Dịch giả: Nguyễn An
Lời nói đầu
ZHANG ZI WEN 
(Trương Tự Văn) 
I- Số phận của tôi gắn chặt với mỗi một khoảnh khắc của sinh mệnh của tôi 
Ngoài khoảnh khắc thời gian ra, tôi còn lại cái gì nữa? Tôi thật sự có khoảnh khắc thời gian chăng? 
Điều  tôi rõ ràng nhất là tôi đã từng làm một số điều gì đó. Chỉ cần trí nhớ  chưa hoàn toàn mất hẳn, tôi luôn có thể nhớ lại được một số việc tôi đã  từng làm. Nhưng thời gian không gian vẫn trôi đi mãi như dòng nước, một  số việc trong hồi ức đều theo sinh mệnh của quá khứ mãi mãi qua đi,  không thể tính là cái tôi có hiện tại. 
Đối với tương lai, nếu như  chỉ xét về thời gian, cũng dễ dàng lý giải: phàm thời gian không có  trong quá khứ mà lúc này lại không có mặt đều có thể gọi nó là tương  lai. Song sinh mệnh của tôi trong thời gian tương lai đặt vào những nội  dung gì, tôi cũng không biết nữa. Nếu như suy luận theo logic, có thể  nói, tôi có tương lai. Nhưng đây chỉ là một khái niệm chưa được nghiệm  chứng mà thôi. Sự thật trước mắt là, đối với thời gian lúc này không có  mặt và nội dung không biết, đều không thể coi là cái hiện tại tôi có. 
Duy  chỉ có khoảnh khắc lúc này thuộc sở hữu của tôi. Duy chỉ có khoảnh khắc  này, sinh mệnh của tôi mới có đầy ý nghĩa thực tại. Sinh mệnh chỉ có  thể sống tại khoảnh khắc lúc này, không thể sống trong quá khứ, cũng  không thể sống ở tương lai. 
Khoảnh khắc thời gian là một cái gì đây?  Nó vừa không thuộc quá khứ, trái lại lại không ngừng trở thành quá khứ;  vừa không thuộc về tương lai nhưng lại không ngừng đón nhận tương lai.  Nó vừa là một giới hạn có thể chia cắt vô hạn giống như một điểm không  có chiều dài; lại là một giới hạn có thể kéo dài đến vô hạn, 38 năm có  thể tính là một khoảnh khắc, trong sinh mệnh vũ trụ, toàn bộ thời gian  loài người tồn tại cũng có thể xem là một khoảnh khắc. Từ đó đủ thấy  khoảnh khắc chốc lát là thời gian không thể tưởng tượng được. Mà cái tôi  có, chỉ có thể là khoảnh khắc thời gian, như thế tôi là một tồn tại  không thể tượng tượng nổi? 
Khi tôi nhảy khỏi vũng bùn của quan niệm  thời gian kiểu máy móc, vứt bỏ những ngụy biện như đúng mà là sai, nhận  thức được tính vô cùng sinh động của tồn tại sinh mệnh, tôi mới sáng tỏ  trong lòng. 
Tôi là sinh mệnh sinh động nhất trong vũ trụ, trên đường  trục thời gian là một quá trình sống và trưởng thành từ đầu đến cuối  luôn luôn mở rộng. Tôi vừa nhận thức được những việc phát sinh trong quá  khứ không thể trở thành cái mà hiện tại tôi có, lại đem quá khứ xem là  sự mở đầu của quá trình sinh mệnh, từ đó trân trọng giá trị đặt nền móng  khởi nguồn của nó trong lịch trình của sinh mệnh. Hơn nữa, khi nghĩ lại  đặc trưng tính toàn cục của sinh mệnh, tôi phát hiện ra “quá khứ” của  tôi cũng quyết định hiện tại của tôi - tôi luôn luôn ở trạng thái trôi  đi, hiện tại chẳng mấy chốc đã hóa thành quá khứ, như thế “quá khứ của  tôi có thể có ý nghĩa gì cũng sẽ quyết định bởi việc làm hiện tại của  tôi. Cũng chính là, tôi luôn luôn không ngừng viết nên lịch sử của mình,  sự việc hôm nay đến ngày mai sẽ trở thành việc của quá khứ, muốn cho  mọi việc của tôi ngày hôm qua có giá trị thì phi làm sao mỗi một sự việc  của tôi hôm nay đều có giá trị. 
Tương lai luôn đang mở rộng ở hiện  tại, bởi vì hiện tại tôi đang luôn trù tính tưng lai, mỗi một ý nghĩa  hiện tại mà tôi tạo nên cũng chính là trải ra và tích tụ cho tương lai. 
Như  thế, đặt mỗi một khoảnh khắc lúc này vào trong thời gian dài đằng đẵng  của tính toàn cục, để cho nó vừa thể hiện quá khứ lại hiện rõ ra tưng  lai, khoảnh khắc lúc này không còn là sự tồn tại trống rỗng không thể  tưởng tượng được nữa, nó đã trở thành cái thực có đầy đủ nhất nối quá  khứ với tương lai của tôi. 
