Ỷ-Lan về Thăng-long đã hơn năm rồi. Trong suốt một năm liền nàng làm việc cạnh nhà vua như một đại-học-sĩ. Mỗi tấu chương, nàng đọc cho nhà vua nghe, bàn luận với ngài. Sau khi nhà vua quyết định, thì chính nàng cầm bút son phê lên, rồi trình cho nhà vua ký. Các đại thần, từ tể-tướng Lý-đạo-Thành cho tới những vị trấn nhậm ở biên cương, khi thấy nét chữ châu-phê như rồng bay, như phượng múa, lời văn uyển chuyển thì biết ngay là của Ỷ-Lan phu-nhân. Trí nhớ của Ỷ-Lan rất tốt, mỗi tấu chương tới, nàng nhắc lại chuyện cũ như thế nào, nhà vua đã ban chỉ dụ ra sao, nay kết quả các nơi tấu về như thế đó. Nàng sai làm riêng một cái tráp, chia làm mười tám ngăn, mỗi ngăn cất một cuốn sổ ghi chú, tóm lược những diễn biến quan trọng. Trong mười tám ngăn, thì một ngăn cho phủ tể-tướng, một ngăn cho hậu cung, một ngăn cho Khu-mật-viện, sáu ngăn cho sáu bộ... lại có những ngăn cho Thị-vệ, cho Bắc-biên v.v. Cho nên chư sự trong cung, lục bộ, ngoài biên, nhất nhất mỗi sự nhà vua hỏi đến, nàng tâu trình rành mạch.
Tuy được nhà vua sủng-ái, tuy tài ba, tuy phụ tá nhà vua, nhưng Ỷ-Lan nghĩ rằng: lấy chồng vua hay lấy chồng dân, hạnh phúc hay không thì do mình tạo ra. Điều đó không khó. Nhưng đối với nàng, mình lấy chồng vua thì sao phải được lòng chồng, được lòng người xung quanh, rồi có thể nhân địa vị mình, mà mưu hạnh phúc cho dân. Cho nên nàng hết sức nhũn nhặn, yêu thương mọi người, luôn nhắc nhở nhà vua lấy lòng từ-bi của nhà Phật mà xử sự với cung nga, thái giám.
Hơn năm trước, trên đường từ Thổ-lội về Thăng-long, Ỷ-Lan nhớ đến năm đứa trẻ cùng sống ở chùa Từ-quang với nàng và bẩy đứa trẻ nghèo khó ăn xin ở Thăng-long. Nhớ nhung chồng chất, nàng định khi tới nơi, sẽ triệu hồi hai hoàng tử Hoằng-Chân, Chiêu-Văn đem chúng vào hoàng thành tương kiến. Nhưng khi nhập cung, nàng bị ràng buộc bởi luật lệ, lễ nghi; phải chờ cho tới khi được phong làm Ỷ-Lan phu nhân, mới có quyền triệu hồi, tương kiến với hoàng-tử. Lại nữa, từ triều đình, đến nội cung, nơi nào cũng có những lời xì xầm chống đối nàng về cái xuất thân dân dã, nếu nay nàng lại đem mười hai đứa em xuất thân ăn xin vào cung, thì những cái lưỡi dài như mãng xã lại được dịp nhả độc. Nàng đành nín nhịn.
Bây giờ, một năm qua, uy tín, tư cách của nàng lên cao, không còn ai dám xì xầm chống đối nữa, nàng mới nghĩ đến tương hội với bọn trẻ. Nàng hỏi cung nữ phụ trách lễ nghi:
- Này chị, ví thử tôi muốn mời hai hoàng-đệ Hoằng-Chân với Chiêu-Văn vào cung, thì thủ tục ra sao?
- Thưa phu-nhân, có hai cách. Một là phu nhân có thể thỉnh quốc-mẫu Thanh-Mai cùng hai hoàng-tử vào cung dự yến, rồi nhân đó, triệu hồi cả mười hai trẻ cùng theo. Hai là phu-nhân có thể ban chỉ tuyên triệu hai hoàng-tử đem đám trẻ vào, để phu-nhân xét xem việc dạy dỗ chúng đến đâu rồi.
- Có thể nào chỉ mời hai hoàng-tử vào dự yến, mà không có Quốc-mẫu chăng? Tôi thấy chỉ vì mấy đứa trẻ, mà phải thỉnh đại giá Quốc-mẫu thì thực không nên.
- Như vậy thì chỉ hoàng thượng mới có quyền. Vì dù sao phu-nhân cũng chỉ là chị dâu hai hoàng-tử, chứ chưa phải là bề trên, mà có thể ban yến.
