Hoàng Kiện truyền lệnh:
- Từ hôm khai diễn cuộc chiến đến giờ, Chiêm cố tình kéo dài thời gian, không chịu ra quân. Nay vì tình thế mất hai châu Ma-linh, Địa-lý, cùng các kho chứa lương, bắt buộc chúng phải khai chiến với ta. Trong trận này, ta có ba yếu tố tất thắng.
Ông nói chậm lại: Một là khi lâm chiến, trong tâm quân ta đều biết rằng hậu phương vững chắc, lương thảo đầy đủ, gia đình yên vui. Trong khi quân Chiêm lo sợ vì đường về bị cắt, đường tiếp tế lương thảo không còn. Hai là Chiêm ỷ vào độc tố Xích-trà-luyện, trong khi ta đã có thuốc giải. Chúng bị yếu tố bất ngờ, đẩy vào thế bị động. Ba là trong khi đánh nhau trên thủy, thì quân thủy chia làm hai, một nửa lo chèo, lái, điều khiển buồm, một nửa chiến đấu. Còn lại do bộ binh làm nỗ lực chính. Thì nay bộ binh của chúng phải lo chiến đấu bảo vệ căn cứ trên bộ, nên hiệu năng giảm đi còn một nửa.
Ông hướng vào nhà vua:
- Trong trận này xin chư tướng nhớ ba chỉ dụ của phụ hoàng. Một là, mặc dù phụ hoàng là đấng chí nhân, thương yêu quân sĩ như con đẻ. Nhưng trong hoàn cảnh bắt buộc chúng ta phải hy sinh. Trước, ta hy sinh ít , để khỏi phải hy sinh nhiều sau này. Cho nên bằng mọi giá, khi nhập cuộc, phải đánh như vũ bão. Hai là, lúc hàng ngũ địch rối loạn, bỏ chạy, ta đuổi đến cùng, quyết không để một chiến thuyền nào chạy thoát. Bởi chỉ cần để một chiến thuyền cho Chiêm, ta lại phải đánh trận thứ nhì. Ba là, đối với binh tướng Chiêm, ta nên cố gắng bắt sống hơn là giết chết. Chém giết chỉ là bất đắc dĩ.
Ông ngừng lại cho chư tướng theo kịp rồi tiếp:
- Trong lần giao tranh trước, Chiêm dàn quân theo hình tam giác. Phía trước hai hạm đội. Phía sau một hạm đội. Về tướng chỉ huy ta chỉ biết đô-đốc thủy quân tên Thi-đại-Năng, còn ngoài ra lý lịch, võ công y ra sao, ta hoàn toàn mù tịt. Bây giờ, nhờ Trung-thành vương đánh Ma-linh mà biết được y chính là đại ma đầu Hồng-thiết giáo Lê Phúc-Huynh.
Nghe tên Lê Phúc-Huynh, chư tướng đều đưa mắt nhìn nhau, vì võ công, độc công của y cao thâm không thua Nhật-Hồ lão nhân xưa kia làm bao, khó có người chịu đựng được của y đến mười chiêu.
Hoàng Kiện lại hướng vào Tôn Đản, Cẩm-Thi:
- Lần này ta dàn quân trái ngược với Chiêm. Một hạm đội ở trước. Hai hạm đôi ở sau. Khi xung trận, hạm đội trước chọc thủng phòng tuyến địch, rồi đánh quặt sang hai bên. Trong khi đó hai hạm đội sau tiến lên đánh trực diện. Hạm đội trước cần hai đại cao thủ có khả năng đấu ngang tay với Lê Phúc-Huynh. Ở đây ngoài sư phụ với sư mẫu ra không ai đương nổi. Vậy đô đốc Trần Hải đem hạm đội Thần-phù, chở hiệu Đằng-hải, Vũ-thắng chia làm hai cánh xung kích chính. Sư phụ thúc đi cánh trái. Sư mẫu đi cánh phải. Khi giáp chiến với Chiêm thì dùng hết khả năng chọc thủng đội hình của chúng. Khi thọc sâu rồi, thì cánh trái đánh quẹo sang trái. Cánh phải đánh quẹo sang phải.
Ông lại hướng vào Ngô Thường-Hiến, Nguyễn Căn:
- Hai vị đem theo hai hiệu Hùng-lược, Vạn-tiệp đi trên hạm đội Động-đình của đô-đốc Trần-Lâm làm cánh trái. Quan tổng-lĩnh thị-vệ Đỗ-Oanh đem theo hai hiệu Ngự-long, Quảng-thánh đi trên hạm đội Bạch-Đằng của đô-đốc Trần Như-Ý làm cánh phải. Đợi khi hạm đội Thần-phù chọc thủng đội hình Chiêm, thì hai hạm đội Động-đình, Bạch-đằng cùng tách làm hai. Một cánh vẫn tiếp tục tiến thẳng vào đội hình giặc. Một cánh theo sau hạm đội Thần-phù đánh thẳng ra sau, bịt đường rút của giặc.
