Cả phòng họp cùng hướng mắt nhìn Đoan tội nghiệp . Tội nghiệp nhưng không ngạc nhiên vì ai cũng biết Đoan . Làng này , người ta vẫn còn giữ được tục tảo hôn , tuy không đông lắm . Không đông lắm bởi vì thật ra Hải Ninh cũng ít gia đình giàu . Hai năm trước , Đoan 19 tuổi , bị cha mẹ gả cho thằng Tý 13 tuổi để về làm ruộng và nuôi đàn lợn cho bố mẹ Tý vốn là gia đình khá giả nhất nhì trong làng . Thanh niên ở Hải Ninh nhìn Đoan tiếc hùi hụi vì nhan sắc đang độ trăng tròn mà đêm đêm để cho thằng bé con nó dày vò . Buồn vì duyên phận , lại xấu hổ với bạn bè và nhất là ngượng ngùng mỗi khi gặp trai làng chọc ghẹo . Đoan muốn mượn chuyến công tác này để giải phóng cho chính mình , không cần biết tương lai sẽ ra sao . Tâm trạng cô cũng giống như Nhu , mỗi người một nỗi khổ . Nhu muốn dứt thằng chồng say rượu , thì Đoan cũng muốn bỏ đi thằng chồng con nít ! Ở với chồng say rượu , có ngày không vỡ đầu cũng gãy xương , với thằng chồng con nít , thì tuy không bị đánh , nhưng vài ba năm nữa nó trưởng thành thì mình quá lứa . Chừng ấy Đoan sẽ nuốt hận mà nhìn nó đi cưới vợ lẽ ! Hậu nhớ lại một hôm Đoan đang học thêu và đánh vần chữ quốc ngữ ở nhà Hậu thì thằng Tý , chồng Đoan , đứng thập thò ngoài cửa rồi vẫy tay gọi lớn : - Nhà ơi ! Về u bảo ! Cả lớp ai cũng nhìn Đoan rồi lại nhìn thằng Tý . Đoan nói cứng : - Chốc nữa về ! - U bảo về ngay thái cám lợn ! Đoan trừng mắt nạt lại : - Về trước đi ! Đang giở tay ! Lợn mới cho ăn lúc nãy ! Về đi ! Khổ cho Đoan là lấy chồng con nít khó xưng hô quá nên cứ nói trống không như vậy . Thằng Tý lại giục : - Nhà không về thì tớ không về . Tớ cứ đứng đây ! U dặn thế ! Bực mình quá , lại sợ làm mất thì giờ của cả lớp , Đoan đành phải buông kim chỉ đứng dậy , đi nhanh ra ngoài . Thằng Tý lẽo đẽo chạy theo ra cổng . Trong lớp có tiếng bình phẩm chế giễu vọng ra : - Cu Tý năm nay nhớn lắm rồi ! Đứng đã đến … ngực cái Đoan . Không còn phải kiễng (nhón) chân nữa ! Cả lớp cùng cười vang , nhưng cùng thương cảm cho hoàn cảnh của Đoan . Trông người lại nghĩ đến ta .Có nhiều cô tự hỏi : - Đẹp như cái Đoan mà nhân duyên còn chả ra gì , huống chi là mình ! Bây giờ nhìn Đoan đứng ủ rũ trước mặt , Hậu bùi ngùi nói : - Chị ngồi xuống đi , chị Đoan . Tôi biết rõ hoàn cảnh của chị , tòan thể chi bộ đều biết rõ hoàn cảnh của chị . Nhưng như tôi vừa nói , lần đầu tiên tỉnh bộ chiếu cố đến Hải Ninh . Tôi phải đi đầu . Rồi lần lượt sẽ đến các chị . Chi bộ biểu dương tinh thần của chị Đoan chũng như chị Nhu . Nhưng đề nghị các chị chờ thêm một thời gian nữa . Chắc không lâu đâu !
Đoan thất vọng ngồi xuống , tựa đầu vào vách , ánh mắt long lanh như sắp khóc . Duyên ghé tai nói thầm vài câu an ủi , nhưng Đoan chỉ lắc đầu . Nhu lại đứng dậy . Nhưng lần này không phải để tranh giành với Hậu mà muốn thay mặt tất cả các đồng chí trong chi bộ , nói vài lời cám ơn và tiển đưa . Hậu quay mặt đi để không ai nhìn thấy cô đang nghẹn ngào . Duyên nhìn chị xúc động quá , nhưng không dám khóc lớn . Vài người bên cạnh cũng lấy khăn tay ra thấm nước mắt . Hậu vội mĩm cười nói : - Được nhận công tác là điều vinh dự chung cho cả chi bộ , sao các chị lại khóc ? Phải cứng rắn lên chứ ! Rồi Hậu lập lại câu nói của Trần Khải : - Cách mệnh vô sản là phải thoát ly . Không dám thoát ly tức là vẫn vướng mắc tình cảm tiểu tư sản ! Buổi họp tiếp tục , Duyên được chọn làm bí thư thay cho chị . Duyên không muốn nhận , nhưng toàn thể chi bộ cứ nài ép mãi , cô đành phải đảm trách nhiệm vụ đó . Hậu nói : - Chi bộ cần phải phát triển thêm . Anh Trần Khải đã nhiều lần gợi ý là chúng ta nên xây dựng những tổ tương tế , chẳng hạn như lập “Hội tương tế nông dân” để lôi kéo quần chúng về với chúng ta . Cái khó khăn của chúng ta từ trước đến nay là , chi bộ chỉ gồm toàn phụ nữ , không quan hệ được với đàn ông vì sợ mang tiếng . Tất cả mọi cái đầu đều đều gật để tỏ sự đồng ý với nhận xét của Hậu . Cô tiếp ngay : - Anh Trần Khải bảo : Nếu chi bộ Hải Ninh chỉ gồm toàn phụ nữ thì phải gọi là Hội Phụ nữ tương tế chứ làm sao mà xứng với têm một chi bộ thanh niên cách mệnh đồng chí hội được ! Phải cả nam lẫn nữ , nhất là có những công tác mà chị em phụ nữ chúng mình không thể làm được ! Những đều Hậu nói ra , ai cũng biết cả . Nhưng cái trở ngại lớn lao nhất là ai dám làm quen với nam giới để tuyên truyền cách mạng cho họ ! Thời này , phụ nữ gặp riêng một người đàn ông không phải họ hàng ruột thịt , là đã coi như thành phần lẳng lơ , đáng bị gọt đầu bôi vôi rồi ! Huống