Ỷ-Lan đem ý ấy tâu với nhà vua. Nhà vua vui vẻ:
- Được, trẫm chuẩn tấu.
Ngài gọi một thái giám:
- Người sang phủ Quốc-phụ tuyên triệu hai hoàng tử Hoằng-Chân với năm trẻ ở Thổ-lội, hoàng-tử Chiêu-Văn với bẩy trẻ mồ côi ở Thăng- long... ngay chiều nay vào dự yến.
Buổi chiều đến, hai hoàng-tử cùng đám trẻ nhập Hoàng-thành bằng hai xe, mỗi xe có bốn ngựa kéo. Thị-vệ đã chờ đợi sẵn, họ tiếp cương ngựa, rồi cúi rạp người xuống:
- Hoàng-thượng với phu-nhân đang chờ hai hoàng tử.
Viên thái-giám lễ nghi cung tay hành lễ, rồi dẫn đường đi trước. Đây là lần đầu tiên trong đời, đám trẻ được vào hoàng thành. Thằng Dật chỉ cung Ỷ-Lan nói:
- Này, anh em coi kìa, cung Ỷ-Lan sao lại giống căn nhà của ông bà Thiết trong làng mình quá nhỉ?
Thằng Đoan cũng nhận ra cái quen thuộc:
- Còn chín cây ngâu này thì cắt tỉa giống những cây ngâu ở chùa Từ-quang.
Bỗng thằng Ninh reo lên:
- Kìa, con trâu mộng của chị Minh-Đệ kìa.
Năm trẻ ở Thổ-lội quên mất đây là hoàng cung, chốn cực kỳ tôn nghiêm. Chúng reo lên chạy lại phía con trâu. Nguyên con trâu này, hồi mấy năm trước học trò trường Trung-nghĩa định giết để mừng thượng thọ Trịnh Quang-Thạch, nó chạy vào chùa Từ-quang lánh nạn. Ỷ-Lan đã mua lại. Sau khi nàng nhập cung, lý-trưởng sai người đem nó lên Thăng-long cho nàng. Ỷ-Lan đích thân chăm nuôi nó trong cung, để cho nông dân nghèo không có trâu cầy... mượn.
Dù thời gian đã mấy năm qua, đám trẻ lớn lên, nhưng con trâu cũng đã nhận ra chúng. Năm trẻ vuốt ve, vỗ lưng, xoa đầu, đứng xung quanh trâu.
Đến đó viên thái giám kính sự hô:
- Hoàng-thượng tuyên chỉ mời hai hoàng tử cùng các thiếu niên.
Đám trẻ vội bỏ trâu, theo hoàng tử Hoằng-Chân, Chiêu-Văn vào cung Ỷ-Lan. Hai người vừa bước vào, thì nhà vua cùng Ỷ-Lan đã đứng đón ngay ở cửa:
- Miễn lễ cho hai ngự-đệ cùng đám trẻ. Mời nhị vị ngự đệ ngồi.
Đám trẻ khoanh tay đứng sau lưng hai hoàng tử. Theo đúng lễ nghi, chúng phải cúi đầu không được nhìn nhà vua với Ỷ-Lan.
Lễ tất.
Nhà vua mỉm cười:
- Chắc ngự đệ không hiểu nguyên do nào trẫm lại mời hai vị vào đây cùng ăn yến phải không? Việc như thế này: Ỷ-Lan trước đây từng biết hai ngự đệ, hằng nghe danh hai ngự đệ, lại từng được hai ngự đệ giúp đỡ mấy năm qua. Nhưng hai ngự đệ lại chưa biết Ỷ-Lan, nên ý Ỷ-Lan muốn thỉnh hai ngự đệ vào để chị em gặp nhau.
Hai hoàng tử liếc mắt nhìn Ỷ-Lan. Hai ông tuyệt chưa từng thấy nàng bao giờ. Trước mặt hai ông, nàng chỉ là một thiếu nữ, trang phục như gái quê, nhưng đẹp huyền ảo. Mặc dù là hoàng tử, có nhiều dịp gặp gỡ người đẹp, nhưng hai ông chưa từng thấy ai đẹp mộc mạc như vậy.
Ỷ-Lan lên tiếng:
- Chị dâu em chồng tương kiến. Thiếp xin bệ hạ cho được nói với nhau bằng ngôn từ bình dân.
Nhà vua cười:
- Được chứ, em cứ tự nhiên.
Ỷ-Lan hướng năm đứa trẻ ở Thổ-lội:
- Dật, ngửng mặt lên nhìn xem Ỷ-Lan phu nhân là ai nào?