Chỉ có lúc này mới có thể nói: tôi đã có khoảnh khắc thời gian. Tôi đã nắm chắc được số phận của mình. 
Với  tư cách cá thể, tôi được khêu gợi từ quan niệm lịch sử của Gan đi, sinh  mệnh là sự tồn tại lấy trần thế làm cơ sở dựa vào trật tự xã hội, cho  nên tôi không theo đuổi mức độ tinh thần đến tột độ không ăn uống những  thứ ở nhân gian - Tôi không thể vứt bỏ được ăn mặc, ở và đi lại của thế  tục. Tôi hoàn toàn có thể đi theo trào lưu “đi xuống biển”. Nhưng tôi  cũng có thể tiếp nhận chính những hấp dẫn của sáng tạo văn hóa. Trên  thực tế, tôi đang vui sướng xiết bao trong màng lưới văn hóa tự tạo tự  kiềm chế. Tôi hiểu sâu sắc rằng một khi tách rời màng lưới văn hóa sẽ có  thể thật sự chỉ có hai bàn tay trắng. 
Từ trong văn hóa Bandu tôi  nhận được, vận động phát sinh vào thời điểm chỉ định và địa điểm chỉ  định là thực thể có một không hai. Trong không gian và thời gian vô hạn,  tôi không phải chính là một thực thể độc lập như vậy ư? Mặc dù nhỏ bé,  nhưng sao lại cản trở sáng tạo văn hóa đặc biệt của tôi? Sinh mệnh của  tôi đã diễn biến thành loại sáng tạo văn hóa đặc biệt này, tôi với tư  cách là một vật thể mang vật chất văn hóa, thời gian sinh tồn có hạn;  còn tôi với sinh mệnh mang tinh thần văn hóa thì sẽ cùng tồn tại với  thời gian mãi hàng nghìn năm sau. 
Tôi từ trong quan niệm thời gian  của vĩ nhân “đều đã qua rồi, được coi là nhân vật phong lưu phải xem  hiện tại”, “một vạn năm quá lâu, chỉ tranh giành phút chốc” được tỉnh  ngộ triệt để cuối cùng, đã phát hiện sinh mệnh của tôi, bản thể tinh  thần của tôi sẽ ở mỗi một khoảnh khắc trên đường sinh mệnh của tôi! 
Một  đời tôi chẳng qua là dòng thời gian do từng khoảnh khắc tạo nên, sự tồn  tại của các khoảnh khắc thời gian khác nhau đã tạo nên toàn bộ sự tồn  tại của tôi. 
Tôi cho là hoàn toàn không có khả năng nhận thức tính  tất yếu của vận động sinh mệnh của mình từng ý nghĩa triết học - Con  người không thể nhận thức một cách vô cùng vô tận đối với vận mệnh của  mình mà người ta chỉ có thể chịu sự chi phối của tính tất nhiên, con  người nhiều lắm chỉ có thể không ngừng nhận thức tính tất nhiên mà thôi.  
Nhưng, tôi hoàn toàn có thể nắm chắc mỗi một khoảnh khắc mà bản  thân mình sắp sửa gặp một cách tự giác, đối với mỗi khoảnh khắc có một  sự trù tính sáng suốt tự giác, đây sẽ là sự trù tính của tôi đối với vận  mệnh. Đây chính là điều mà mọi người nói bám chặt thần của số phận. 
II- Số phận ném tôi vào một nơi hoàn toàn xa lạ. Trước sự chọn lựa vô cùng đa dạng, tôi chọn số phận thuộc về tôi 
Có  một ngày tỉnh lại, tôi đột nhiên phát hiện mình đang sống trong một thế  giới gặp được vận may. Tôi đang đứng trước ngàn vạn nẻo đường, tung  hoành ngang dọc, thành bại được mất, cũ mới lẫn lộn. 
Mật mã của số phận ở đâu? 
Tôi hỏi ông trời, trời không trả lời. Tôi lại hỏi đến đất, đất cứ lặng thinh. 
Trước  chọn lựa vô cùng đa dạng, tôi lại chẳng biết đâu mà lần nữa, tôi không  biết chúng mỗi cái có kết cục ra sao. Huống hồ, cơ may, hoàn cảnh tôi  đều không tự chủ để chọn lựa được. Số phận hoặc cần tôi phải chịu đựng  thử thách của gió Tây Bắc trên cao nguyên hoàng thổ, cũng có thể để cho  tôi bay qua Thái Bình Dưng đến đất khách quê người để mạ vàng, sau đó áo  gấm trở về. Một khoảnh khắc trôi qua, một sai lầm nẩy sinh trong khoảnh  khắc, tôi không biết tôi sẽ trở thành một con người tôi như thế nào  nữa. 