chi lại còn phải gần gũi nhiều lần , mới hy vọng có thể thuyết phục được người ta đi theo hướng của mình . Nghĩ thế nhưng chả cô nào muốn phát biểu , bởi trước giờ chia tay , họ cần gát lại mọi chuyện để suy nghĩ về chuyến đi của Hậu . Thấy không ai giơ tay nêu đề nghị , Hậu đành tiếp : - Hướng giải quyết của chúng ta là chúng ta sẽ móc nối một thanh niên người trong họ của mình . Anh , em , chú , bác gì đấy . Rồi ta động viên người đó , giao cho công việc móc nối những thanh niên khác ! Duyên vẫn ưu tư về nhiệm vụ mới . Cô ghé tai chị nói nhỏ : - Anh Tân vừa mất . Bây giờ chị lại ra đi . Bố mẹ kể như mất hai người con . Nếu em nắm bí thư chi bộ , bất thần có thể lại phải đi xa , thì lấy ai gần gũi bên cạnh bố mẹ ? Hậu dứt khoát gat đi : - Đã theo cách mạng thì phải biết trước rồi sẽ có ngày thoát ly ! Thế là Hậu cứ bàn giao công tác cho em rồi nói với mọi người : - Trước khi tạm biệt các chị em, tôi chỉ xin nhắc lại nguyên tắc hệ trọng nhất của chúng ta là tuyệt đối giữ bí mật . Trong phòng này có 6 người . Tôi đi , chỉ có 6 người biết . Bố mẹ tôi cũng không biết . Nếu mai kia lộ ra tức là 6 người chúng ta chịu trách nhiệm trước đoàn thể ! Rồi Hậu tuyên bố giải tán , lần lượt ôm vai từng người , hẹn ngày tái ngộ . Chị em nhỏ lệ bịn rịn , nói lời tiễn đưa chí tình . Nhưng Hậu gạt đi , thẳng thắn giục họ ra về . Đêm hôm ấy , Hậu và Duyên nằm bên nhau , trăn trở không tài nào ngủ được . Hậu cố ngăn giòng lệ , bảo em : - Duyên ơi ! Chị em mình chưa chút đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của bố mẹ . Nay chị lại sắp phải ra đi mà chẳng biết bao giờ trở lại mái nhà này . Chả biết bao giờ mới gặp lại bố mẹ …. Chị cứ nghĩ đến mà thấy náy cả cõi lòng … Duyên úp mặt vào vai Hậu , nức nở : - Chị đừng nói nữa , em òa lên khóc bây giờ ! Bao nhiêu năm nay có chị có em . Bây giờ chị ra đi để lại em một mình … Duyên nấc lên , không nói tiếp được nữa . Hậu cũng khóc tấm tức . Một lúc sau , Duyên nói thêm : - Lẽ ra chị chẳng nên tự nguyện đi chuyến này . Sao không để người khác đi trước ? Anh Tân mới mất . Nỗi buồn ấy chưa nguôi . Nay chị lai đi thì bố mẹ đến héo rụôt mà chết mất !
Hậu cứng rắn đáp : - Chị cũng biết như thế . Nhưng chị là bí thư , lại là người đứng ra thành lập chi bộ này . Nếu chị không tự nguyện đi đầu thì làm sao động viên được người khác chứ ! Hậu nói thế thật ra chỉ mới là một mặt . Còn một nguyên nhân nữa thúc đẩy Hậu ra đi là vì mới đây trong làng có người đến hỏi cưới Hậu . Đó là con trai ông chánh tổng đã mãn nhiệm . Thời này , cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy , Hậu sẽ phải vâng lời cha mẹ về làm dâu cái gia đình mà Hậu cho là cường hào ác bá trong làng . Tháng trước , trong bửa cơm tối có đông đủ cả nhà , bà Lương bảo : - Trưa nay , bà tổng Trương sang chơi , có ý xin mày cho con giai bà ấy ! Vào nhà ấy thì tốt con ạ ! Với bà Lương , đây là một bản tin quí giá vì Hậu đã ngòai 20 , lại đã một lần không thành vì bà Cần định hỏi Hậu cho Tuất rồi bả đổi ý . Lần này thì bà tin chắc con gái bà sẽ gặp lương duyên trong một gia đình có thế lực . Nhưng Hậu im lặng không nói gì . Cô biết bố mẹ mình còn nợ bà tổng khá nhiều tiền và việc gả cô chỉ là cách gán nợ hoặc khất nợ , cho nên cô vừa tủi thân vừa bực mình . Từ khi giác ngộ cách mạng và học tập đấu tranh giai cấp . Hậu đã mất hết cảm tình với người giàu , bất kể là giàu do cần cù chăm chỉ hay bóc lột của người khác . Hậu chưa thù ông bà tổng là may lắm rồi , làm sao có thể chấp nhận về làm dâu nhà đó ! Bởi vậy , Hậu phải ra đi để tránh tình trạng khó xử cho cha mẹ . Im lặng một chút , Hậu bảo Duyên : - Thôi em ở lại , cố gắng an ủi bố mẹ . Em thay chị , phụng dưỡng bố mẹ lúc tuổi già . Dù hoàn cảnh thế nào đi chăng nữa , cũng không được cho bố mẹ và thằng Hoàn biết là chị thoát ly theo cách mạng . Vì nói dại , nhỡ chị có bị bắt thì sẽ liên lụy đến cả nhà . Rồi mai kia có dịp , chị sẽ liên lạc về và tạ tội với bố mẹ ! Nói được bấy nhiêu , Hậu cảm động quá , úp mặt xuống gối khóc nấc lên . Duyên cũng ôm vai chị , chan hòa nước mắt . Một lúc sau , nỗi sầu vơi bớt , Duyên mới ngẫng lên nói - Đành rằng không thể cho bố mẹ biết là chị đã thoát ly theo cách mạng . Nhưng chị đi rồi , bố mẹ hỏi em , em trả lời thế nào ? Hậu đã chuẩn bị sẳn , gạt nước mắt đáp : - Nếu bảo là chị bỏ nhà ra đi , người ta sẽ đồn chị là chị theo giai , nhục nhã cho gia đình mình lắm ! Ấy là chưa kể bố mẹ sẹ lùng kiếm , tốn công tốn sức mà chả có lợi ích gì