Phạm Dật ngửa mặt lên, nó thấy Ỷ-Lan thì reo:
- Chị Minh-Đệ! Sao chị lại ở đây? Bọn em nhớ chị muốn chết.
Đám trẻ nghe Phạm Dật reo, chúng quên mất rằng chưa có phép, chúng không được ngước mắt nhìn lên, chúng cùng mở to mắt nhìn nàng:
- Chị Minh-Đệ. Ối sao chị đẹp thế này?
- Ối chị Yến-Loan. Sao chị lại ở đây?
Nguyên, sau khi được hoàng tử Hoằng-Chân cứu nạn ở Thăng-long, năm trẻ làng Thổ-lội, được ông mang chúng về dinh nuôi nấng, dạy văn, luyện võ. Chúng có kể chuyện Minh-Đệ cho ông nghe. Ông cùng năm đứa đi khắp Thăng-long tìm nàng, nhưng không thấy. Ít lâu sau hoàng-tử Chiêu-Văn nhận lời Khất hoà thượng nuôi bẩy trẻ ở Yên-phụ. Nhân dịp hai đám trẻ gặp nhau, chúng đem « đời tư » của nhau ra kể, thế là chúng biết chúng có chung một bà chị. Thời gian hơn năm qua, chuyện bà chị dần dần đi vào lãng quên, thì hôm nay chúng gặp lại nàng trong khung cảnh uy nghiêm này.
Ỷ-Lan truyền cho chúng ngồi. Trong mười hai đứa, thì Lý Đoan có học nhất. Nó nói:
- Bọn em mất tin chị. Gần đây em có nghe đồn đức vua về làng mình tìm Hằng-Nga, đem Hằng-Nga làm vợ. Bọn em đâu ngờ lại là chị.
Nhà vua nói với hai hoàng tử:
- Anh em mình sang bên này. Anh có nhiều chuyện muốn nói với hai em. Để cho chị em Ỷ-Lan ôn chuyện cũ.
Nhà vua với hai hoàng tử đi rồi, Ỷ-Lan tóm lược mọi biến chuyển kể cho đám trẻ nghe. Chúng cũng đem những gì chúng học được nói với nàng.
Lý Đoan đề nghị:
- Từ hồi ấy đến giờ chúng em cũng không có tin nhà. Vậy bây giờ chị dẫn chúng em về quê, chị cứ nhận bọn em là con nuôi chị, để bọn học trò Trung-nghĩa phải lạy sứt trán ra cho bõ ghét.
- Không, chị không lớn hơn các em nhiều tuổi, thì nhận các em làm con sao được? Chị nhận các em làm em nuôi đủ rồi. Còn trường Trung-nghĩa ư? Trường đó không còn nữa.
Nàng kể biến cố Ưng-sơn giết cả nhà Trịnh Quang-Thạch cho chúng nghe, rồi nói:
- Bây giờ chị cho phép, cứ mỗi tháng các em được vào cung thăm chị một lần.
Bọn trẻ reo hò vui mừng. Kể từ ngày nhập cung, đây là lần đầu tiên Ỷ-Lan gặp người thân cũ, nàng mừng chi siết kể. Từ đấy, mười hai trẻ được tự do ra vào cung Ỷ-Lan. Nàng có thêm một số chân tay thông minh, lanh lẹ, và trung thành.
Theo luật triều Lý, thì mỗi tháng hai lần, nhà vua cùng Hoàng-hậu, phi tần phải đến cung Thiên-Cảm chầu Thái-hậu. Tuy nhà vua đã tuyên chỉ rằng đẳng trật phu-nhân của Ỷ-Lan dưới đẳng trật phi. Nhưng khi chầu hầu thái-hậu, Ỷ-Lan cứ đứng sau hết các bà phi đã đành, mà còn sau các mỹ-nhân.