Từ nay nghĩ lại quá khứ làm tôi kích động mãi là tôi cuối cùng  trong vùng hoang dã mênh mông không ranh giới, từ trong sốt ruột và gắng  gượng đến tột độ, đã tìm thấy một niềm tin kiên cường: bất kể thế giới  phức tạp lộn xộn bao nhiêu, bất kể đời người đứng trước sự lựa chọn bao  nhiêu, sẽ phi chịu đựng bao nhiêu trắc trở và dằn vặt, tóm lại là thế  giới mênh mông không có bất cứ cái gì có thể vượt qua vô trật tự mà đạt  tới có trật tự, vượt qua quá trình mà chiếm ngay kết qu được. Đời người  cũng chỉ có thể 
như vậy. 
Như thế, tôi chỉ có thể bắt đầu thiết  kế đối với số mệnh từ trong gắng gượng vô trật tự, từ trong “khả năng”  vô cùng đa dạng, từ trong vô số những cái “có lẽ” tìm ra được một manh  mối đạt được có trật tự. 
1. Trù tính cơ bản: tôi cảm thấy được tôi là ai. 
Muốn  trả lời “tôi là ai” đương nhiên là rất khó khăn, mà muốn trù tính số  phận của tôi, điều trước tiên gặp phải lại là vấn đề của “tôi là ai”. 
Trong  văn hiến kinh điển “áo nghĩa thư” của ấn Độ từ 600 năm trước công  nguyên, đã đem cái “tự ngã” xem thành hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ, khi  nó khảo sát tự ngã với quan hệ nguồn gốc tạo thành thế giới liền nêu lên  hai câu hỏi tự nhiên vĩnh hằng là “tôi là ai”, “tôi trong thế giới này  nằm ở vị trí nào”. Từ nền văn minh ban đầu cổ Hy Lạp, Bamennid,  Socrates, Plato của miền bãi biển Aisin, Lão Đam, Trang Chu của hai bên  bờ sông Hoàng Hà, đến “Kinh Phệ Đà” của bên bờ ấn Độ dưng, “Thánh kinh”  của môn đồ Cơ đốc giáo, bước đến nền văn hóa phục hưng và cách mạng công  nghiệp cận đại kích động lòng người, thẳng tới Carxin, Heidegger,  Sartre của phưng Tây hiện đại câu trả lời “Tôi là ai” vờn bay đầy trời,  làm cho người ta rối mắt. Nhìn thấu sự biến ảo rối ren của nó, bất kể  những nhà hiền triết thuộc dạng nào đều không vượt quá giới hạn nhất  định như sau - Tôi là một động vật của văn hóa, tôi sáng tạo ra văn hóa  và tự tuân theo văn hóa, sự vui vẻ và lo âu của tôi đều nằm trong mạng  lưới văn hóa, đồng thời không thể xông ra khỏi ngoài mạng lưới để tự do  tự tại. 
Đây là kết luận của số phận, đây là kết luận của lịch sử. 
Lịch  sử đã từng chế giễu rất nhiều người muốn xông ra khỏi mạng lưới văn hóa  để tự do tự tại, bao gồm cả vô số những anh hùng văn hóa. Hầu như đồng  thời, học phái Sdorger của phưng Tây và Lý Nhĩ, Trang Chu của phưng Đông  đều vắt óc nghĩ thầm thoát khỏi mạng lưới văn hóa để đồng nhất với tự  nhiên trời đất, hưởng thụ tự do và yên tĩnh. Học phái Sdorger đem “thuận  theo tự do để sống” làm hành vi lưng thiện chân chính, Lão Trang thì có  tiếng là “vô vi vô tri” có thể “dốc sức vì đạo đến cực độ, một lòng một  dạ tuân theo, mọi vật song song tiến hành mình phi tự quan sát nhiều  lần”. Trên thực tế như thế nào? Không chỉ sự phát triển của lịch sử hoàn  toàn không phù hợp với nguyện vọng của họ, họ trước sau đều không thể  phá nổi mạng lưới văn hóa, mà Chinor, Lão Trang bản thân đã là một bộ  phận của thủy tổ nền văn hóa của nhân loại đã trở thành một mắt xích  trên mạng lưới văn hóa. ý chí tâm lý của Chinor, Kleiande một chút cũng  không thể tự do nhẹ nhõm, họ đem toàn bộ luân lý đều buộc lên vai Thượng  đế và số phận, cho rằng về luân lý, yêu cầu cao nhất đối với con người  chính là phục tùng Thượng đế và số phận: “Dù là nghi ngờ làm tôi lạc hậu  hoặc không tình nguyện, nhưng tôi cũng nhất định vĩnh viễn theo đuổi  Ngưi (Ngưi tức Thượng đế, số phận)”. Vốn muốn thoát khỏi mạng lưới văn  hóa, không ngờ sau khi đi vòng quanh một cái vòng lớn vẫn bị tự mình  chui vào trong mạng lưới văn hóa chặt chẽ hn. Lão Trang cũng thế, vốn  muốn thông qua “đạo vô vi” xung phá sự ràng buộc của văn hóa để trở về  với hoài bão của tự nhiên, lại trước sau chịu sự cám dỗ sâu sắc của tinh  thần vĩnh hằng siêu nghiệm, bị tự mình nhốt khóa trong “cửa nhiều điều  kỳ diệu” “nhìn không thấy”, “nghe không biết”, “huyền bí thêm huyền bí”.  Từ đó có thể thấy mặc dù họ có suy nghĩ phân biệt sâu sắc và chí hướng  cao xa như thế nào, về phưng diện thoát ra khỏi mạng lưới văn hóa vẫn  hoàn toàn tốn công vô ích. Giống như Tôn Đại thánh, mặc dù nhào lộn một  cái đã đi được mười vạn tám ngàn dặm lại vẫn không thể vượt qua được  lòng bàn tay của đức Phật Như Lai. 