Chi bằng chị để lại mảnh giấy , nói là chị chán đời tự tử . Chị đã nghĩ kỹ rồi , chỉ có cách ấy mới là hay nhất ! Khi nào thuận tiện , chị sẽ nhắn tin về . Duyên lật úp người nằm sấp , ngóc đầu lên và nhắc lại : - Anh Tân mới mất chưa đầy năm , bố mẹ chưa nguôi nỗi buồn . Nay nếu chị lại báo tin tự tử thì sợ bố mẹ chết mất . Nhất là mẹ ! Bố thì từ ngày anh Tân mất , đổi hẳn tính tình , lắm lúc như người mất hồn . Chị có cách nào khác không ? Hậu thở dài đáp : - Chị cũng biết thế , nhưng chả có cách nào khác . Chị vừa nói rõ với em rồi . Nếu chị bỏ đi không nói gì , một là thiên hạ sẽ đồn chị theo giai . Hai là theo hội kín . Theo giai thì bố mẹ nhục nhã . Theo hội kín thì bố mẹ sẽ bị bắt điều tra . Mật thám cứ nghe đến hội kín là đánh đến gãy xương , chết gục trong tù cũng chưa biết chừng ! Thì cứ xem anh Minh đấy . Anh Minh đi tù đã khổ , mà ở nhà , bác Tuyền có được yên thân đâu ! Hết lý trưởng , trương tuần , lại đến mật thám đến hoạnh họe . Khổ thân ! Bác già rồi mà có hôm trương tuần trói cả chân tay , bỏ nằm lăn dưới đất như con lợn ! … Thôi em ạ ! Đành vậy chớ biết làm sao ! Bố mẹ buồn một thời gian rồi sẽ quên đi ! Duyên yên lặng đồng ý vì chính cô cũng chả nghĩ ra cách nào hay hơn . Duyên ngồi dậy , lôi dưới gầm giường ra chiếc rương gỗ sơn đen đựng quần áo , lần dưới đáy tìm cái túi vải nhỏ do chính tay cô tự may . Cô mở nút bấm , lấy hết tiền đưa cho chị . Chỉ có hơn hai đồng bạc , nhưng Hậu nhất định không nhận . Cô bảo : - Em cứ giữ lấy . Thế nào cũng có lúc phải cần đến ! Chị đi công tác , chắc đoàn thể sẽ lo liệu cho chị ! Hai chị em nằm bên nhau, thức gần đến sáng mới chợp mắt. Gà chưa gáy tiếng thứ nhất, ngoài đường đã có tiếng chân người vác cuốc ra đồng sớm. Hậu chợp mắt được một lúc thì tự động giật mình tỉnh dậy. Quay sang bên cạnh thấy Duyên nằm ngửa, hơi thở đều đặn chứng tỏ Duyên đang say giấc. Bên ngoài trời còn mờ tối, cổng làng chắc chưa mở. Hậu nằm êm thêm một lúc để chờ sáng. Lòng cô tràn ngập những cảm giác hỗn độn, vừa bịn rịn nhớ thương người ở lại, vừa nôn nóng muốn đi ngay vì nghĩa lớn. Cô nghĩ đến Trần Khải vàa hy vọng sẽ gặp lại Trần Khải ở Hà Nội. Chẳng phải vì cô say mê Trần Khải mà vì ít ra cũng có một người quen hướng dẫn ở nơi xa lạ. Với cô, Trần Khải là một hình ảnh cao sang lắm, từng dẫn dắt cô vào con đường cách mạng, cô không dám nghĩ tới chuyện tình cảm riêng tư. Cô chỉ hình dung ra Hà Nội là chốn đô thị sầm uất và cô cần một ngừơi từng trải như Trần Khải chỉ bảo về công tác. Hậu che miệng ngáp rồi từ từ ngồi dậy, tựa lưng vào vách. Bên cạnh Duyên vừa trở mình nằm nghiêng, một chân hơi co lên. Hậu khom người xuống kéo tấm chăn đắp cho Duyên vì cái vái của Duyên co lên cao quá, hở gần tới mông. Rồi Hậu rón rén bước xuống, mò mẵm trong bóng tối, lấy mấy bộ quần áo bỏ vào trong giỏ cói. Cô nhìn lại em gái, căn phòng ngủ nghèo nàn nhưng đằm ắm tình cảm bao nhiêu năm qua. Rồi cô nhẹ nhàng đẩy cửa bước ra sân, men theo lối sân nhà bếp ra con lộ chính, khởi đầu một cuộc hành trình vì lý tưởng. Con đường làng vắng ngắt, mờ mờ hơi sương, im lìm chạy giữa những rặng tre san sát dẫn ra tới cánh đồng. Con đường quen thuộc này, hôm nay in dấu bước chân của Hậu, biết đâu chẳng là lần cuối! Mới đi cách nhà độ vài chục mét thì thấy có bóng người gánh đôi quang gánh từ phía trước tiến lại. Hậu lẻn vội vào một lối nhỏ và núp sau bụi tre đứng chờ vì không muốn ai gặp mặt. Đó là chị Búp chuyên làm nghề xin phân bò. Mỗi sáng sớm, chị gánh hai cái thúng, tạt vào những nhà có nuôi bò, xông vô chuồng và hốt phân mang về để bón ruộng. Đất dai xứ Bắc vốn là đất ngàn năm, trồng trọt từ đời này qua đời khác, chẳng còn chút màu mỡ nào để nuôi cây. Cho nên bắt buộc người ta phải bón phân chuồng! Chờ chị Búp đi khá xa, Hậu mới lại lao ra tiếp tục lộ trình. Ở nhà Duyên cũng choàng dậy lúc mặt trời vừa mọc. biết chị đã đi rồi, Duyên thấy trống vắng lạ thường. Trống vắng trong căn buồng và trống vắng trogn lòng. Ngày anh Tân mất, cô đã có cảm giác hụt chân vì mất đi người hướng dẫn hoạt động. Nhưng cái cảm giác đó không mãnh liệt như hôm nay bởi dù sau anh Tân cũng không gần gũi Duyên như Hậu. Đôi mắt cay nhứt vì thiếu ngủ, Duyên ra dàn nước rửa mặt và hình dung ra chiều nay, khi cha mẹ cô biết tin Hậu đã vắng nhà. Vừa xúc miệng cô vừa quay nhìn lên nhà trên. Cô thấy ông Lương đã dậy từ lâu, đang ngồi hút thuốc lào ở gian giữa.Cô thở dài buồn bã, vào bếp đun nước pha tràcho bo rồi lấy cuốc ra đồng như thường lệ.