Nhà vua chưa có hoàng-tử, nhưng đã có ba công chúa. Một là công chúa Thiên-Thành, nhũ danh An-Dân do Trần giai phi sinh ra. Công chúa là đệ tử của vua bà Bình-Dương đã hạ giá với thế-tử Thân Cảnh-Long con trai của vua bà Bình-Dương với phò-mã Thân Thiệu-Thái. Hiện công chúa ở Bắc-cương. Công chúa thứ nhì là Động-Thiên, nhũ danh An-Hải do Lý tuyên phi sinh ra. Công chúa là đệ tử của quốc-mẫu Thanh-Mai, đã hạ giá với đô đốc Hoàng Kiện đệ tử của Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản, hiện ở với chồng tại bến Tiềm-long bên bờ sông Hồng. Công chúa thứ ba là Thiên-Ninh nhũ danh An-Quốc, do Mai quý phi sinh ra, học trò của tiên nương Bảo-Hòa. Công chúa tuy đến tuổi trưởng thành, nhà vua định cho hạ giá nhiều lần, nhưng ỷ được sư phụ Bảo-Hòa cưng chiều, công chúa xin đi tu. Dĩ nhiên nhà vua không chuẩn tấu. Công chúa ở trong Hoàng-thành. Ngay từ khi Ỷ-Lan tiến cung gặp công chúa là thân với nhau ngay như bóng với hình.
Lệ triều Lý định từ thời vua Thái-tổ rằng có ba loại thiết triều. Một là đại triều vào mồng một, nếu cuộc đình nghị chưa xong thì có thể kéo dài đến vô hạn định. Thứ nhì là thiết tiểu triều vào các ngày mồng năm, mồng mười, mười rằm, hai mươi và hai mươi lăm. Thứ ba là cuộc thiết tinh-triều (tinh là ngôi sao), thì bất cứ khi nào nhà vua cần bàn với quần thần để quyết định một việc quan trọng.
Khi thiết đại triều thì cao nhất là thân-vương, tể-tướng, thượng thư, các an-vũ sứ, tiết-độ-sứ, đô đốc thủy quân, đại-tướng thống lĩnh kỵ-binh, chư tướng chỉ huy các đạo Thiên-tử-binh, tổng-quản Khu-mật-viện, tổng-lĩnh thị vệ, quan tổng-trấn Thăng-long. Khi thiết tiểu triều thì thành phần vẫn như trên, nhưng không có các thân vương, an-vũ-sứ, tiết-độ-sứ, đô đốc thủy quân, đại tướng thống lĩnh kỵ-binh. Còn thiết tinh-triều thì chỉ có tể-tướng, lục bộ thượng thư, quản Khu-mật-viện và những thành phần chuyên môn liên quan đến các vấn đề cần nghị sự.
Hôm nay nhà vua thiết tinh-triều về vấn đề cần cải cách sao cho dân giầu. Thành phần chính yếu vẫn không thay đổi, nhưng thêm một số các quan thuộc bộ Hộ, bộ Lại, bộ Hình như tham-tri (tương đương với thứ trưởng ngày nay), thị-lang (tương đương với tổng giám đốc ngày nay). Đặc biệt, có cả Ỷ-Lan phu nhân cũng tham dự. Buổi thiết tinh-triều tại điện Cao-minh. Vì buổi thiết triều này không có vấn đề quốc phòng, nên quốc-phụ Khai-Quốc vương với Quốc-mẫu Thanh-Mai vắng mặt. Đứng hầu cạnh nhà vua, có công chúa Thiên-Ninh.
Trước đây, trong những buổi thiết tinh-triều như thế, thì nhà vua ngồi trên ngai sơn son thiếp vàng. Phía trước ngai vàng có chiếc án thư chạm rồng. Còn các quan thì đứng. Nhưng từ sau ngày Ỷ-Lan phu nhân nhập cung, nàng tâu với nhà vua rằng, khi triều hội, các quan phải vận động hết tinh anh thần thức hầu bàn quốc sự. Thế mà các quan phải đứng hằng mấy giờ thì cơ thể mệt, ắt thần tổn. Phu-nhân xin nhà vua ban cho các đại thần được ngồi. Từ đấy, mỗi khi thiết tinh-triều, các đại thần được xếp chỗ ngồi trên ghế, sau cái án thư. Trên án thư để một khay bánh trái, nhiều ít tùy theo thứ bậc.
Ba hồi chiêng trống, đội nhạc cử bài ca Giáng-long. Chương-thánh Gia-khánh hoàng đế cùng Ỷ-Lan phu nhân ra. Các quan hành lễ. Sau khi hoàng-đế với Ỷ-Lan phu nhân ngồi, lễ quan hô:
- Chư đại thần an tọa.
Tể-tướng Lý Đạo-Thành đứng lên tâu:
- Thần Kiểm-hiệu thái-phó, Long-thành tiết độ sứ, đồng-bình chương sự, Khu-mật-viện sứ, lĩnh Chiêu-văn-quan đại học sĩ, giám-tu quốc-sử, Sơn-Nam quốc-công Lý Đạo-Thành kính tâu: buổi thiết-tinh triều hôm nay do kim ý của bệ hạ, mục đích triều nghị sao cho dân giầu. Thứ nhì là Lễ-bộ thượng-thư, Lại-bộ thượng-thư, Hình-bộ tham tri thuộc phe đảng Dương gia bị cách chức; các vị Lễ-bộ tham-tri, Lại-bộ tham-tri được bệ hạ ban chỉ lên làm thượng-thư, thành ra khuyết ba chức tham-tri, chưa có người thay thế. Thần xin đình nghị để cử ba người vào chức vụ đó.
