Ở tù ra, Minh không về Hải Ninh. Anh nán lại Hà Nội, chọn con đường đấu tranh mới là báo chí. Anh viết những bài bình luận chính trị, đã kích chế độ thực dân và đòi cải cách xã hội. Cái hăng say nóng nảy của tuổi trẻ trào ra trên những bản thảo cực kỳ gay gắt, thường bị chủ bút cắt xén và sửa đổi rất nhiều để tờ báo có thể sống còn dưới những cặp mắt cú vọ của Sở Liêm Phóng. Đôi khi anh phải viết bằng tiếng Pháp, ký đại một cái tên Tây nào đó rồi gởi cho những tờ báo có thiện cảm với ngừơi bị trị như L`Argus Indochinois ở thành phố Hàm Long Hà Nội. Ông chủ báo Amedée Clémenti, có vợ Việt Nam, thường hăng hái cổ võ cho nền độc lập An Nam, nhưng bản thân ông lại vướng phải cái thú thuốc phiện quá nặng, làm mất đi khá nhiều cảm tình của người hâm mộ. Chậm chững vào làng cầm bút, thấy những đàn anh đồng nghiệp có tên tủi như Nguyễn Trọng Thuật, Nhượng Tống, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Công Hoan, Nghiêm Toản, Trúc Khê, Trần Huy Liệu v.v... đều đã gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng, Minh thấy lòng mình cũng nao nao thôi thúc vì tự cho rằng mình không thể đứng bên lề khi chung quanh có cả một hệ thống thanh niên trí thức đang dấn thân vào cuộc chiến đấu dành độc lập cho xứ sở. Huống chi bản thân Minh từ khi mới lớn, vốn vạch ra con đường để theo đuổi là chống những hủ tục làm chậm tiến Việt Nam, đồng thời chống những đè nén của giặc ngoại xâm thông đồng với quan quyền phong kiến. Thì đây, Việt Nam Quốc Dân Đảng chính là đoàn thể đáp ứng đúng hai khác vọng ấy của Minh. Tuy nhiên cái ấn tượng mạnh nhất thúc đẩy Minh gia nhập Quốc Dân Đảng đã đến với anh trong một buổi hợp bí mật ở Thành Bộ Hà Nội, nơi đó anh có dịp gặp một đồng chí lớn hơn anh gần mười tuổi, tên là Lê Hữu Cảnh. Cảnh sinh năm 1895 tại Hà Đông, trong một gia đình công giáo rất sùng đạo. Gia đình Cảnh kinh doanh ngành đồ gốm ở Hà Nội, cho cảnh theo học trường dòng tức là trung tiểu học Colège Puginier nằm trên phố Carreau trong khu nhà chung thuộc giáo hội Thiên Chúa Giáo. Puginier là tên một linh mục người Pháp có công xây nhà thờ lớn Hà Nội, tức thánh đường Saint Joseph khánh thành dịp lễ Noel năm 1887, tức là trước Vương Cung Thánh Dường Sài Gòn một năm. Thời Pháp thuộc, người công giáo vẫn bị coi là thành phần hưởng lợi của Pháp, cho nên hoặc đứng vào hàng ngũ thân Tây, hoặc dửng dưng đứng giữa, không tích cực chống Pháp. Điều này cũng dễ hiểu, một phần người Pháp muốn lợi dụng Công giáo, lại thêm phong trào Văn Thân kỳ thị đẩy khối dân Thiên Chúa giáo xa dần cộng đồng dân tộc. Thêm vào đó, từ khoảng 1920, dưới thời đức giáo hoàng PIO XI, chủ trương của giáo hội là công khai tuyên chiến với chủ nghĩa vô thần sua khi Lenin lập được chế độ Cộng Sản tại Nga năm 1917.Từ ngày ấy, người Công giáo mặc nhiên coi kẻ thù chính cần đối phó là Cộng Sản theo lời dạy của giáo hội. Tất cả những thế lực khác trở thành thứ yếu. Thậm chí có người sẵn sàng hợp tác với Pháp để chống cộng. Lê Hữu Cảnh là một trường hợp giáo dân khác thường.