Cả ngày làm việc uể oải trên cánh đồng ngô, có lúc Duyên hoảng hốt tưởng tượng ra Hậu ra đi rồi sẽ không trở lại giống như anh Tân trước đây. Anh Tân nhận công tác lần đầu, đã ra người thiên cổ. Biết đâu nhà Duyên lại sắp đón nhận thêm một đám tang nữa! Buổi chiều mặt trời xuống chênh chếch sau cây đa, Duyên đã ra về. Bà Lương đã nấu cơm xong đang dọn ra hiên nhà. Nhà này vẫn có thói quen ăn tối ngoài hiên nhà cho nó mát và đỡ muỗi. Cả nhà ngồi quay quanh cái mâm đồng đặt trên chiếc chiếu cũ, bà Lương quay sang hỏi Duyên: - Cái Hậu nó đâu? Sao giờ này chưa về? Ông Lương bưng bát cơm, hững hờ nhìn ra cổng. Từ ngày Tân mất ông thay đổi tính nết rất nhiều. Xưa kia ông hay bẳn gắt, hơi một tí là đánh mắn các con. Tân chết rồi ông như người mất hồn, cạy mồm không thèm nói. Nhiều hôm Hậu lên tỉnh hoặc ghé nhà bạn bè đến khuya mới về, tưởng thế nào ông cũng nổi trận lôi đình, hóa ra về, ông cứ ngồi yên, chả có phản ứng gì, làm như không nôm thấy. Riêng bà Lương, gần đây thì cũng đã quen với việc về trễ của Hậu, bởi bà biết từ ngày mở lớp cắt may, Hậu giao tiếp rất đông bạn bè trong xóm. Nhưng hôm nay bà cần gặp Hậu vì trưa nay bà tổng Trương lại sang để nhắc lại việc hỏi Hậu cho con giai bà. Với bà Lương thì chỗ ấy không nên chần chờ làm lỡ cơ hội. Bà quay sang Duyên, nhắc lại: - Sáng nay nó có đi làm chung với mày không? Duyên đáp: - Không mẹ ạ. Lúc con đi, chị con còn chưa dậy! Bà Lương bực mình nói: - Thế là cả ngày hôm nay nó đi đâu? Không ra đồng với mày à? Hay là nó lại gánh đỗ đen ra chợ tỉnh bán? Nó có nói gì với tao đâu! Ông Lương chen vào: - Bà cứ ăn đi. Kệ nó! Nó về, nó ăn sau! Bà Lương chẳng biết nói sao, đành bưng bát cơm lên, uể oải gắp thức ăn. Bà vừa ăn, vừa lóng ngóng trông ra cửa. Cơm nước xong, trời tối dần, vẫn chẳng thấy Hậu về, bà Lương sốt ruột giục Hoàn chạy đi kiếm: - Sang nhà cái Nhâm xem nó có ở bên ấy không?
Bấy giờ Duyên mới vào buồng hốt hoảng chạy lao ra, tay cầm mảnh giấy nhỏ và đọc cho mọi người nghe. Bức thư di ngôn của Hậu chỉ có mấy dòng, giã từ bố mẹ và các em. Hoàn giằng mảnh giấy, xem lại một lần nữa: " Khi bố mẹ đọc được lá thư này thì con đã chết rồi! Bố mẹ đừng mất công tìm con nữa. Con năm nay đã hai mươi, làm lụng đầu tắt mặt tối mà chẳng đủ nuôi gia đình, không giả được nợ nần cho bố mẹ. Con thấy con vô dụng, chẳng muốn sống nữa. Con đành cam tội bất hiếu với bố mẹ vậy. Xin bố mẹ tha thứ cho con. Vĩnh biệt bố mẹ và các em. Hậu". Bà Lương nghe xong, ngã lăn xuống đất. Ông Lương thì ngồi lặng thinh trên thềm nhìn ra khoảng sân bóng tối đang phủ dần. Duyên cũng giả vờ khóc rống lên thảm thiết. Thằng Hoàn chạy ra sân hái lá trầu không hơ lửa đánh gió cho mẹ tỉnh lại. Bà Lương vật vã khóc nghẹn từng cơn: - Ối con ôi là con con ôi! Mẹ thương con biết là dường nào! Sao con nỡ bỏ cha bỏ mẹ, bỏ các em con! Hậu ơi! Rồi cứ thế cả tuần lễ kế tiếp, bà lang thang tìm xác con. Lòng bà cực kỳ hối hận vì tưởng rằng Hậu bị bà ép gã cho con ông chánh Tổng nên mới tự tìm cái chết. Ngày ngaỳ, họ hàng thân thích tập trung, chia nhau từng toán đi tìm xác Hậu. Cả mấy cô trong chi bộ cũng rủ nhau kéo đến hỏi thăm Hậu, nhìn Duyên bằng ánh mắt cảm thông, rồi làm bộ lăng xăng tìm xác Hậu. Dọc mé sông, vạch các bụi rậm, nhìn các nhánh cây, khoắng dưới đáy giếng . Chỗ nào cũng xem xét, cũng gọi "ba hồn chín vía" mà chẳng thấy dấu tích của Hậu. Bà Lương ngồi trên bờ đê, nhìn xuống dòng sông mênh mông, nước chảy cuồn cuộn, nức nở kêu: - Con ơi! Con sống khôn thác thiêng, về báo mộng cho mẹ biết xác con ở đâu. Mẹ nỡ lòng nào để con chết bờ chết bụi cho đành! Con ơi là con! Duyên lúc đầu chỉ giả vờ khóc cho mọi người khỏi nghi. Nhưng về sau thấy bà Lương sướt mướt quá thì chính cô cũng mũi lòng khóc theo và khóc thật tình như Hậu đã chết rồi! Cả mấy cô trong chi bộ đến nhà Duyên như Nhâm, Đoan và Nhu cũng cùng một tâm trạng như Duyên, ai cũng sụt sùi nước mắt bởi khóc là một căn bệnh hay lây. Bà Lương cứ lúc mê lúc tỉnh, bỏ ăn bỏ ngủ, đêm hôm thơ thẩn nói nhảm một mình ngoài sân. Duyên bức rức chụi không nổi trước cảnh chết đi sống lại vật vờ của bà Lương, nhất là mỗi khi khóc thương Hậu, bà lại nhắc luôn đến cả Tân. Mấy lần Duyên đả toan nói thật với mẹ là Hậu còn sống. Nhưng Duyên cố gắng phấn đấu để giữ nguyên bí mật của tổ chức. Huống chi ở cương vị bí thư chi bộ, cô càng không thể yếu mềm nương theo tình cảm gia đình mà vi phạm lời thề tuyệt đối trugn thành với đảng. Nhớ lời Hậu dặn đêm cuối cùng, Duyên chỉ còn cách tìm lời an ủi mẹ để đề phòng bà Lương quẩn trí, tự tìm cái chết theo hai con. Đêm đêm, Duyên sang nằm ngủ chung với bà Lương, trăn trở vì thương mẹ, nhớ chị, có khi thức trắng luôn tới sáng. Bước sang ngày thứ tám, mới sáng thức dậy bà đã bảo Duyên: - Con thay quần áo, đi với mẹ?