Nhà vua vẫy tay:
- Xin mời thầy ngồi nói được rồi.
- Đa tạ bệ hạ. Bây giờ để Hộ-bộ thượng-thư tâu lên bệ hạ tình trạng canh tác năm qua.
- Thần Mai Đình, Hộ-bộ thượng thư, lĩnh Thần-nông điện đại học sĩ xin kính tâu. Năm vừa nhờ ân đức Quốc-tổ, Quốc-mẫu, nhờ Tiên-hoàng phù hộ, hai mùa đều trúng. Giá lúa hạ xuống, dân chúng no đủ. Vì lúa gạo dư, nên ta bán sang Chiêm, sang Trung-nguyên rất nhiều. Lục súc tăng lên gấp ba. Tăng hơn cả là lợn, gà, ngan, ngỗng, vịt, tôm, cá. Nhưng trâu, bò thì không tăng. Diện tích canh tác cũng không tăng.
Nhà vua hỏi:
- Trẫm thấy các lộ tấu về rằng dân chúng khai hoang nhiều lắm, thế sao diện tích canh tác lại không tăng? Trâu, bò, dê, ngựa trước đây cứ mười con cái thì tám con sinh đẻ. Thế tại sao lại không tăng?
- Tâu bệ hạ. Về diện tích khai hoang thêm nhiều, nhưng vì những nhà giầu bắt nộp tô quá cao, nên tá điền không thể canh tác, mà chủ điền thì hà khắc. Họ cứ nhất định bắt tá điền trả tô cao, bằng không thì thà để cho cỏ mọc, chứ chẳng chịu hạ tô. Vì vậy số ruộng đất để hoang rất nhiều.
Ỷ-Lan hỏi:
- Thưa thượng-thư, chủ điền đòi tô là bao nhiêu một mẫu?
- Tâu phu-nhân,những loại ruộng xấu họ đòi một nửa số thu. Những ruộng tốt họ không cần biết số thu là bao nhiêu, họ đòi mỗi mẫu một trăm thùng một mùa.
Nhà vua hỏi Ỷ-Lan:
- Khanh đã sống suốt thời thơ ấu ở đồng ruộng, khanh có ý kiến gì về việc thu tô này? Như vậy là cao hay thấp?
- Tâu bệ hạ, thu tô cao như vậy quả là lột da đầu, móc ruột tá điền.
Ỷ-Lan kể tiếp: đối với ruộng xấu, thì số hoạch một mẫu không thể quá trăm thùng. Còn ruộng tốt thì số hoạch mỗi mẫu không quá một trăm năm mươi thùng. Tính đổ đồng, cầy một mẫu mất ba công trâu, bừa ba công trâu, cấy năm công, rồi bón phân, tát nước, làm cỏ, đánh kỳ, gặt... mà chủ điền lấy một nửa. Như vậy tá điền chỉ đủ ăn mà thôi. Họ không thể dư giả để sửa nhà, thuốc thang khi đau ốm, may mặc.
Nhà vua nghe Ỷ-Lan tâu, long tâm cảm thấy như bị con dao đâm vào ngực một cái. Ngài thở dài:
- Nếu như tá-điền không đủ thóc nộp tô thì chủ điền làm gì họ?
- Bệ hạ không thể tưởng tượng được cảnh đau lòng của tá điền nghèo.
Nàng xuống giọng: tâu bệ hạ chiếu theo luật, thì họ sai nặc-nô đi đòi. Nặc-nô đòi không được thì họ kiện lên lý dịch. Lý dịch sẽ phái trương-tuần đem nặc nô tới nhà tá-điền siết lúa, siết gạo, siết gia-súc hoặc siết bàn ghế, dường chiếu. Nếu nghèo quá không còn gì siết thì bắt phải bán vợ, bán con đi lấy tiền trả chủ-điền, hoặc cầm vợ con cho chủ điền làm tôi tớ. Nhiều chủ điền cực ác, họ nhất định hoặc đòi tô thực cao, hoặc là để ruộng hoang chứ không chịu cho thuê với tô thấp.