Lê Hữu Cảnh sau khi học trường dòng Puginier đã được tuyển vào lính Pháp. Thời ấy quân dân Việt Nam đi lính cho Tây, dù có khả năng đến đâu thì chỉ có được ở hàng hạ sĩ quan mà thôi. Cho nên những cấp bật mà người Việt nghe quen tay là Cai (hạ sĩ), Đội (trung sĩ) vaQuản (thượng sĩ). Cai và Đội được gọi bằng thầy. Tới chức Đản thì được gọi là quan. Thầy cai, thâỳ đội, quan quản. Lê Hữu Cảnh đi lính Pháp lên tới chức Quản, tức là quyền hành bổng lộc cũng thuộc vao hàng khá. Nhưng ông xin giải ngũ trở về và chuyển sang làm việc trong xưởng Hỏa Xa Hà Nội. Như thế, nói chung Lê Hữu Cảnh là thành phần được Pháp đào tạo, nâng đỡ, cho công ăn việc làm để từ đó có cuộc sống tương đối đầy đủ nhất là Cảnh đi theo đạo Thiên Chúa, một tôn giáo được xem như đồng minh của Pháp. Vậy mà Cảnh từ khước hết, mãnh liệt lao vào công cuộc chống Pháp bằng hành động rất can đảm với trí óc thông minh và từng trải của mình. Thái độ ấy làm Minh vô cùng cảm động. Nhìn bao nhiêu công chức đang lĩnh lương của Pháp, bao nhiêu con cái trong những gia đình quan quyền, từ thông ông phán cho đến án sát, tuần vũ, dám từ bỏ cuộc đời an nhàn để kéo nhau vào Quốc Dân Đảng. Minh không thể làm ngơ đứng ngoài, Minh đã từng nể phục những người như Phó Đức Chính, tốt nghiệp cao đẳng công chánh, như Nguyễn Ngọc Sơn vừa du học bên Pháp về, tương lai hứa hẹn cuộc sống thịnh vượng, thế mà họ vẫn tham gia sáng lập Việt Nam Quốc Dân Đảng ngay từ buổi đầu. Nay gặp Lê Hữu Cảnh, Minh còn nể hơn, bởi trước đó Minh có thành kiến là người Công Giáo không chống Pháp. Giữa lúc lòng đang hăng say, Minh gặp Nguyễn Vă Viên, một đảng viên gắng bó với Quốc Dân Đảng từ khi Tổng Bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng còn có cái danh xưng sơ khởi là Chi Bộ Nam Đồng Thi Xã. Nguyễn Văn Viên và Nhượng Tống Hòan Phạm Trân đọc bài viết của Minh trên báo, biết anh là người cùng chí hướng, liền ngỏ lời rủ anh gia nhập. Minh không lưỡng lự. Anh hăm hở tuyên thệ ngay và được Nguyễn Văn Viên giao cho công tác tuyên truyền trong tổ đảng thuộc Thành Bộ Hà Nội. Anh cũng giã từ người bà con, dọn ra riêng thuê căn gác trọ ở xóm bình dân, vì cần làm việc kín đáo, thức khuya viết bài, cần liên lạc với đoàn thề và nhất là tránh liên lụy cho gia đình người thân nếu chẳn may hành tung anh bị mật thám phát hiện. Lùi trở lại ngày 25 tháng 12 năm 1927, chi bộ Nam Đồng Thư Xã quyết định tổ chức đại hội đại biểu toàn quốc để chính thức khai sinh Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đại hội sở dĩ chọn ngày lễ Chúa Giáng Sinh là để dễ đi lại trà trộn vào đám đông vì đồng bào Công Giáo khắp nơi đều lũ lượt kéo đến các nhà thờ. Hơn thế nữa, đối với người Pháp, Noel là lễ lớn nhất trong cả năm, dù sao thì chúng cũng vui chơi tiệc tùng, lơ là việc tuần tra. Nhờ vậy, đại hội khai mạc lúc 8 giờ tối, đã diễn ra tốt đẹp như đồng Lê Thành Vỵ, nằm trong làng Thể Giao, đất cũ thuộc Huyện Thọ Xương, thành phố Hà Nội.
Kể từ đó, sức phát triển Đảng bung ra quá nhanh và quá rộng. Đảng đưa ra chương trình hoạt động gồm ba giai đoạn: Bí mật, bán công khai và tổng khởi nghĩa. Quan trọng nhất vẫn là giai đoạn một, tức là thời kỳ bí mật kết nạp Đảng viên và phát triển Đảng. Nhưng biến triển của tình thế diễn ra quá nhanh, Đảng viên quá hăng say và phần lớn chỉ có nhiệt tình yêu nước mà chưa có kinh nghiệm đấu tranh, nên chỉ được một năm 1928 là tương đối an bình. Năm sau, bão tố ùa đến thật nhanh, đưa Việt Nam Quốc Dân Đảng vào một viễn ảnh cực kỳ bi thảm. Âu cũng là định mệnh của lịch sử! Lúc bấy giờ phong trào mộ phu đang lên rất cao ở toàn miền Bắc, người cứ đi mà chẳng thấy về. Là nhà báo, Minh âm thầm lao vào những cuộc điều tra bằng những thăm dò và phỏng vấn rộng rãi hầu viết những phóng sự nhằm phơi bày những đau khổ tận cùng của những kẻ lầm lỡ ghi danh làm mộ phu, hoặc bị đưa vô Nam Kỳ hoặc đi những phương trời thuộc địa xa xăm của Pháp. Báo không dám đăng, anh cùng các đồng chí thảo truyền đơn bí mật rải khắp nơi, gay gắt chống việc mộ phu và can ngăn đồng bào đừng nhẹ dạbị dụ dỗ nghe lời