Về sau tất c những người hòng  thoát khỏi ràng buộc, ẩn mình trong đào nguyên hoặc ẩn tích trong núi  sâu rừng thẳm hoặc say đắm trước bình rượu dưới trăng để được tự do tự  tại đều là những kẻ thất bại, họ nhiều lắm cũng chỉ tìm được cái thắng  lợi tinh thần nhất thời mà tạm thời tự say sưa một phen biểu lộ: “Dựng  lều ở chốn nhân gian, mà không có tiếng ngựa xe ồn ào”, “Hỏi bạn vì sao  có thể như thế, lòng tự xa cách đất, người”, trong ý thức sâu kín rõ  ràng là “đất này không có bạc ba trăm lạng”. “Rừng sâu người không biết,  có trăng sáng lại soi”. Chẳng qua là nỗi thưng cm đặc biệt đối với  người ta, không biết và thân thiết hướng về đối với người có thể biết  ta. Có thể vứt bỏ “chuông trống cỗ ngon” và “ngựa đẹp áo sang”, nhưng  vẫn cố chấp truy hỏi đời mình có đắc ý hay không, trời sinh ra thân tôi  liệu có ích hay không, nếu như không cố chấp như thế, làm sao có thể  “nhưng muốn say lâu không muốn tỉnh?” Đâu có “vạn cổ sầu” nữa? 
Tôi  căn bn không có cách nào chạy trốn, chỉ có thể đứng im trong mạng lưới  văn hóa. Tự do chân chính của tôi cũng chỉ có thể là tự do trong mạng  lưới văn hóa. Còn như trong mạng lưới văn hóa tôi có thể giành được tự  do ở mức độ nào, ở ngày nay vẫn là vấn đề kinh tế, liên quan với chính  trị rất ít. Trong lĩnh vực chính trị, tự do thường thường sa ngã thành  công cụ của một số người có dã tâm, họ mang theo chiêu bài tự do, thậm  chí lấy tự do làm lời hứa hẹn, mê hoặc dân chúng dẹp loạn một trật tự  nào đó để đoạt lấy quyền lực cá nhân, đến khi mục đích dã tâm đạt được,  để giữ sự thống trị của cá nhân ấy, tất nhiên có thể ngay lập tức xây  dựng nên trật tự khác, chẳng bao giờ có thể cho dân chúng mà lúc ban đầu  họ kích động và từng hứa hẹn có tự do chân chính, tự do c đến dân chúng  chỉ làm công cụ để họ đoạt quyền. Xã hội loài người phát triển đến ngày  nay, tự do về thực chất vẫn là một khái niệm kinh tế. Xã hội có trình  độ sức sn xuất đến mức độ nào thì có tự do ở mức độ đó. Tự do của tôi  vĩnh viễn có liên hệ với hoàn cnh kinh tế cụ thể tồn tại của tôi. Trình  độ sức sn xuất càng cao, kinh tế càng phát đạt, tự do của tôi mới có thể  càng nhiều. Trái lại, trình độ sức sn xuất càng thấp thì tự do càng ít.  Mỗi một xã hội đều chỉ có thể đạt được tự do ở trình độ tưng ứng với  mức độ sức sn xuất của nó, bất cứ ai cũng không có cách gì vượt hn trình  độ này. Bất cứ hành vi nào vứt bỏ hoàn cnh sinh tồn cụ thể đều có thể  làm cho tự do chỉ là lời nói suông mà chẳng có chút giá trị nào. Các nhà  triết học xem điều này là quy luật tự nhiên hoặc tính tất nhiên.  Spinoza trong “Luân lý học”đem tự do diễn đạt thành nhận thức đối với  tất nhiên, tự do không phi là thoát khỏi tính tất nhiên mà là nhận thức  tính tất nhiên. Heygel trong “Triết học lịch sử” thì lại càng tiến hành  kho sát lịch sử cụ thể đối với tự do một cách sâu sắc hn, lần đầu tiên  đem thực tiễn dẫn vào khái niệm tự do, cho rằng tự do là dưới tiền đề  nhận thức tính tất nhiên thực hiện sự thống nhất cụ thể của chủ thể và 
khách thể. 