Ông cung tay hướng nhà vua:
- Phụ hoàng với nguyên soái Thường-Kiệt vẫn đi trên hạm đội Bạch-đằng với thần nhi.
Lý Thường-Kiệt hỏi chư tướng:
- Ai có điều gì thắc mắc?
Đỗ Oanh hỏi:
- Thưa sư huynh, đệ thấy trên soái thuyền Kim-phượng có hoàng-thượng là đấng tối cao, lại còn sư-huynh là nguyên-soái, đô-đốc Hoàng Kiên, đô-đốc Trần-như-Ý rồi đệ nữa. Xin sư huynh biện biệt nhiệm vụ từng người một cho rõ ràng, để khi lâm chiến lệnh ban ra binh tướng không bị lẫn lộn.
Thường-Kiệt thương hại cậu sư đệ trẻ tuổi, chưa kinh nghiệm chiến trường. Ông giải thích:
- Soái thuyền Kim-phượng chỉ dành riêng cho hoàng-thượng. Người thân chinh không phải để cầm quân, mà với mục đích mang cái uy, cái đức ra cho binh tướng quyết tâm. Khi lâm chiến, tùy theo hoàn cảnh, người sẽ thúc trống cổ võ binh tướng, khiến họ hăng say chiến đấu.
- Dạ.
- Ta là nguyên soái, thì thống lĩnh thủy bộ chư quân, ban lệnh, thiết kế, ước tính... hoàn toàn chịu trách nhiệm. Khi lâm trận, ta phải phối hợp ba bốn đạo: đạo thủy, đạo Trung-thành vương, Tín-nghĩa vương, Dư Phi, và cả việc tiếp tế. Ta phải theo dõi các mặt trận, để có thể ra lệnh kịp thời, ứng phó với tình thế. Ta đi trên soái thuyền Kim-phượng cùng với bộ tham mưu là...đi nhờ, chứ ta không trực tiếp chỉ huy mặt trận thủy này.
- Dạ. Nhưng sao đệ thấy Tôn sư thúc ban lệnh, chứ không phải sư huynh.
- Còn Tôn sư thúc, người là quân-sư. Đúng ra ta là nguyên soái, thì từ ban lệnh, đến thiết kế, ta phải làm hết. Nhưng Tôn sư thúc trí dũng tuyệt vời, người là quân-sư, ta để người thiết kế, ban lệnh cho chư tướng. Tuy nhiên người còn lĩnh thêm nhiệm vụ tổng chỉ huy thủy-lục quân trên hạn đội Thần-phù. Với nhiệm vụ này người tuy là sư phụ của đô đốc Hoàng Kiện, là quân sư nhưng phải tuân theo lệnh chỉ huy của Hoàng đô đốc.
Ông nhìn đô-đốc Hoàng Kiện:
- Còn Hoàng đô-đốc, người chỉ huy toàn bộ mặt trận trên biển. Tất cả quân bộ, quân thủy, do người điều động hết. Trong khi hai bên giao chiến, chính người ra lệnh cho hạm đội này tiến lên, lui lại, rẽ sang phải, quẹo sang trái, tách làm hai làm ba v.v. Ở đây có ba hạm đội, trên hạm đội có một đô-đốc chỉ huy thủy thủ. Nhưng trên hạm đội còn có các hiệu Thiên-tử binh, mỗi hiệu lại có một tướng chỉ huy. Vì vậy trên hạm đội cần có một tướng tổng chỉ huy thủy bộ. Vị này phối hợp, truyền lệnh cho đô-đốc và tướng bộ binh.
- Khi ra đi, đệ có mang theo hai trăm thị vệ để bảo giá hoàng thượng. Nhưng bây giờ đệ phải chỉ huy hai hiệu Thiên-tử binh giao chiến với giặc. Vậy ai sẽ bảo giá hoàng thượng? Giữa đệ với đô-đốc Trần-như-Ý thì ai làm chúa tướng?
- Đệ hỏi vậy thực phải.
Thường-Kiệt nhấn mạnh: Trên hạm đội Bạch-đằng này thì đệ lĩnh hai nhiệm vụ. Một là chỉ huy ba chiến thuyền chở thị-vệ để bảo giá Hoàng-thượng. Hai là chỉ huy hai hiệu Thiên-tử binh Ngự-long, Quảng-thánh giao chiến với giặc. Đô-đốc Trần-như-Ý vừa chỉ huy hạm đội Bạch-đằng, vừa tổng chỉ huy thủy-bộ quân của cánh trái.
Nhà vua vỗ đầu Đỗ Oanh:
- Trẫm với sư huynh Thường-Kiệt, sư huynh Hoàng Kiện của người tuy là chúa tướng, nhưng khi đi trên hạm đội Bạch-đằng, phải tuân lệnh của đô-đốc Trần Như-Ý đấy.
Chư tướng đều bật cười về lời nói đùa của nhà vua. Nhưng ai cũng phải công nhận đó là sự thực.