tha phương cầu thực. Chẳng riêng gì Việt Nam Quốc Dân Đảng, phía Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội cũng tung ra hàng loạt truyền đơn có nội dung tương tự, nhất trí lên án việc mộ phu. Lúc này Đảng Tân Việt kể như đã giải thể. Đảng này khởi đầu có tên là Phục Việt do nhóm thanh niên trí thức tân học thành lập, như Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Xuân Chữ, Mai Lâm, Đặng Thái Mai, Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai v.v... Về sau, nhóm Tân Việt sát nhập vào Đông Dương Cộng Sản Đảng. Những đảng viên có lập trường chính trị như bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Đắc Lộc, đành bỏ đảng, không hoạt động nữa. Từ đấy, lực lượng chống Pháp chỉ còn lại hai đoàn thể đáng kể, hoạt động song hành là Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội và Việt Nam Quốc Dân Đảng. Vì cùng một mục tiêu tối hậu, cùng chia sẽ những hoạn nạn và cì cả hai đều quá bận với những chuyện của nội bộ, nên những hiềm khích chưa xảy ra cụ thể giữa đôi bên, nhất là khi lãnh đạo chủ chốt ở bên kia là Nguyễn Ái Quốc vẫn còn lẫn khuất ở nước ngoài. Suốt tháng 4 năm 1928, đại diện hai đảng đã gặp nhau liên tục để bàn việc kết hợp, nhưng không có kết quả. Quốc Dân Đảng trủ chương Tổng Bo lãnh đạo cuộc cách mạng phải đặt ở quốc nội để cùng nằm gai nếm mật, cùng chiến đấu với đồng chí và đồng bào. Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội thì cho rằng Tổng Bộ nên đặt ở nước ngoài, chẳng hạn bên Trung Hoa, để tránh bị địch bắt, bởi nếu Tổng Bộ bị bắt thí như rắn bị mất đầu, đoàn viên sẽ hoan mang và tan rẽ dễ dàng. Quốc Dân Đảng thì không đồng ý vì cho rằng như thế là hèn nhát, là ném đá giấu tay. Tranh luận mãi chả đi đến đâu. Vì khát vọng đoàn kết, tháng 5 năm 1928, Tổng Bộ Quốc Dân Đảng cử người qua tận Thái Lan để gặp lãnh tụ cao cấp hơn của Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội. Phái đoàn Hồ Văn Mịch gặp Hoàng Ngọc Ẩn, tức Hoàng Văn Hoan, ở Udon, một tỉnh nhỏ phía Bắc Thái. Chuyện cũng không thành vì Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội thiếu thiện chí. Bề ngoài, họ tiếp đãi Việt Nam Quốc Dân Đảng rất niềm nở, nhưng bên trong họ không thật lòng muốn thống nhất. Đây chẳng phải là lần đầu. Trước đó, hồi tháng 5 năm 1927, khi quốc dân đảng chưa chính thức ra đời, còn hoạt động kín đáo trong khuôn khổ nhím Nam Đồng Thư Xã, Nguyễn Thái Học cũng đã từng cử đại diện là Nguyễn Đức Cảnh sang tận Quảng Châu gặp Nguyễn Ái Quốc để bàn chuyện kết hợp. Nhưng Cảnh không thuyết phục nổi Nguyễn Ái Quốc, trái lại ông bị Nguyễn Ái Quốc dụ dỗ, từ bỏ Quốc Dân Đảng gia nhập Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội, trở thành một đảng viên Cộng Sản tiên khởi tại Bắc Kỳ sau này. Trường hợp hợp của Cảnh cũng tương tự như của Trần Phú, con quan tri huyện Đức Phổ, lúc đầu theo Đảng Phục Việt. Đảng cử Phú sang Quảng Châu gặp Nguyễn Ái Quốc để tính chuyện hợp tác chống Pháp. Phú bị Nguyễn Ái Quốc thuyết phục, ở lại luôn rồi kết nạp vào Đảng Cộng Sản. Nguyễn Ái Quốc gởi Phú đi học lớp chính trị bên Mạc Tư Khoa, rồi trở về làm Tổng Bí Thư đầu tiên của Đông Dương Cộng Sản Đảng, lúc Phú 26 tuổi. Sau những nổ lực liên kết không thành ấy, Nguyễn Thái Học vẫn chủ trương giữ giao hảo thuận hòa với mọi đoàn thể cách mạng khác, bởi trong cách nghĩ ngay tình của ông, bức cứ ai cùng chung ký tưởng đánh đổ thực dân Pháp, thì đều được coi là đồng chí cả! Một hôm bà Truyền từ Hải Ninh tất tả chạy xuống Hà Nội thăm con. Vì Minh chưa báo tin về làng, nên bà Truyền vẫn tưởng Minh còn ở nhà trọ của người bà con mình. Đó là người em cùng cha khác mẹ, lấy chồng làm thợ kim hoàn ở ngay phố Hàng Bạc và bà gởi Minh trọ hcọ ở đấy. Bà khệ nệ xách mấy cái giỏ cối đựng mấy món quà nhà quê, suất hành từ lúc gà mới gáy sáng, đến nhà người em thì trời đã quá trưa. Người em đi vắng. Cái Nhi, con gái thứ ba, nhìn bà Truyền tội nghiệp, ân cần bảo: - Khổ thân bà quá! Lặn lội từ dưới ấy lên đây! Mẹ cháu lại vừa đi vắng. Bà ngồi chơi tạm để cháu dọn cơm mời bà xơi, đợi mẹ cháu về!