Về  phưng diện nhận thức đối với tự do, Mao Trạch Đông dùng phưng thức ngôn  ngữ Hán học điển hình đưa ra diễn đạt hoàn chỉnh nhất, Ông cho rằng tự  do là nhận thức đối với tính tất nhiên và ci tạo đối với thế giới khách  quan. Giữa nhận thức và ci tạo dùng chữ “Và” đề nối liền lại, vừa có thể  thừa nhận là hai cái kế tiếp trước sau - nhận thức tất nhiên ở trước,  ci tạo khách quan ở sau, giống như sự thể hiện của Mao Trạch Đông từ lâu  về bước đi của đời sống tinh thần: trước tiên có nhận thức, sau mới có  tin theo, cuối cùng mới có thể thực hiện trên hành động, đối với tính  tất nhiên có nhận thức ở trình độ nào mới có ci tạo khách quan đạt được  tự do ở trình độ đó; lại có thể đem c hai cái hiểu là đồng thời - nhận  thức tất nhiên, ci tạo thế giới chủ quan đồng thời với ci tạo thế giới  khách quan (cũng giống như ci tạo thế giới khách quan đồng thời với ci  tạo thế giới chủ quan). Hạt nhân của quan điểm tự do của Mao Trạch Đông  là: bất kể nhận thức tất nhiên hay là ci tạo khách quan đều lấy cái  “tôi” làm chủ thể, tôi ở đây giành được tự do thực tại nhất mà lại biện  chứng nhất. Xuất phát từ loại quan niệm tự do thời gian không gian biện  chứng này, Mao Trạch Đông xem quá trình phát triển của lịch sử từ vưng  quốc tất nhiên sang Vưng quốc tự do, đây là một quan điểm lịch sử tự do  vĩnh viễn mở rộng, ông không dùng “thực hiện tự do” làm điểm cực cuối  cùng, mà là tự giác nắm chắc tính vô hạn phát triển lịch sử, đem tự do  xem là một quá trình phát triển vô hạn: quá trình vận động từ tất nhiên  đến tự do. 
Nhìn thấu rõ tự do như thế, tôi mới có thể vượt qua hỗn  loạn tạp nham, trong mạng lưới văn hóa mới thật sự tìm được phần số phận  vốn thuộc về tôi. Mặc dù tôi vẫn không thể tr lời chuẩn xác được trong  mạng lưới văn hóa tôi là ai, cũng không thể nhận thức vô tận đối với số  phận của tôi, nhưng tôi hoàn toàn có thể ở ni đây - trong quá trình sáng  tạo văn hóa của chính tôi cm thấy một cách chân thực tôi là ai. Khonh  khắc mà tôi cm thấy tôi là ai, trước tiên tôi giành được sự tỉnh ngộ của  lưng tâm và sự bình yên của linh hồn. Bất kể xung quanh hỗn loạn như  thế nào, bất kể tiếng ồn xung quanh bốn phía ầm ĩ đến đâu, tôi trước sau  đều vững tin vào cm giác của chính tôi - đành là tôi phi sống một cách  chân thực, tôi sẽ không thể không hoàn toàn nhấn mạnh cm giác này của  mình. 
Cứ lấy việc “đi xuống biển”, mốt đang được tôn sùng nhất của  nhiều người trong c nước hiện nay để bàn. Trong tình hình hệ thống thị  trường của xã hội chưa giành được sự thống nhất hài hòa với hệ thống văn  hóa, đang tồn tại sự phân phối không đồng đều, c chế cạnh tranh không  hoàn thiện, tôi cm thấy tôi nên dựa vào hệ thống thị trường của xã hội,  thế là tôi sẽ vui vẻ đi :”xuống biển”. Tôi cm thấy tôi vẫn phi vững vàng  tiến theo hệ thống văn hóa của xã hội, do đó tôi sẽ vui vẻ như trước  đây làm công việc sáng tạo của tôi. Như vậy, hoặc là có may mắn để hạ cố  đến tôi hoặc thất bại cũng không luyến tiếc lắm, tôi hiểu rõ đây chính  là số phận của tôi. Số phận có thể sắp đặt tôi bắt đầu lại một lần, hai  lần. Người đen đủi nhất chính là những người không tìm thấy cm giác tốt  đẹp của mình. Hâm mộ đi xuống biển lại không dám xuống biển, không đi  xuống biển lại luôn luôn nghĩ phi đi xuống biển, đã đi xuống biển lại cm  thấy mất một số cái gì đó đâm ra hi luyến tiếc. Đây chính là vì đời  người rất không tự do. Anh ta có thể đứng trước c may đã bỏ lỡ lại bỏ lỡ  lại, số phận cũng luôn trói buộc anh ta. Xét đến điều căn bn của nó là ở  chỗ anh ta không thể cm thấy một cách chân chính anh ta là ai, anh ta  để cho mỗi một khonh khắc của sinh mệnh của mình đều trôi đi uổng phí  trong do dự và lưỡng lự. Mắt đang nhìn mình từ thiếu niên đến trung  niên, chẳng mấy chốc lại từ trung niên đến những năm xế chiều, một đời  chỉ có tự than thở trống không. 