Nhà vua thở dài hỏi tiếp:
- Như vậy thì tuy năm vừa qua lúa gạo dư thừa là dư thừa do trúng mùa. Người giầu thì thêm giầu, còn kẻ khó thì vẫn hoàn kẻ khó. Giả như, triều đình có phương thức nào cho ruộng đất không để hoang, người cùng dân cũng có ruộng cầy thì đó mới là đạo của vua Hùng, vua Trưng. Trẫm thực xấu hổ, khi ngồi trên ngai, mà để đến nỗi có tệ đoan: người giầu thì bỏ ruộng hoang, kẻ nghèo thì ngồi không nhìn ruộng hoang mà chẳng được cầy.
Nhà vua cau mặt lại tỏ vẻ đăm chiêu: bàn chung, hiện có bốn vấn đề phải giải quyết. Một là sao cho tá điền khỏi bị chủ điền lột da. Hai là không còn nạn để ruộng hoang. Ba là sao để khuyến khích dân khai hoang hơn nữa. Bốn là làm tăng số trâu bò cầy ruộng.
Các quan cùng nhìn nhau, bàn ra tính vào một lát, vẫn không sao tìm được cách nào giải quyết. Ỷ-Lan cung tay:
- Nếu bệ hạ cho phép, thì thần thiếp xin hiến những phương thức quê mùa.
Nhà vua đưa mắt hỏi Tể tướng:
- Ỷ-Lan không phải là đại thần, không biết thầy có cho phép Ỷ-Lan góp ý không?
- Tâu bệ hạ, phu nhân sống với nông dân, thì ắt phu-nhân hiểu những khó khăn của họ. Xưa, thời nhà Chu, thiên tử sai quan đi thái-phong đem về (1) để căn cứ vào đó mà truất trắc. Nay phu nhân tâu trình bệ hạ, thì cũng giống như sứ giả của bệ hạ sai đi. Vì vậy, theo lễ nghi bản triều, trước khi phu nhân tâu trình, triều đình phải dùng lễ đối với phu nhân như khâm sai.
Ghi chú,
(1) Đời nhà Chu bên Trung-quốc, sau khi phong hơn tám trăm chư hầu rồi, nhà vua đặt ra chức quan Thái-phong (thái là thu lượm, phong là bài hát bình dân) để đi tuần tra các nước. Các quan Thái-phong có nhiệm vụ sưu tầm những bài hát bình dân đem về nghiên cứu, căn cứ vào nội dung bài phong mà biết dân tình tâu lên vua để thưởng phạt chư hầu. Đến đời Khổng-tử, thì còn hơn ba nghìn bài. Khổng-tử san định lại còn 105 bài, chép thành sách, sau gọi là Kinh-thi.
- Được.
Lễ nghi triều Lý định rằng, mỗi khi vua sai một vị quan đi sứ, hoặc ra ngoài làm việc gì, thì vị quan đó được gọi là khâm-sai, được hưởng lễ nghi cực kỳ kính trọng. Khi khâm-sai trở về tâu trình, thì đội nhạc phải tấu khúc Viễn-hành quy triều. Sau đó khâm sai mới tâu.
Lý Đạo-Thành đưa tay vẫy, quan Lễ-bộ thượng thư chạy ra ngoài, lát sau đội nhạc vào điện. Họ đánh nhạc, tấu bài Viễn hành quy triều (đi xa về chầu vua):
Tự thiên tử sở,
Thiên-tử mệnh chi;
Chấp sự hữu khác,
Đức âm mạc vi.
Chưng tai mao sĩ,
Bạc ngôn hữu chi,
Duy kì hữu chi,
Bi nhiên lai ti.
Bảo hữu quyết thổ,
Bang gia chi ki.(2)
(2) Dịch:
Tự nơi đức vua,
Đức vua sai đi,
Nhiệm vụ kính cẩn,
Quyết chẳng sai di.
Tốt thay tuấn sĩ,
Duy có người thôi,
Vui vẻ trở về.
Bảo vệ Xã-tắc,
Gốc của nước nhà.
Nhạc dứt, Ỷ-Lan tâu:
- Các vị đại thần đây đều thuộc loại văn mô vũ lược, nhưng sở dĩ không nghĩ ra biện pháp giải quyết, vì bị ràng buộc bới luật ban hành từ đời đức Thái-tổ. Than ôi! Đời đức Thái-tổ, tiếp ngôi từ Ngoạ-triều, dân chúng đói khổ, nên không một tấc đất để hoang. Vì vậy cái tệ thà để đất hoang, chứ không cho thuê giá thấp không xẩy ra. Lại nữa hồi đó dân nghèo, nên không dám bầy ra ăn uống linh đình phí phạm. Chính vì vậy nhà làm luật không có điều khoản dự trù đối phó với tệ này. Bây giờ là niên hiệu Chương-thánh Gia-khánh thứ sáu rồi, hoàn cảnh không giống niên hiệu Thuận-thiên thứ ba, thứ tư nữa. Để giải quyết tệ đoan thứ nhất, thiếp cả gan xin bệ hạ ban chỉ cho tu bổ bộ luật về ruộng đất.