Thông thường ở miền Bắc, hai chị em gái thì người ta gọi là "con dì, con dà", nghĩa là cái Nhi phải kêu bà Truyền là "dà" mới đúng. Nhưng dân trong làng có thói quen là hễ anh hay chị của bố, thì gọi là "bác", mà anh hay chị của mẹ thì kêu bằng "bá". Bà Truyền vừa cầm nón quạt mồ hôi vừa đáp: - Đừng cháu! Cháu đừng bày vẽ cơm nứơc cho mất thì giờ! Bá ăn trước khi đi bụng vẫn còn lưng lửng! Với lại, bá vội lắm. Có việc phải gặp thằng Minh một tí rồi lại về ngay! Nhi tròn mắt nhìn bà: - Anh Minh có còn ở đây nữa đâu! Dọn đi cả mấy tháng rồi bá ạ! Mẹ cháu với cả nhà cháu giữ mãi mà anh ấy chả chịu ở lại! Bà Truyền suýt đánh rơi cái quạt. Bà lo âu hỏi: - Thế cháu có biết bây giờ nó ở đâu không? Thấy bà quá lo lắng, Nhi vội cười trấn an: - Có chứ bá! Cháu biết!...Thôi thế này bá ạ. Nhẽ ra cháu phải dọn cơm mời bá xơi đã. Nhưng bá bảo là bá vội, thì cháu đưa bá lại nhà anh Minh cho đỡ sốt ruột! Bà Truyền thở phào nhẹ nhõm. Bà gượng cười bảo cháu: - Mày nhớn quá rồi! Giá gặp ngoài đường, không khéo bá chẳng nhận ra! Năm nay bao nhiêu rồi hả con? Nhi bẽn lẽn đáp: - Cháu 17 rồi bá ạ! - Thế đã có đám nào chưa? Nhi xấu hổ cúi mặt không đáp. Cô đội nón lên và nói lảng: - Thôi đi, bá! Vừa đi vừa nói chuyện!
Bà Truyền lấy lại một ít quà để lại cho chị em Nhi, rồi xách giỏ theo cô cháu ra đường. - Đến khu Khâm Thiên thì may quá Minh mới ở tòa báo về. Đứng trong khung cửa sổ trên gác trọ nhìn xuống, Minh giật mình nhận ra mẹ mình đang cùng cô em họ chuẩn bị băng ngang đường. Vừa cởi áo ngòai xong, Minh lại vội vàng mặc lại rồi lao xuống cầu thang vừa cài nút. Anh đứng chờ sẵng bên này đường,mẹ vừa sang tới tươi cười hỏ: - Mẹ lên bao giờ đấy? Rồi Minh đở cái giỏ cói cho mẹ, Nhi bỏ nón khẻ cúi đầu: - Em chào anh a! Ít lâu nay chả thấy anh lại chơi. Mẹ em cứ nhắc mãi! - Đúng ra thì cả nhà bà dì, chỉ có Nhi là mong Minh ở lại nhất. Nhi có cái giằng co khổ sở là cô muốn theo tân thời, thay đổi chút ít về trang phục bên ngòai.Nhưng cha mẹ cô quá bảo thủ, lúc nào cũng bắt mặc quần áo màu đậm, hoặc đen hay nâu. Hà Thành đang chuyển mình trong giới phụ nữ, lẻ tẻ đã bắt đầu có những cô bạo dan để răng trắng & mặc quần áo màu sáng, bỏ khăn bịt đầu và đánh phấn Côty. Nhi muốn bắt trước, nhưng cả nhà phản đối chỉ mình Minh công khai ủng hộ. Đôi khi Minh thấy Nhi ngồi lặng lẽ soi gương và u sầu buồn cho sự kiềm chế mà cô phải chịu đựng. Minh chưa kịp đáp thì bà Truyền, gỡ nón cầm tay, vừa thở vừa mắng: - Con dọn nhà sao không cho mẹ biết? Mà tưởng dọn đi đâu, háo ra là đến cái xóm cô đầu này! Chỗ này bao nhiêu người tan nát cửa nhà rồi đấy! Con liệu mà giữ gìn! Bố mà biết con ở đây thì thế nào cũng mắng ầm lên! Minh cười chống chế: - Được cái thuê nhà rả mẹ ạ! Con chưa báo tin về vì đắng nào mẹ lên đây, thì mẹ cũng phải ghé thăm dì Thu, chứ chả lẽ chỉ gặp con rồi về! Nhi chen vào: - Thì em cũng bảo thế! Em mời bá ở lại xơi cơm, nhưng bá cứ nhất định đòi gặp anh ngay! Chắc là bá biểu anh về cưới vợ! Minh cảm động nhìn Nhi gật đầu: - Cám ơn Nhi! Lâu quá không thấy cô lại chơi! Họ hàng ở Hà Nội chả có ai, nên Minh rất bó với gia đình bà dì, nhất là anh đã từng ở trọ mấy năm, ăn ngủ, giỡn đùa với mấy em. Chính vì vậy từ khi Minh dọn đến căn gác mới này, một đôi lần Nhi và mấy đứa em nhỏ có kéo lại chơi, nhân tiện dọn dẹp nhà cửa cho Minh. Cũng có hôm Nhi bất ngờ mang thức ăn đến cho Minh. Niêu cá kho, hoặc món dừa khô kho thịt. Những thứ mà Minh rất thích lúc còn ở trọ nhà Nhi. Hôm nay Nhi cũng muốn nán lại, nhưng biết bà Truyền kín đáo muốn nói chuyện với Minh, nên cô vội vã cáo từ: - Cháu về trước bá nhé! Chốc nữa mời bác với anh Minh lại nhà cháu xơi cơm! Giờ này chắc mẹ cháu về rồi đấy! Bà Truyền lắc đầu: - Để khi khác cháu ạ! Cháu về nói với mẹ cháu là bá vội lắm. Nói chuyện với anh Minh một tí rồi bác lại về ngay! Bá gởi lời tăhm mẹ cháu và cả nhà! Nhi đi rồi bà Truyền theo con trai len gác. Bà lay hết quà trên giỏ ra đặt trên bàn cho con. Quà nhà quê thì cũng chỉ có vài quả ổi, quả bưởi chín cây cùng chục bánh rợm, bột gạo nếp nhân đường, bà đặt người ta gói tối hôm qua. Minh khép cửa, cài then rồi quay lại, lo lắng hỏi ngay: - Mẹ lên đột ngột thế này chắc nhà có chuyện gì, phải không mẹ?