Tôi quyết không thể như thế. Bắt đầu  từ bây giờ tôi sẽ phi có một trù tính c bn đối với số phận của mình,  xây dựng nên cm giác chân thực của mình, tìm thấy vị trí nên thuộc về  mình. 
Xin đừng lo lắng tôi có thể vì cm giác dâng cao mà trượt vào  thuyết duy tâm. Cm giác của tôi luôn là cm giác đối với tồn tại, bao gồm  cm giác đã có, hiện có và sẽ có. Sẽ có là sự tồn tại của gi tưởng, bao  gồm tồn tại tưng lai có thể thực hiện và “tồn tại” tưng lai không thể  thực hiện. Cái trước là một loại lý tưởng, cái sau là o tưởng, ý tưởng  điên rồ. Nhưng ý tưởng điên rồ của hiện tại - trong cm giác đối với “tồn  tại” mà hiện tại cho rằng tưng lai không thể thực hiện thường thường  đang ẩn chứa tính sáng tạo, vận may của tôi chưa biết chừng chính sẽ tại  chỗ đó. 
Cm giác đối với chưa có và sẽ có sẽ là trực quan (ở đây,  đối tượng của trực quan chỉ có tính không gian mà không có tính thời  gian), năng lực của trực giác là tiền đề sinh ra tư duy mang tính sáng  tạo trong kết qu của tư duy có tính sáng tạo, bộ phận có giá trị lý tính  có thể chính là khoa học. Thiết kế có tính chất sáng tạo đời người đồng  thời làm cho nó có giá trị lý tính là thiết kế cuộc đời của những người  mạnh, người thắng lợi, trong đó tràn ngập trí tuệ nhân sinh rộng lớn.  Tôi muốn tự giác giành được vận may thì không thể thiếu trí tuệ này. 
Trong  chặng đường dài từ cm giác đến khoa học, tồn tại là tính có trước, còn  khoa học có giá trị thực tế nhất đối với loài người. Triết học duy tâm  thì cắt đi phần đầu (tồn tại) mà bắt đầu từ cm giác cũng cắt đi phần  đuôi (khoa học) chỉ nhấn mạnh ở giai đoạn trực giác và tư duy. Triết học  sinh mệnh, chủ nghĩa trực quan của Baigeson cũng là dừng lại ở đây, lấy  trực quan là trên hết, lấy “tự do tinh thần của khách quan” là trên  hết. Chủ nghĩa duy vật biện chứng thì chú trọng toàn bộ quá trình của  sinh mệnh, vừa truy hỏi lý do tồn tại cm giác, cũng truy hỏi kết qu của  trực giác và sau tư duy. Tôi kiên trì nắm ở chỗ này quyết không đem mình  đặt vào trong một thế giới cm giác trống rỗng một cách cô lập. 
Song,  đối ứng với thời gian vật lý, trên thực tế tôi chủ yếu sống trong thời  gian cm giác, trong thời gian cm giác trôi qua đi tôi thể hiện cm nhận  sự tồn tại và vận động của sinh mệnh, việc này trở thành hạt nhân tinh  thần mà tôi theo đuổi. Làm thế nào để trong quá trình lâu dài của thời  gian cm giác, dùng trạng thái tâm lý siêu việt nhìn thẳng vào giá trị  đời người, đây là một trong những vấn đề khó lớn nhất của đời người bày  ra trước mắt tôi, tôi dù một khonh khắc đều không có cách nào lẩn tránh  nó, tôi cũng không thể trốn tránh nó. 
Thế là đối với số phận, tôi bắt đầu trù tính cụ thể thực tế hơn. 
2. Quá trình và mục tiêu trù tính: tôi sống trong “lưỡng thê" 
Tôi  sống trong “lưỡng thê” với ý nghĩa đau khổ và vui vẻ. Tôi là đau khổ,  số mệnh tôi nhất định phi tiếp nhận khổ nạn. Tôi đồng thời lại vui vẻ,  tôi theo đuổi vui vẻ. Tôi đồng thời phi tri qua hai thể nghiệm tâm lý  hoàn toàn trái ngược đau khổ và vui vẻ. 