Duyên ngơ ngác hỏi lại: - Đi đâu hở mẹ? Vừa hỏi Duyên vừa lo lắng nhớ lại trước đây đã từng theo mẹ xuống tận Hà Nội để dò tin tức của Tân. Nhưng bà Lương đáp ngay: - Cứ đi với mẹ, sang bên kia sông! Duyên chưa biết bà Lương định làm gì bên kia sông, nhưng thấy mẹ tiều tụy quá, cô đành nghe lời, vào buồng thay quần áo rồi cầm nón bước ra. Hai mẹ con rảo bước trên con đường đất ngang qua cánh đồng dẫn đến chân đê. Con đường này, bao năm nay in dấu chân Hậu và Duyên bởi nó là con đường đọc đạo để dân làng ngày ngày ra làm ruộng. Cánh đồng bao la hai bên, đang mùa cuốc vỡ, bao nhiêu người ngừng tay lao động, ngẩn đầu lên nhìn theo hai mẹ con. Họ đều biết cái thảm cảnh vừa xảy ra trong gia đình bà: Hai đứa con theo nhau giã từ dương thế! Họ muốn bỏ cuốc chạy lại chia buồn cùng bà, nhưng ngại khơi dậy vết thương, bắt bà phải khóc thêm mtộ lần nữa. Hai mẹ con đến lưng chừng dốc đê thì trời bỗng nhiên đổ cơn mưa dù không có dấu hiệu báo trước. Vì lúc đi trời quang mây tạnh, nên bà Lương với Hậu chỉ có nón chứ không mang áo tơi. Gió ngược chiều thổi mạnh như hắt vào mặt mà bà Lương thì nóng ruột muốn đi ngay, sợ mất thì giờ. Duyên lo âu bảo mẹ: - Hay là vào trong quán nước, chờ tạnh bớt hẵng đi mẹ ạ! Mẹ đang mệt, con sợ mẹ bị cảm thì khồ! Bà Lương lắc đầu: - Thôi con ạ! Sang bên ấy cho xong việc rồi về! Chịu khó vất vả một tí! Duyên nhíu mày hỏi" - Nhưng việc gì chứ? Việc gì mà mẹ phải sang tận bên kai sông? Bà Lương thở dài đáp: - Mẹ không tìm được xác chị con mà chôn cất cho tử tế, thì mẹ áy náy lắm! Mẹ muốn để nó nằm bên cạnh anh nó! Chưa nói hết câu, bà đã nghẹn ngào như có vật gì chẹn lấy cổ. Duyên nén tiếng thở dài, lặn lẽ theo mẹ lại bến đò. Cô đứng nhìn mặt sông mênh mông mờ mờ dưới làn nước mưa dày đặc. Chờ khá lâu mới có chuyến đò ngang, hai mẹ con leo lên thì toàn thân đã bắt đầu thấm lạnh. Lên bờ bên kia, lại đi một quãng khá xa trên khúc đường lầy lội, mới đến căn nhà nhỏ có treo hình bát quái trước cửa. Bấy giờ, cô mới biết mẹ đi tìm người lên đồng, nhờ họ gọi hồn Hậu về, cho biết xác Hậu đang nằm ở đâu để đem về chôn. Duyên nhìn mẹ xót xa như xát muối trong ruột, nhất là từ ngực bà trở xuống đã ướt đẫm, đang run lên vì nứơc mưa thấm lạnh vào cơ thề. Muốn gọi hồn thì trước hết phải có hồn thì mới gọi hồn về đươc chứ! Hậu còn sống lù lù, đã chết đâu mà gọi hồn! Duyên đưa tay đập cửa và gọi lại một lần nữa: - Có ai trogn nhà không? Làm ơn mở cửa cho chúng tôi vào với! Duyên dứt câu thì cánh cửa hé mở. Một người đàn bà khoảng 40, áo tứ thân, yếm đào, váy lĩnh, vấn tóc trần, cất tiếng hỏi hai mẹ con: - Ở bên kia sông sang đây phải không? Bà Lương giật mình quay sang Duyên như thầm nói: - Cô đồng giỏi quá! Sao cô biết chúng tôi từ bên kia sông? Đối với Duyên thì chẳng có gì đáng phục. Đó chỉ là môt câu đoán mò cầu may mà thôi. Nhìn hai mẹ con ướt đẫm thì đoán là ngồi chuyến đò ngang, chứ khó khăn gì đâu! Hai mẹ con theo gia chủ vào nhà, bỏ nón sát vách, rồi ngồi ké lên mép chõng. Mùi hương tỏa ngào ngạt, cố tình tạo cho căn phòng nhỏ không khí trầm mặc nghiêm trang. Đó là nơi làm ăn của cô đồng Diêu, nồi tiếng khắp tỉnh là có khả năng gọi hồn người chết về để gặp gỡ thân nhân còn trên dương thế. Bình thường, cô đông khách lắm. Đôi khi còn phải đi xa vì nhiều người nhà giàu hoặc quan quyền tại chức sai đầy tớ đến thỉnh cô về tận dinh để hỏi việc. Hôm nay may mắn cô có nhà, lại gặp trời mưa vắng khách nên mới có thì giờ tiếp hai mẹ con bà Lương. Cô ngồi xuống chiếc ghế mây, bên cái bàn vuông trải khăn đỏ. Bà Lương taon cất tiếng nhập đề thì cô phán: - Nhà có người mới chết phải không?