Minh sợ bố mình lâm bệnh bất ngờ. Nhưng bà Truyền ngồi xuống giường, phe phẩy nón lá và lắc đầu. Minh vội vàng cầm tờ báo quạt cho mẹ. Bà Truyền mặt u sầu nói: - Có việc gì đâu! Cả nhà vẫn khỏe mạnh cả! Mẹ lên là vì cậu Tân, con bác Lương, mới mất. Chôn ba hôm rồi! Minh ngắt lời: - Việc này thì con biết! Bà Truyền xua tay: - Cậu ấy đang đi học, bỏ ngang đi đâu biệt tích. Nửa năm sau mò về, người xanh như tàu lá chuối. Chết vì sốt rét ngã nước! Minh lại gật đầu lặp lại: - Vâng. Con biết! Bà Truyền thở dài nhìn con nặng trĩu ưu tư: - Từ ngày con bị bắt, lão lý Bân được chỉ thị của Huyện là phải để mắt theo dõi vì sợ con theo hội kín đấy. May mà có chú Phúc làm phó lý, che chở cho con, nên làng xã người ta mới để yên cho con tới giờ. Cậu Tân nhà bác Lương thì ai cũng quả quyết là chốn theo hội kín chống Tây, sang Tàu hoạt động rồi bị ngã nước rồi mới trở về. Tối hôm qua, chú Phúc sang chơi, ngồi nói chuyện với bố mẹ gần đến nửa đêm rồi mới về. Chứ cứ nhắc đi nhắc lại mãi là con phải cẩn thận. Chớ có nhẹ dạ nghe theo lời bạn bè rủ rê. Chú Phúc bảo, công văn trên Huyện, trên tỉnh gởi xuống hàng loạt, báo động là hiện giờ đang có hai hội kín đang tuyên truyền mạnh là Cộng Sản và Quốc Dân Đảng. Cả hai đều nguy hiểm như nhau. Chú Phúc bảo mẹ là bên làng Cốc, mật thám mới ập vào bắt nguyên một đám thanh niên giữa tiệc đám hỏi. Nghe bảo là Quốc Dân Đảng giả vờ làm đám hỏi để hợp hành, che mắt mật thám, nhưng có đứa bên trong tố giác. Chú Phúc giục mẹ lên nói với con, bảo con bớt giao du với người lạ. Viết báo thì pahỉ đắn đo, đừng có dính dáng gì đến chuyện thời cuộc. Bút sa gà chết, lúc nào cũng pahỉ cẩn thận từng li từng tí. Nếu tìm được việc gì káhc thì bỏ hặn, đừng viết báo nữa thì càng tốt!
Nói xong những điều mà bà Truyền đã nhẵm suốt quãng đường, bà Truyền kết luận: - Bố mẹ nhịn ăn nhịn tiêu cho con đi học, mong con thành tài để đỡ đần bố mẹ lúc tuổi già. Nhưng con trót dạy làm càng để cho người ta đuổi, khiến việc học bị dở dang. Bây giờ làm lại cũng chưa muộn. Thời buổi nhiễu nhương, yên phận thủ thường sống cho qua ngày, đừng để bố mẹ nhìn con bị bắt một lần nữa. Mà lần này thì chắc chắn không ai van xin cho con được nữa đâu! Minh cảm động vì sự lo toan của mẹ mình, lội bộ từ sáng lên đây chỉ để dặn dò đôi lời. Mà bà nói đúng: Ông ký giả Pháp ngày ấy vào tù lãnh Minh ra, bây giờ đã trở lại lèm vệic luôn tại Paris, viết cho tờ Action Francaise. Ông vẫn theo quan điểm cấp tiến, nhưng xa xôi vạn dặm, có chuyện gì liên quan đến Minh, ông không thể can thiệp được nữa! Minh cười trấn an mẹ: - Xin mẹ cứ yên lòng. Con lớn rồi. Con biết giữ thân! Nhờ mẹ thưa lại với bố với chú Phúc là lúc nào con cũng cẫn thận! Rồi anh đổi ngay đề tài, hỏi mẹ: - Tối nay mẹ ngủ lại đây với con, sáng mai hẵn về? Bà Truyền cầm nón đứng dậy: - Không! Mẹ về ngay bây giờ. Ở nhà trăm công ngàn việc... Rồi bà nghiêm trang nhắc lại những lời dặn dò một lần nữa trước khi bước xuống thang gác, đi bộ ra ngoại ô. Bà dự trù về đến Hải Ninh thì trời cũng vừa tối. Bà Truyền về rồi, đêm ấy Minh trăn trở không ngủ được vì giằng co phấn đấu. Thương cha mẹ nặng trĩu trong lòng, nhưng không thể vì tình riêng mà bỏ dở con đường riêng đang theo đuổi. Anh nhớ lời đảng trửơng Nguyễn Thái Học đã nói: - Nếu ai cũng nặng tình riêng, không dám xã thân vì đại nghĩa, thì giặc Pháp muôn đời vẫn cai trị nước ta!