Ham muốn theo đuổi và gắng  gượng trở thành toàn bộ bn chất của tôi. Bởi vì tôi là con người tất  nhiên có ham muốn và theo đuổi của bn thân mình. Tôi vì thực hiện nó mà  một phút cũng không ngừng cố gắng phấn đấu cũng chưa my may từng buông  th mình. Do đó, tất c mọi khổ nạn, thất bại và gắng gượng đều sinh ra từ  đó. Hn thế chúng từ trước đến sau đi kèm với c quá trình sinh mệnh của  tôi. Đây đưng nhiên là một quá trình tràn ngập đau khổ. Tôi dùng vô số  lần trắc trở và thất bại để thêu dệt nên mộng thành công. Có người nói  tôi lúc này đây đang trong đau khổ và vô vị giống như một con lắc đang  đu đưa qua lại. Tôi đang đứng trước đau khổ hai mặt, đau khổ của thất  bại, đau khổ của thành công. Bởi vì tôi thật ra không xem thành công làm  mục tiêu đời người của tôi, tôi chỉ từ mỗi lần thành công thể nghiệm  giá trị của sinh mệnh, từ đó trong khonh khắc vô cùng ngắn ngủi giành  được thành công phát ra một chút tiếng cười vui vẻ. Nhưng ngay tức khắc  sinh ra một tìm tòi và theo đuổi mới, từ đó lại bắt đầu một vòng gắng  gượng và đau khổ mới. Hn nữa, khi mục tiêu mới còn chưa sinh ra, tức là  trước khi bắt đầu một vòng gắng gượng và đau khổ mới, tôi luôn cm thấy  trống tri và vô vị mà trước đây chưa từng có. Đó sẽ là sự giày vò tinh  thần mà thành công đem đến cho tôi. 
Cho nên nói, ham muốn và gắng  gượng, trắc trở và thất bại, chán ngán và đau khổ đã tạo nên toàn bộ nội  dung trong quá trình sinh mệnh của tôi. ý chí kiên nhẫn, sức mạnh nhân  cách của tôi, mỗi một chút thành tựu sự nghiệp của tôi đều sinh ra từ  trong hàng chuỗi những khó khăn trắc trở như thế. ý nghĩa và giá trị  sinh mệnh của tôi cũng chính là thực hiện trong khó khăn trắc trở như  thế. Nếu như không có hàng chuỗi khó khăn trắc trở này, hoặc lẩn tránh  nó thì sinh mệnh của tôi có thể trở thành hư vô. Tôi muốn sống một cách  thực sự, số mệnh nhất định phi chịu đựng hàng chuỗi đau khổ và giày vò  này. 
Nhưng, mục tiêu của tôi thật ra không phi ở chỗ đau khổ. Tất c  mọi việc làm của tôi, tất c mọi theo đuổi, đều là vì một mục tiêu cuối  cùng: vui vẻ. Tôi tin tưởng vững chắc rằng đời người cần phi vui vẻ. Vui  vẻ phi giống như một bài th. Vui vẻ phi giống như một con suối nhỏ róc  rách tuôn đều, chy đến những con sông đẹp, chy đến tận biển c màu xanh  biếc, chy đến tận những ni nó không hề hay biết. 
ý chí của Tăng Điểm  từng nói, được Khổng Tử tán thành, vốn chính là một mục tiêu cao nhất  của đời người - Thời tiết cuối mùa xuân, sự thích nghi với mùa xuân đã  quen, năm sáu chàng thanh niên, sáu by cậu thiếu niên rủ nhau ra tắm ở  sông Nghi, đứng hóng mát ở Vũ Vu đài, sau đó hồ hởi ra về. 
Khổng Tử,  một đời hong hốt lo phiền, tích cực vào đời, sở dĩ biểu thị lặng im đối  với ý chí trị quốc yên bang của mấy đệ tử trước Tăng Điểm trình bày mà  lại chỉ độc nhất tán thành chí hướng của Tăng Điểm, thật ra không phi  Khổng Tử sa sút nn lòng có ý nghĩ thoát khỏi trần ai, mà ở chỗ ông đã  nhìn thấy mục tiêu cuối cùng của đời người là nên vui vẻ. Còn trị quốc  yên bang chỉ là thủ đoạn để thực hiện mục tiêu này. 
Khi tôi dựng lên  mục tiêu này cho mình, tất c mọi việc làm và theo đuổi của tôi vì mục  tiêu này cũng đều trở nên vui vẻ, tất c mọi đau khổ trong quá trình sinh  mệnh của tôi cũng đều trở nên vui vẻ. Lúc này, tất c mọi cm giác đau  khổ đều tan biến thành mây khói. Đối mặt với tất c mọi tai ách và khổ  nạn, tôi cũng đều không thay đổi niềm vui, tôi chỉ cm thấy niềm vui  sướng của đời người. 