Bà Lương lại càng cảm phục. Bà bấm vào vai Duyên để tỏ ý kinh ngạc. Nhưng Duyên chỉ nén tiếng thở dài. Nhìn mặt bà thảm não thế kai thì ai chả đoán được là nhà có người chết, việc gì phải nhờ tới cô đồng! Bà rươm rướm nước mắt phun ra hết nỗi đau trong lòng để cô đồng cứ theo lời của bà mà nói dựa. Cô ghi ngày sinh tháng đẻ của Hậu, bấm đốt ngón tay, vẽ bùa chú trên mãnh giấy màu đỏ và đặt trong cái đĩa cổ rồi bắt đầu gieo quẻ. Mặt cô bỗng tái đi, đôi mắt lạc thần hướng về cõi xa xăm. Rồi chỉ trong khoảnh khắc cô cất tiếng hát nỉ non nghe rất thê lương: " Thương cha nhớ mẹ sầu bi Đêm ngày lẩn khuất đi về trông nom " Bà Lương khóc ngất đi, lăng ra chiếu vì tội nghiệp con gái nặng lòng hiếu thảo mà trời cướp đi quá sớm! Cô đồng được thể, càng hát não nề hơn: "Không tròn được nghĩa mẹ cha Chưa đền chữ hiếu hồn đà về âm Bây giờ xa lánh cõi trần Xót thương cha mẹ trăm phần đớn đau!" Những bài vè kiểu này, cô đã chế ra từ lâu để dùng trong các trường hợp tương tự. Nó đánh trúng tâm lý của người còn sống, gợi thêm nỗi xót xa vốn đã tràn ngập trong lòng mẹ thương con. Bà Lương sụt sùi một lúc khá lâu rồi mới nhắc lại câu hỏi chính yếu là xác Hậu hiện giờ nằm ở đâu. Câu này cũng dễ trả lời, bởi lúc này bà đã kể mọi hci tiết cho cô đồng nghe rồi: Hậu tự tử. Cả làng đổ đi tìm. Không thấy treo cổ trên cành cây thì chắc hẳn trầm mình dưới nước. Cô phán: - Xác nữ nằm ở chỗ có nước, có cây! Cô nói bâng quơ như thế rồi lập tức đồng thăng! Duyên bực mình lắm, chỉ muốn xông lại vả vào mặt cô đồng vài cái cho hả giận. Nhưng Duyên đành nhịn, đau đớn nhịn mẹ trả tiền cho cô đồng rồi hai mẹ con quay ra cửa. Bên ngoài, mưa đã giảm hẳn, chỉ còn lất phất rơi. Nhưng gió vẫn thổi vù vù trên quãng đường lầy lội dẫn ra bến đò. Xế chiều, hai mẹ con về đến nhà. Duyen đi thẳng vào buồn thay quần áo. Bà Lương thì rẽ lên gian giữa, nơi chồng bà đang ngồi trầm ngâm một mình trên cái điếu bát và bô ấm trà. Bà bỏ nón và than: - Nhà này hết phúc rồi ông ơi! Ông với tôi có làm gì nên tội đâu mà khốn khổ thế này hở giời! Ông Lương nhắc: - Bà đi đâu mà ướt như chuột thế kia? Vào thay quần áo đi, không phải cảm bây giờ. Bà Lương kéo chiếc ghế ngồi đối diện chồng, toan lên tiếng kể về cô đồng Diêu, nhưng ông Lương không thèm chú ý. Ông đứng dậy, bước lại tủ thuốc, lấy ra một cái gói nhỏ đựng trong hủ thủy tinih rồi đưa cho vợ: - Bà uống ngay cái này đi! Uống với nước ấm. Có việc gì mà phải dầm mưa như thế! Rồi bà ốm nằm một chỗ thì sao? Hôm sau, bà Lương lại bắt Lương và thằng Hoàn chít khăn tang, mang mấy bó nhang và đồ cúng ra lập bàn thờ ở mé sông. Duyên nghĩ đến Hậu đang công tác trên Thành bộ mà Duyên đành cứ phải lặng yên cúng váy cứ y như Hậu đang ở dưới âm phủ! Rồi bà lên chùa nhờ thầy lập đàn cầu siêu, suốt một tháng trời tụng kinh, giúp bà cũng khuây khỏa được phần nào. Bà tin rằng con gái bà đa trầm mình xuống sông, bên kia con đê, và sóng nước mênh mông đã đưa xác Hậu trôi dạt không biết tới phương trời nào. Riêng ông Lương thì nghĩ khác. Tuần lễ đầu tiên sau khi Hậu vắng mặt, ông cũng sầu thảm không kém gì vợ. Nhưng rồi ông đặt lại vấn đề. Suy từ Tân ra, ông lờ mờ đoán Hậu không phải tự tử. Con gái ông chắc cũng theo một nhóm kháng chiến nào đó. Tân đang học hành đàng hoàng, có tương lai rực rỡ, mà còn bỏ lên chui rút trong rừng đến nỗi bị ngã nước mà mất mạng. Huống chi con gái ông ít học hơn, tất nhiên càng dễ bị dụ dỗ hơn. Ông nhớ lại những lần Tân về nhà mang theo thằng bạn bí hiểm là Trần Khải. Rồi nhớ lại cái lớp học Hậu và Duyên mở ra để tập trung phụ nữ trong làng. Rồi những sách báo, những khẩu hiệu, những lúc Tân và Hậu thậm thụt nói chuyện riêng với nhau. Như vậy là kết luận Hậu chưa chết. Ông vẫn càn hy vọng. Hậu chỉ bỏ nhà đi mà thôi. Nhưng bỏ đi thì kể như đã chết, cho nên vợ ông lên chùa cúng kiến là phải. Chỉ có một điều là, dù tin chắc Hậu vẫn còn sống, ông vẫn không dám nói với ai kể cả vợ ông. Bởi vì nếu lý trưởng biết con ông theo hội kín làm giặc, thì cả gai đình ông khó sống ở cái làng này. Ông phải dấu kín chuyện ấy. Trước đây, lý trưởng đã từng hỏi ông về Tân, về nhữgn ngày Tân âm thầm bỏ học. Ông phải nói dối con ông nghe theo lời bạn bè, vui thú cô đầu, quên cả học hành. Giờ đây, nhìn vợ khóc, ông cứ để cho khóc, coi như ông cứ tin là Hậu đã qua dời như trong bức thư tuyệt mệnh Hậu để lại. Lý trưởng đã ghé chia