Một ngày cuối năm 1928, ủy viên Thành Bộ Hà Nội Nguyễn Văn Viên, đến gác trọ của Minh ở Khâm Thiên để nhờ anh khảo tờ truyền đơn kể tội thực dân nhân ngày kỷ niệm một năm Quốc Dân Đảng ra đời. Trong cuộc sống hàng ngày thì Viên là nhân viên bán hàng cho một hãng buôn lớn của Pháp. Về sinh hoạt đoàn thể thì Viên phụ trách các chi đoàn công nhân Việt Nam làm việc trong các xí nghiệp hoặc công ty của Pháp Minh cũng là một Ủy viên Thành bộ, nhưng không giữ chức bởi anh cần chồ đứng độc lập đề dễ hoạt động trong giới báo chí. Hôm ấy, đến nhà Minh thấy xấp bản thảo viết dở đặt trên bàn ,Viên tò mò mở ra xem rồi máu nóng cứ bừng bừng bốc lên .Một phần vì uất hận ,một phần vì muốn gây tiếng vang cho Đảng ,Viên nghiến răng bảo Minh . - Phải giết thằng René Bazin ! Giết nó thì mới trừ được mối họa cho đồng bào và cũng để cảnh cáo những tên mộ phu khác ! Minh đang ngồi xổm trên sàn nhà pha trà mời khách. Bản chất Minh là một thanh niên khí phách, ngang tàng, nhưng khi gia nhập Quốc Dân Đảng, anh tự khép mình vào kỷ luật đoàn thể, nên anh ngước lên bảo: - Muốn làm gì thì cũng phải hợp Thành Bộ để thống nhất ý kiến, rồi xin lệnh Tổng Bộ! Viên đáp: - Đã đành là thế. Nhưng giết thằng Bazin thì ai chả đồng ý! Rồi Viên quăng xấp giấy trên mặt bàn, hăm hở xuống thang gác, không kịp uống nước trà. Minh ngạc nhiên nói với theo: - Ô hay! Đi đâu mà cuống lên thế! Ngồi chưa nóng đít đã chạy là thế nào? Việc gì thì cũng phải cân nhắc, đừng có hấp tấp! Minh chưa dứt câu, Viên đã ra tới lề đường. Về Thành Bộ, Viên tiến hành hội ý ngay. Đa số các đồng chí đều tán thành cả. Đặc biệt là các chi đoàn công nhân thì ai cũng hối thúc Viên phải thanh toán Bazin. Viên hăm hở chạy lại Khách Sạn Việt Nam, cơ sở kinh tài công khai của Đảng ở phố Hàng Bông mới khai trương hôm 30 tháng 9. Đảng trưởng Nguyễn Thái Học và một số ủy viên trung ương đang có mặt tại đây. Viên xin gặp và tha thiết đề nghị trừng trị Bazin. Đảng trưởng Nguyễn Thái Học vốn có giao tình khá thân với Nguyễn Văn Viên vì trước khi Việt Nam Quốc Dân Đảng chính thức thành hình, thì nhóm thanh niên yêu nước chung quanh Nguyễn Thái Học đã cùng nhau bí mật cho ra đời một tổ chức bí mật chống Pháp lấy tên là: " Chi Bộ Nam Đồng Thư Xã " hồi cuối tháng 10 năm 1927. Chi Bộ Nam Đồng Thư Xã chính là tiền Tổng Bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng sau này. Nguyễn Văn Viên cũng có mặt trong Chi Bộ đó. Hai tháng sau, khi Chi Bộ Nam Đồng biến thành Tổng Bộ Quốc Dân Đảng thì Nguyễn Văn Viên mới nhận nhiệm vụ mới thuộc Thành Bộ Hà Nội, phụ trách vận động các tầng lớp công nhân.