Ghi chú, hồi 21-22

Trong cuộc bình Chiêm năm 1069, những bộ sử Việt như ĐVSKTT, VSL ghi rất vắn tắt. TS, TTTTGTB gần như không ghi chép. Để tìm tài liệu, tôi phải mò trong các sách đã dẫn ở phần tựa NQSH, Q1, mục nói về Linh-Nhân hoàng thái hậu và Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt, cùng đến tận nơi tìm hiểu.
Trong hai hồi 21-22 có nói đến mấy địa danh cũ. Nay xin dẫn để độc giả trẻ hiểu biết hơn về các địa danh này.
1. Một là Tà-lầm, nay thuộc Đông Saravanne nước Lào. Danh tự Tà-lầm tôi tìm thấy trong bộ TTCTBK trên văn bia Trần Vĩnh-Thái, tướng trấn thủ Khâm-châu của Tống, bị quân Việt giết. Sau Tống triều truy phong là Chuyển-Trí đại vương. Văn bia có đoạn:
« ... Tướng Giao-chỉ là Lý Chiêu-Văn tước phong Tín-Nghĩa vương được Lý Thường-Kiệt trao cho trấn thủ Khâm, Liêm-châu. Trước đây trong lần vào cướp ở Chiêm, Văn đã được Lý Nhật-tông giao cho đánh Nam-giới, còn anh y là Lý Hoằng-Chân tước phong Trung-thành vương vượt núi sang Lão-qua, theo đường Tân-lãm đánh Chà-bàn ».
Tân-lãm là gì? Hiện ở đâu?
Trong gia phả họ Tu chép về Tu Kỷ như sau:
« ... Tổ (Tu Kỷ) cùng Yên Đạt được vua Thần-tông sai chiêu mộ bọn vong mạng, bọn tử tù, hơn ba trăm vượt biển vào giúp Chiêm. Nhưng khi tổ tới Chiêm thì Chà-bàn thất thủ. Tướng Giao-chỉ là Lý Hoằng-Chân, đã đem quân vượt thượng đạo qua ngả Tà-lãm ở Lão-qua đang tiến xuống Phong-sa-trang ».
Để có thể tường thuật chi tiết cuộc bình Chiêm thời vua Lý Thánh-tông, năm 1990 tôi lấy máy bay đi Bang-Kok rồi từ Bang-kok đổi máy bay đi Sakhone Nakhone, sau đó vượt sông Cửu-long sang Lào, thuê xe đi Saravanne. Thực may mắn, tôi đã tìm ra danh tự này là Tà-lầm chứ không phải Tân-lãm hay Tà-lãm. Ngọn đồi Tà-lầm này nằm chắn ngang đường thượng đạo từ Saravanne xuống Nam Lào, rồi vượt núi đến Quảng-ngãi 0.
2. Hai là Nam-giới. Nam là phương Nam, giới là biên giới. Đây là cửa ải biên giới Chiêm-Việt suốt thời Ngô, Đinh, Lê cho tới thời Lý Thánh-tông -131. Để có thể tường thuật chi tiết trận Nam-giới, hè 1994, tôi rủ Seupasum, Bùi Phương-Lan thuê xe về thăm quê ngoại của Seupasum ở Hà-tĩnh. Không khó nhọc, tôi đã tìm ra ngay cửa bể cùng ngọn núi này ở phía Nam núi Hồng-lĩnh. Seupasum có quay vidéo Hồng-lĩnh, Nam-giới, cùng chụp hình.
3. Thứ ba là Trường-sơn. Tôi không rõ hồi ấy tổ tiên mình gọi đèo Cả là gì? Nhưng trong bản đồ Tu Kỷ vẽ đem về cho Khu-mật viện Tống ghi là Trường-sơn. Cả tiếng Bắc là lớn nhất, là trưởng. Trưởng đọc sang tiếng Hán là Trường.
4. Phong-sa-trang, ngày nay là Khánh-hòa. Hồi 1955 tôi có dịp thăm ngôi cổ thành Khánh-hòa ở ngoại ô Nha-trang, thành này quá nhỏ, không giống như tôi đọc trong cổ thư. Bấy giờ tôi có hỏi người Chàm, thì họ nói rằng thành Phong-sa-trang cũ đã bị chúa Nguyễn phá đi, và xây thành này trong khuôn khổ nhỏ hẹp hơn. Thành cũ nằm ở phía Nam vụng biển cầu Trắng, có lẽ nằm ngay giữa thành phố Nha-trang bây giờ?
5. Pandurango là cửa ải cực Nam của Chiêm bấy giờ. Theo Henri Maspéro trong Le Royaume du champa thì nay chính là Phan-rang. Còn Tu Kỷ khi sang cứu Chế-Củ y chép là Man-hải Nam-sa. Hồi hè 1994 tôi đã đến Phan-rang, tìm lại một vài gia đình người Chàm, họ vẫn gọi là Pandurango. Vậy thì không còn gì nghi ngờ nữa.


<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 171
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com