buồn với ông, sau khi cái Nhung, con trai lý trưởng,cùng một số học viên lớp đang may cũ, kéo đến giúp bà Lương đi tìm xác Hậu dọc theo ven đê. Ông Lương lúc ấy đã đoán là Hậu vẫn còn sống, nhưng vẫn phải não nuột thở dài bảo lý trưởng: Cảm ơn ông lý có lời hỏi thăm! Thưa thật với ông thời buổi này nhiễu nhương quá, luân thường đạo lý bị đảo ngược hết ả rồi! Chả giấu gì ông, bà tổng Trương cho người đánh tiếng xin cái Hậu nhà tôi là hẵng cứ như thả, vì cháu Tân mới mất, nhà lúc này vắng vẻ quá! Nhưng bà nhà tôi lại sốt ruột vì cái Hậu nó đã ngoài hai mươi... Lý trưởng ngắt lời: - Nghĩa là cô ấy không bằng lòng đám nhà cụ Tổng? Ông Lương chép miệng: - Thế mới khổ chứ lị! Không bằng lòng mà nó không nói, cho nên mới nông nỗi! Lý trưởng nói vài lời phân ưu cho đúng thủ tục rồi hân hoan ra về, không hề có chút ngờ vực nào là Hậu còn sống! Sở dĩ lý trưởng không nghi ngờ hội kín là bởi vì từ trứơc đến nay, ở Hải Ninh chưa hề có một phụ nữ nào dám bỏ nhà ra đi tham gia hoạt động cách mạng chống Pháp. Từ Cần Vương, Đông Du, cho tới những phong trào kháng chiến bạo động nối tiếp nhau, Hải Ninh hầu như không có một đóng góp nào rõ rệt. Con trai thoát ly vốn đã hiếm, huống chi là con gái. Điều đó vượt quá sự tưởng tượng của dân trong làng. Có thể nói Hậu là người thứ nhất mở một trang sử tiên phong cho nữ giới ở Hải Ninh mà đến giờ phút ấy chưa ai nghĩ tới. Ngay cả lý trưởng được chỉ thị theo dõi rất sát những thành phần khả nghi mà cũng không hề mường tượng nổi đến việc thân dặm trường của một cô gái chân yếu tay mềm như Hậu. Ngày Hậu mở lớp dạy đan may và quốc ngữ, ông từng đến xem xét nhiều lần mà không thấy dấu hiệu gì chứng tỏ Hậu liên quan đến hoạt động chính trị. Trước sau, ông vẫn tin rằng Hậu muốn nói nghiệp cha, đứng ra dạy chữ và dạy nghề cho thanh niên trong làng mà thôi. Nay thì ông tin chắc là Hậu đã chọn cái chết vì bị cha mẹ ép gã, đúng như lời ông Lương tự thú. Ông có hỏi thăm cái Nhung thì chính con gái ông cũng nói như ông Lương, cho nên ông lại càng yên trí là cái Hậu không còn trên dương gian này nữa. Như thế ông cũng yên lòng, khỏi bẩm báo lên Huyện lên Tỉnh về sự vắng mặt của Hậu trogn phạm vi ông chịu trách nhiệm kiểm soát. Với ông lúc này, chỉ những thành phần tân học như Tân Như Minh, mới là đối tượng mà ông cần để ý theo đúng khuyến cáo của thượng cấp thường xuyên gởi xuống nhắc nhở. Ngồi nói chuyện với ông Lương, cũng có lúc, lý trưởng tự hỏi: - Hay là nó trốn theo giai? Nhưng ông lại gạt bỏ ngay ý nghĩ ấy vì ông vẫn tin gia phong nhà ông Lương không thể suy đồi như vậy được. Tự tử vì tình đã là khủng khiếp lắm rồi, nói chi đến việc bỏ nhà theo không người thì thật là đốn mạt không bút mực nào tả xiết nỗi! Ông Lương tiễn ông lý ra tận cổng. Lúc chia tay trên con đường làng dưới rặng tre già, ông lý đăm chiêu: - Xưa nay ở Hải Ninh chưa từng xảy ra chuyện tự tử bao giờ, nhất là con gái mới lớn. Âu cũng là sách vở mà ra cả! Ông giáo thử nghĩ lại mà xem, tôi nói có phải không? Tôi áng chừng chỉ vì cái Hậu nhà ông có chữ nghĩa, rồi cứ nhồi nhét mãi dăm ba quyển tiểu thuyết vớ vẩn vào đầu, khiến cho mất hết cương thường, nên mới ra nông nỗi này! Xem thế thì đủ biết, chữ nghĩa thì chẳng có lợi gì cho đàn bà con gái cả! Cha mẹ dặt đâu con ngồi đó. Lễ giáo nghìn đời vẫn thế, chứ làm gì có chuyện con không chịu cha mẹ gã chồng rồi tự tử! Lỗi là tại tiểu thuyết cả. Làm ông giáo mất đứa con! Cái Nhung nhà tôi dạo trước cũng qua đây học chữ quốc ngữ với cái Hậu nhà ông giáo. Nhưng học để cho biết với người ta thôi, chứ sách báo thì tôi cấm ngặt! Tôi mà bắt gặp nó cầm quyền sách là chết ngay với tôi! Ông Lương có cảm tưởng lý trưởng đang mắng mình vì đã quá dễ dãi với con cái. Nhưng lúc này ông không tiện tranh cãi chỉ gật đầu rồi bảo! Cảm ơn ông lý lại chơi! Biết ông nhiều việc tôi chẳng dám giữ! Lý trưởng gật đầu cầm ba-toong quay đi. Hôm sau, ông Lý Nhân qua thăm, ngồi uống trà rồi bày bàn cờ tướng để ông Lương giải khuây. Bà Lương cùng hai con lên chùa, ở nhà chỉ có hai ông gật gù đàm đạo ở gian giữa. Hậu " chết " đã cả tháng nay, mà mãi đến giờ ông Tú mới mò sang với ông Lương thì kề cũng khó hiểu thật! Khác hẳn với ngày Tân nằm xuống, hầu như lúc nào ông cũng có mặt bên cạnh ông Lương, tìm lời khuyên để giúp người bạn tri kỉ của một nhẹ bớt nỗi sầu. Chẳng biết ông Tú có chủ trương trọng nam khinh nữ hay