Nghe Viên trình bày ý nguyện của mình và của đông đảo công nhân trong các nhà máy đòi trừng trị Bazin, đảng trưởng Nguyễn Thái Học và các ủy viên Tổng Bộ dứt khoác gạt đi ngay. Giết Bazin này sẽ có Bazin khác. Huống chi Việt Nam Quốc Dân Đảng đang trong thời kỳ hoạt động bí mật, không nên vọng động, gây sự chú ý cho mật thám Pháp. Nguyễn Thái Học nhắc lại bài học Nguyễn Khắc Cần của Việt Nam Quang Phục Hội 15 năm về trước mà các đồng chí dưới Thành Bộ như Viên có thể không còn nhớ. Đó là ngày 26 tháng 4 năm 1913, ở khu phố Tràng Tiền xa hoa vốn chỉ để cho Tây Đầm cư ngụ, thực khách đông đảo da số là lính Pháp, đang ăn uống trong nhà hàng thuộc khách sạn Con Gà Vàng (Coq d`Or), thì Nguyễn Khắc Cần, một đảng viên Việt Nam Phục Hội, quăng một trái tạc đạn vào đám lính viễn chinh ấy. Quả đạn chỉ giết được hai tên Pháp và một người Việt, nhưng mật thám Pháp bắt nhốt 254 người bị tình nghi, trong đó có Nguyễn Khắc Cần và sáu người nữa bị xử tử hình, kéo theo hàng loạt án tù giam và biệt xứ khác. Nhắc lại kinh nghiệm cũ Nguyễn Thái Học bảo Viên: - Mỗi năm, thực dân Pháp khai thác cao su ở nước ta, thu lợi cho chúng gần 310 triệu Phật lăng, mà tiền lương chúng trả cho công nhân chưa đầy 40 triệu! Tội bóc lột không chối cãi vào đâu được! Giết Bazin là đúng! Tuy nhiên, hiện nay đa số các đồng chí trong các cấp lãnh đạo của Đảng, đều nằm trong sổ bìa đen của mật thám Pháp. Chúng chỉ chờ cơ hội là ra tay bắt. Nay nếu ta vội giết Bazin thì sẽ tạo cớ cho thực dân Pháp khủng bố toàn diện. Vậy khuyên các đồng chí bình tâm để ra sức lo việc lớn. Bazin chẳng qua chỉ là một cành cây. Hễ cây đổ thì cành sẽ đổ theo! Viên thất vọng chẳng biết nói sao, đứng sớ rớ một chút rồi chào từ giã. Đứng bên đảng trưởng Nguyễn Thái Học là ủy viên Hoàng Văn Đào, trước đây phụ trách vận động ở Thanh Hóa, mới được mời về tăng cường cấp trung ương. Anh nghiêm nghị nhắc Viên: - Đó là lệnh Tổng Bộ. Đồng chí cần chấp hành! Viên vâng dạ rồi lầm lũi trở về. Lệnh của đảng trưởng rõ ràng như thế, nhưng Viên lại tự vạch cho mình một hướng đi khác, nhất là xung quanh anh có khá đông đồng chí giục anh ra tay. Anh phải giết Bazin để đồgn bào và đồng chí tin tưởng vào sức mạnh của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Anh tự trấn an mình rằng anh hành động là vì Đảng chứ không phải vì cá nhân anh. Trong tâhm sâu, Viên cũng có chút "cạnh tranh" với Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội lúc này cũng tung cán bộ đi khắp nơi để vận động quần chúng. Cũng giống như quan điểm của Tổng Bộ, Viên không thù ghét Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội. Nhưng Viên thấy cần phải làm một cái gì nổi đình nổi đám để nâng cao uy tín của Quốc Dân Đảng. Ám sát toàn quyền Pie`rre Pasquier hoặc tổng giám đốc Nha Liêm Phóng Đông Dương Louis Martin thì vừa khó vừa phải chờ thời gian thuận tiện. Năm 1924, Phạm Hồng Thái đã từng quyết tâm giết toàn quyền Matial Henry Merlin tại Quảng Châu mà việc không thành, phải trầm mình tự tử. Suy đi nghĩ lại thì Viên chỉ thấy tên mộ phu Rene Bazin là dễ trừng trị hơn cả! Giết hắn, sức mạnh của Quốc Dân Đảng sẽ tăng gấp bội! Vì tin chắc như thế, cho nên dù đảng Nguyễn Thái Học không tán thành, Nguyễn Văn Viên vẫn cứ nhất định lặng lẽ tiến hành. Từ hôm ấy, Minh không gặp lại Viên. Dòng đời lặng lẽ trôi, Minh cắm đầu viết lách trên căn gác nhỏ, dùng bút mực để phcụ vụ lý tưởng theo hướng đi của Đảng đã vạch ra, đồng thời cũng đễ có chút tiền độ nhật.