Từ hoàng đế cho đến đại thần đều bật lên tiếng hoan hô. Ỷ-Lan tiếp:
- Tu bổ luật có hai phần. Một là ấn định số tô mà tá-điền phải nộp cho chủ-điền. Hai là định rõ vấn đề ruộng để hoang. Bởi từ cổ xưa đến giờ, giữa chủ-điền với tá-điền thường thỏa thuận miệng với nhau, hoặc ký với nhau một điền-ước, chứ quốc luật không định rõ. Vì luật không định rõ, thì xẩy ra tương tranh. Dĩ nhiên trong vấn đề tương tranh kẻ mạnh sẽ thắng, người yếu sẽ thua. Kẻ mạnh luôn luôn là điền-chủ, người yếu luôn luôn là tá điền. Bây giờ tu bổ quốc luật định rõ số tô thì giải quyết được nạn chủ điền rút ruột tá điền. Còn vấn đề ruộng hoang cũng phải quy định.
Nói đến đây, Ỷ-Lan thấy trên mặt các quan hiện rõ ra nét bất mãn. Nàng biết những ông ngồi đây đều có thực ấp, không thì cũng có hàng trăm, hàng nghìn mẫu ruộng. Nếu nay cải cách ruộng đất, tất các ông bị thiệt hại nhiều nhất. Nhưng mờ mờ trước mắt nàng lại hiện lên những tá điền không đủ lúa nộp cho chủ điền, bị chủ điền siết nhà, siết vườn, đôi khi bắt con cái phải bán mình cho họ. Khi không có gì cho họ siết, thì họ kiện lên quan, bị bỏ tù, bị đánh đập tàn nhẫn. Những cảnh chia ly đầy nước mắt xẩy ra hàng ngày ở Thổ-lội, nàng nghĩ thầm:
- Khi xưa, vua Trưng còn dám cầm ba thước gươm đánh đuổi Tô Định, nay ta là con cháu người, mà ta không dám đối diện với các vị đại thần này ư?
Nghĩ vậy nàng tiếp:
- Trước hết phải chia ruộng làm năm loại. Loại tốt nhất gọi là nhất đẳng kim-điền, đất mầu mỡ, ở nơi gió thuận mưa hòa, gần sông, gần nước, mỗi năm trồng được hai mùa. Loại thứ nhì là nhị đẳng ngân-điền, có đủ điều kiện như nhất đẳng kim-điền, nhưng đất tương đối mầu mỡ. Loại thứ ba là tam-đẳng đồng-điền ruộng ở nơi xa nước, hay bị lụt bị bão, mỗi năm trồng được hai mùa. Loại thứ tư là tứ-đẳng thạch-điền, ở nơi gần nước, đất tốt, nhưng chỉ trồng được một mùa. Loại thứ năm là ngũ-đẳng thổ-điền, chỉ trồng được một mùa, lại ở nơi khô cằn. Việc định này sẽ do khâm sai của bộ Hộ, bộ Lại, hợp với quan huyện, lý dịch trong làng để định. Sau khi chia loại ruộng rồi, lập tại mỗi huyện một hội đồng gồm những người làm ruộng. Người làm ruộng có thể là người cầy ruộng của họ, có thể là tá điền. Hội đồng đó sẽ ấn định số hoạch mỗi mẫu của mỗi loại ruộng, gọi là số hoạch-chính. Hiện nay thì chủ lấy tô một nửa số hoạch, mà số hoạch đó do họ định. Họ định quá cao, khiến cho người giầu thì giầu thêm, kẻ khó càng khó thêm, tệ nạn này gây ra không biết bao nhiêu điều khốn khổ cho gia đình tá điền. Vật cùng tất phản, uốn quá hóa cong, chính vì vậy mà có nhiều nơi tá điền nổi lên giết chủ điền cho nư giận. Muốn giải quyết nạn này, triều đình phải định rõ, kể từ nay chủ điền chỉ được thu tô ba phần mười số hoạch-chính thôi.
Các quan đều bật lên tiếng « ồ », tỏ vẻ bất mãn.