chăng, mà ông lại có thái độ rất dửng dửng khi nhận tin Hậu qua đời. Thậm chí hôm nay đến thăm ông Lương, ông Tú cũng lờ đi, không nhắc gì đến cái chết của Hậu còn đang bao phủ một màu tang ngút trời! Ngồi nhâm nhi tách trà nóng bên cạnh bàn cờ tướng, khá lâu ông Tú mới thản nhiên hỏi: - Ông giáo có ti ntức gì về cái Hậu chưa? Ông Lương giật mình trố mắt nhìn bạn. Nhưng ông vẫn cúi đầu chăm chú vào bàn cờ. Ông Lương hỏi lại: - Ông Tú bảo sao? Cháu nó mất rồi còn đâu! Ông Tú kéo cái điếu bát lại trước mặt, vê một điếu thuốc nhét vào nõ rồi thong thả châm lửa. Ông cầm cái đóm trong tay, hạ giọng bảo ông Lương: - Với người ngoài thì thế. Nhưng với tôi thì ông giáo dấu làm gì! Tôi biết cháu Hậu đang đi theo con đường của anh nó là cậu Tân, chứ có chết chóc gì đâu! Sao ôgn giáo giáo lại giấu tôi! Nghe những lời quả quyết của ông Tú, ông Lương hồi hợp mừng rỡ và tin chắc là con gái ông còn sống. Ông hạ giọng hỏi nhỏ hơn, bảo ông Tú: - Ông Tú với tôi là chỗ thâm giao cố cựu, có điều gò mà tôi giấu ông đâu! Nhưng chính tôi cũng còn đang phân vân, chả biết hư thực thế nào. Tôi cũng mong là cháu còn sống... Ông Tú ngắt lời: - Còn sống! Tôi tin chắc như thế! Cháu Hậu cũng như con gái tôi. Tôi biết cháu từ thuở lọt lòng. Cháu không phải là đứa con gái cưỡng lời cha mẹ đến độ tìm cái chết. Lại càng không phải đứa con gái hư thân mất nết đến nỗi theo giai! Chẳng qua là gần đây, cháu tìm ra cái lý tưởng của cháu, muốn noi theo cậu Tân. Có thế thôi! Ông Lương thở mạnh rồi nói: - Ông Tú nói như vậy quả thật tôi như người chết như được sống dậy! Cả tháng nay, tôi luôn cứ nghĩ, tôi với bà nhà tôi chả nhẽ bạc phúc đến nỗi hai năm mất hai đứa con! Ông Tú rít mtộ hơi thuốc lào thật đầy, ngửa mặt nhả khói rồi bưng tách trà nóng uống cạn. Ông Lương hài lòng nhìn bạn và dặn: - Chỉ xin Tú giữ kín chuyện này hộ tôi. Lão Lý Bân mà biết được thì chả để cho gia đình tôi yên đâu! Ngay ca bà nhà tôi, tôi cũng không dám cho bà ấy biết là cháu Hậu còn sống. Cứ để bà ấy lặn lội đi tìm xác nó thì làng xã người ta mới không nghi! Ông Tú nhớ hộ tôi... Ông Tú gật đầu ngắt lời: - Đành rồi! Chỉ tôi với ông giáo biết với nhau thôi! Từ đó ông Lương vui hẳn lên, chúi đầu vào bàn cờ tướng. Ông Tú chuyển đề tài, nói chuyện nắng mưa một lút rồi lại quay về đề tài của Hậu. Ông bảo: - Cháu Hậu ra đi làm việc nước, muôn vàn vất vả! Chỉ mong sao cho cháu bền chí, đừng bỏ cuộc giữa đường! Ông Lương chớp mắt không nói gì. Im lặng một chút, ông Tú kể : - Thiếu gì người giữa đừơng bỏ cuộc! Nguyễn Bá Trác đậu cử nhânnăm Bính Ngọ lúc 25 tuổi, theo phong trào Duy Tân rồi Đông Du, qua Nhật rồi qua Tàu theo cụ Phan Bội Châu. Trác làm thơ khẩu khí rất hào hùng, khẳng khái. Ấy thế mà bỗng dưng phản bội nghĩa lớn, quay về đầu hàng làm tay sai cho Pháp. Tôi nghe tin giờ này Trác làm tới Tuần phủ Bình Định, chuyên truy lùng và tra tấn những người chống Pháp. Thế mới biết cái bả vinh hoa nó dễ làm siêu lòng người! Ông Lương gật đầu đồng ý nhưng ngồi lặng thinh không lắm đến câu chuyện của ông Tú. Lòng ông đang rộn rã niềm vui vì có thêm một người bạn tâm giao đồng ý với ông làHậu vẫn còn sống.
Hai người đánh với nhau năm ván cờ tướng như thông lệ rồi ông Tú đứng dậycáo từ ra về. Giá cứ như bình thường, thì ông sẽ nán lại nhắm rựơu với ông Lương. Nhưng ông biết tang gia còn đang bối rối, mẹ con bà Lương đâu còn tâm trí đâu mà cơm đãi khách, nên ông đành rút lui, chờ dịp khác thuận tiện hơn. Những ngày kế tiếp không khí trong gia đình ông Lương cũng không mấy gì khá hơn. Vẫn những tiếng thở dài não nuột, những tiếng bật khóc giữa đêm khuya. Chờ vợ hoàn tất mọi thủ tục cúng kiến và cầu siêu cho Hậu, ông Lương mới gọi Duyên ra đầu nhà bảo: - Bố mẹ chỉ có bốn đứa con. Giờ đã mất hai, chỉ còn con và thằng Hoàn. Anh chị con đi theo nghĩa lớn, lo việc nứơc, chẳng may mất đi, bố chỉ tiếc chứ không trách! Nhưng gia đình nhà ta góp công như thế là đủ rồi. Con ở lại với bố mẹ, đừng đi đâu nữa! Bố nói thế, chắc con hiểu! Duyên cảm động đến rơi lệ. Từ thuở mới lớn đến giờ, hình ảnh ông Lương luôn luôn là một người cha nghiêm khắc. Ông nói chuyện với con, thường chỉ là ra lệnh, là quát mắng, chứ chưa bao giờ nhỏ lệ như hôm nay. Duyên cúi đầu đáp nhỏ: - Xin bố mẹ yên lòng, con không đi đâu cả! Nói thế, nhưng Duyên vẫn biết chắc chắn rằng, nếu đoàn thể gọi đến, cô sẽ sẵn sàng thoát ly ngay