Một chiều tối cuối năm âm lịch Mậu Thìn, nhưng đã sang đầu tháng 2 dương lịch 1929, chỉ còn chưa đến mười ngày nữa là Tết, Minh ở tòa báo về, tạt vào quán nhỏ bên kia đường mua một gói thuốc Bastos vì anh vừa lãnh được món tiền nhuận bút mà chủ báo thiếu anh từ giữa năm. Nợ nần gì thì năm hết Tết đến người ta cũng cố thanh toán để khỏi mang theo cái xui sang năm mới. Minh kẹp tờ báo vào nách, bóc gói thuốc, vỗ ra một điếu gắn lên môi. Bên cạnh anh,xát góc cây bàng, có quầy nhỏ của ông thợ sửa mũ mà Minh quen biết đã nữa năm nay. Minh quay lại, khom người mời ông điếu thuốc, đồng thời tặng ông tờ báo cuối năm. Ông đưa cả hai tay đỡ lấy và nói theo thói quen: - Thầy cho tôi xin! Mời thầy ngồi choi, uống cốc nước chè! Minh gật đầu đáp: - Vâng. Tôi lên buồng một tí rồi xuống ngay! Minh băng qua đường, đẩy cành cửa nhỏ, lên gác, cất bớt tiền dưới đáy gương. Căn gác đìu hiu quạnh quẽ, quanh năm không dọn dẹp, lúc nào cũng ngổn ngang sách báo, từ mặt bàn, từ trên giường đến sàn gỗ ẩm. Minh đứng nhìn quanh một chút, tự hẹn sẽ dành một buổi quét dọn trước khi Tết đến. Rồi anh trở xuống, qua ngồi nói chuyện với ông thợ sửa mũ dưới gốc cây có tàn lá thấp bốn mùa che nắng. Còn nhớ dạo mới dọn về khu phố này, ngày ngày từ trên gác trọ xách cặp ra cửa, Minh vẫn thấy ông thợ sửa mũ gật đầu chào anh bằng một cân thân tình: - Thầy đi làm ạ! Lúc đầu Minh không để ý chỉ xãgiao chào lại. Người có chữ nghĩa, làm việc văn phòng như Minh thời ấy rất hiếm, nên được xã hội trọng vọng gọi bằng "thầy", như "thầy thông", "thầy ký" v.v... Ngày ngày đứng trong cửa sổ căn gác ngó xuống đường, dù muốn dù không, Minh cũng phải nhìn ông ta ngồi trên chiếc ghế gỗ bên cạnh cái mũ len, nỉ, những chiếc nón cói màu trắng hoặc bọc vải kaki vàng nhạt khách đem tới sửa. Tuổi khoảng 40, mặt mũi khắc khổ, nước da xạm đen. Dáng người gầy gò và lưng hơi khòm có lẽ lao động vất vả từ nhỏ. Toàn thân ông chỉ được vầng trán khá cao và ánh mắt toát ra vẻ thông minh, tư lự. Bạn hàng xung quanh gọi ông là ông Sửu. Trẻ con thì kêu thẳng ông là Sửu què. Nghề sửa mũ của ông Sửu chắc không khá, bởi khách hàng vào ra thưa thớt. Huống chi ông bị tật ở một chân, bước đi khập khiễng khó khăn. Một người tầm thường như thế đáng lý ra thì chỉ là một bóng mờ như bao người khác giữa phố phường, chẳng bao giờ được Minh chú ý. Nét đáng yêu duy nhất Minh thấy ở ông chỉ vì một lý do đơn giản là ông nói năn lễ phép. khác hẳn những người lao động chân tay mà Minh thường hay tiếp xúc, lúc nào cũng lạnh nhạt với Minh. Một hôm Minh ghé quầy thuốc lá ngay bên cạnh quầy mũ của ông Sửu. Minh giật mình kinh ngạc thấy ông chăm chú đọc cuốn sách viết về tư tưởng Mạc Hữu Vy và Lương Khải Siêu do Nam Đồng Thư Xã ấn hành. Thời bấy giờ, người biết chữ còn rất hiếm, nhất là trong giới thợ thuyền. Huống chi loại sách này khô khan khó nuốt, khó nuốt, không phải để giải trí. Minh tiến lại gần và ngỏ lời làm quen: - Ông đọc sách gì đấy? Xem xong cho tôi mựơn xem được không? Ông Sửu vội buông cuốn sách, đứng dậy, niềm nở gật đầu chào Minh: - Chào thầy, quyển này thì thầy còn lạ gì nữa mà phải mượn!...Thèm đọc báo mà chả có tiền mua, thành ra hễ khi nào vắng khách, tôi lại lôi quyển này ra xem! Mấy chục bện rồi đấy. Nhưng càng đọc càng thấy hay, thầy ạ! Minh thân tình ngồi xuống chiếc ghế đẩu xát gốc cây, mời ông điếu thuốc và bảo: - Ông thích đọc báo thì thỉnh thoảng tôi biếu ông một tờ. Ông Sửu xuýt xoa đáp: - Thầy có lòng như thế thì thật là quý hóa quá! Tôi nghe đồn thầy viết cả báo tiếng Tây! Minh hân hoan đáp: - Vâng, Nhưng thỉnh thoảng thôi! Ông có thích xem thì tôi biếu ông luôn! - Thầy cho thứ nào, tôi cũng quý cả! Thế là từ hôm ấy, Minh hay ra ngồi đàm đạo với ông Sửu. Sống thui thủi một mình, có thêm người bạn để hàn huyên cũng tốt. Hai người ngồi hút thuốc Bastos, uống trà mạn sen, nói đủ thứ chuyện nắng mưa, nhưng đôi bên cùng né tránh những đề tài quốc cấm bởi chưa ai tin ai cho tới hôm nay, sau nửa năm dè dặt, hai người đã khá thân nhau. Minh từ căn gác nhỏ chạy xuống, băng qua đường. Ông Sửu vội kéo ghế mời Minh ngồi rồi chuẩn bị gót trà trong bình htủy ra hai cái cốc như thường lệ. Nhưng Minh ngăn laại và vui vẻ bảo: - Không! Hôm nay phải uống rượu ông Sửu ạ! Chè thì ngày nào chả uống! Tòa báo vừa cho lĩnh lương cuối năm!Mình tống rượu nghinh tân một hồi cho thỏa thích. Ông muốn nhắm rượu với thứ gì thì cứ tùy thích! Tôi đãi!