Công chúa Thiên-Ninh nghe Ỷ-Lan tâu, mỗi lời đều hợp với ý mình. Nàng thấy cần phải khuyến khích bà ái phi của vua cha, nên tâu:
- Thưa phu nhân, thế nếu như những nông dân cần cù, họ tạo được số hoạch cao hơn số hoạch-chính, thì số sai biệt đó chia như thế nào?
- Thưa công chúa, chúng ta hiện theo pháp trị, nhưng lại lấy giáo huấn làm căn bản. Mục đích của việc định số hoạch-chính là để khuyến khích người cầy tăng số hoạch ln cao. Vậy nếu thửa ruộng nào có số hoạch cao hơn số hoạch-chính thì tá-điền được hưởng số sai biệt ấy. Nếu nông dân cầy chính ruộng của mình, mà tạo được số hoạch cao hơn số hoạch-chính, thì thửa ruộng đó được tha thuế.
Thiên-Ninh biết các quan đều không mấy vui lòng, nàng thêm nước đường cho Ỷ-Lan:
- Thưa phu nhân, ý kiến phu nhân thực siêu việt. Nếu như triều đình thuận theo đề nghị của phu nhân thì từ chủ điền tới tá điền sẽ thi nhau bón phân, tát nước cho ruộng có số hoạch cao để được thu thuế. Chà, quốc sản sẽ dư thừa, dân giầu mau lắm. Hễ dân giầu thì nước mạnh. Còn đối với việc để ruộng hoang?
- Ruộng là của trời ban cho. Ý dân là ý trời. Người nào may mắn được làm chủ ruộng thì có nghĩa là được hưởng của trời, mà họ lại để hoang, tức họ từ chối quyền làm chủ. Khi họ từ chối, thì phải lấy lại. Triều đình ban luật: nếu như chủ điền bỏ ruộng hoang, thì ruộng đó bị xung làm công điền, người tá điền năm trước được quyền cầy, mà tô thì nộp cho triều đình. Triều đình dùng lúa đó nuôi người già không nơi nương tựa, nuôi trẻ mồ côi, cứu trợ thiên tai.
Quan thái-úy Quách Kim-Nhật cung tay:
- Thực là Quốc-tổ linh thiêng đem phu-nhân về triều. Vấn đề thứ nhất là tô ruộng, vấn đề thứ nhì là ngăn ngừa tệ để ruộng hoang đã xong. Bây giờ đến vấn đề sao cho dân chịu khó khai hoang hơn nữa.
Ỷ-Lan biết Quách Kim-Nhật trước đây thuộc phe họ Mai, bị phe họ Dương chèn ép, nay nhờ nàng mà được phục hồi chức vụ, nên ông nói câu đó để coi như tạ ơn nàng. Nàng mỉm cười:
- Vấn đề này thì các quan cũng như trăm họ không ai bị thiệt hại gì cả, chỉ hoàng-thượng là bị thiệt hại nhất mà thôi!
Nhà vua bật cười:
- Thiệt hại gì trẫm cũng vui lòng, miễn sao cho dân sung sướng là được rồi. Thà trẫm mặc quần áo nâu, ăn cơm với muối, mà dân no ấm thì trẫm còn vui sướng hơn ăn cao lương mỹ vị, mặc quần áo gấm nữa. Khanh nói ra cho trẫm nghe đi.
Ỷ-Lan hướng đôi mắt long lanh đầy tình tứ nhìn hà vua:
- Trước đây, vấn đề khẩn hoang đa số là nhà giầu mới có phương tiện làm, vì rất tốn kém. Bây giờ xin bệ hạ ban chỉ: ai khai được ruộng hoang thì thửa ruộng đó năm năm không phải nộp thuế. Những người không có mảnh đất cắm dùi mà khai hoang, thì triều đình trợ cấp tiền bạc để cả nhà họ có ăn mà khai hoang. Tất nhiên công nho sẽ mất đi một khoản tiền lớn. Nhưng quốc sản lại gia tăng rất nhiều.
Hộ-bộ thượng thư Mai Đình cúi đầu:
- Tâu phu-nhân, so với Trung-nguyên, Chiêm-thành thì thuế của Đại-Việt quá thấp, đến độ bằng một nửa Chiêm-thành và bằng một phần ba Tống. Hiện thần đã cho tiết giảm chi tiêu đủ mọi khoản, mà cũng không đủ tiền nuôi quân, trả lương cho các quan, cùng chỉnh đốn thành trì, cung điện, hậu cung. Nếu nay lại trợ cấp khai hoang thì thực... thì thực thần không tìm đâu ra tiền.