Lúc này, tôi mới cm thấy rằng “ăn một giỏ cm,  uống một bầu nước, sống trong ngõ hẻm vắng, người khác chịu đựng nổi nỗi  khổ đó, thế mà Nhan Hồi vẫn không thay đổi niềm vui vốn có”, vốn là một  giới hạn của nhân cách vĩ đại biết bao. 
Do đó, bất kể định mệnh của  tôi phi gánh chịu bao nhiêu đau khổ, tôi vẫn yêu đời, tôi vẫn nhiệt  liệt ôm hôn cuộc đời. Tôi làm cho quá trình của sinh mệnh thống nhất lại  với mục tiêu một cách hài hòa. Từ đó tôi sẽ không sống trong “lưỡng  thê” nữa. Dù cho khi bi thuyền ngược dòng, trong tất c mọi gian nan trắc  trở của thể xác và tinh thần, tôi cũng có thể thể nghiệm được niềm vui  sướng của đời người. 
Song, đời người là ngắn ngủi. Khi hưởng thụ  cuộc đời vui vẻ, nếu như không có giác ngộ của sinh mệnh, đời người sẽ  bị một bóng đen to lớn bao trùm. Cái bóng đen này chính là: tử vong. 
3. Trù tính cao nhất: Chỗ quy tụ của tôi là cái chết. 
Nhịp  điệu của tự nhiên làm cho tôi tất nhiên từ trẻ trai đi đến già lão, ban  tặng cuối cùng sinh mệnh cho tôi là để cho tôi dập tắt ngọn lửa của  sinh mệnh, đi về Thiền quốc. 
Chỉ dùng logic của triết học cũng có  thể suy đoán: không có cái chết thì không có sự sống. Đời người không có  cái chết thì sẽ không có khái niệm của thời gian. Không có cái chết thì  giá trị của sinh mệnh cũng sẽ không có 
gì để nói. Cái chết đối với đời người vừa là bi tráng, đồng thời cũng là 
thiêng liêng. 
Chính  vì chết là một việc tuyệt đối, thời gian và sinh mệnh mới hiện rõ vô  cùng quý báu. Tôi chính là từ trong bài bi ca truy điệu vong linh, cm  thấy được sự vô cùng trang nghiêm và hùng vĩ của bn giao hưởng 
sinh mệnh. 
Đành  là tôi tất nhiên phải đến với tuổi già, tôi chẳng có lí do gì mà không  vô cùng quý trọng những năm tháng của tuổi thanh xuân, quý trọng từng  phút từng giây, quý trọng mỗi khoảnh khắc trong suốt đời người 
của tôi. 
Đành  là tôi tất nhiên phải đi vào cõi chết, tôi không có lý do gì mà không  vô cùng quý trọng sinh mệnh, tôi cần phi cố gắng trước khi chết, thực  hiện giá trị sinh mệnh của tôi với mức độ lớn nhất. 
Tôi từ bụi trần ai của vũ trụ đến, cuối cùng cũng tất nhiên phải trở về nơi đó. 
III-  Tôi biết tôi không biết. Tôi từ lời nhắc nhở của á thánh Mạnh tử chưa  từng quên: Nhược điểm của một người là thích xưng là bậc thầy trước mặt  người khác 
Với kiến thức cạn hẹp, sự từng trải bình thường, học  thức nông cạn, tôi không bao giờ dám hy vọng quyển sách này trở thành  bất cứ sự chỉ giáo nào để trù tính số phận. Điều hiến tặng cho bạn đọc  nhiều lắm chỉ là một chút cảm giác của cá nhân tôi đối với vận mệnh cuộc  đời mà thôi. Bất kể diễn đạt ngôn ngữ của tôi dưới hình thức như thế  nào, ví như đại loại là “bạn nên”, xét đến cùng vẫn chỉ là cảm giác của  tôi. Tin hay không tin tùy bạn, tuyệt không có ý là “làm thầy”. 
Đã  là cảm giác của cá nhân, thiên kiến và sai lầm sẽ không thể tránh khỏi.  Wetegenstan đã dạy người ta: Một người đối với sự việc không thể nói ra  thì nên giữ im lặng. Nhưng trước mắt tôi thật ra không có ai quy định  những điều gì có thể nói, những điều gì không thể nói. Thậm chí chính  tôi, trước khi nói cũng thật ra không hoàn toàn biết rõ ràng tôi có thể  nói điều gì và không thể nói điều gì. Bởi vì những việc có thể nói lại  chưa nói, việc không thể nói lại đã nói ra, cũng không thể tránh khỏi.  Đương nhiên, cuối cùng tôi cũng chỉ có thể nói ra những điều tôi có thể  nói. 
Đồng thời, quyển sách này cũng được xây dựng trên cơ sở đọc  hàng loạt lớn tư liệu, tôi đã đứng trên vai của nhiều hiền triết vĩ nhân  trong ngoài nước xưa nay và nhiều bạn bè chưa nổi tiếng. Tôi cám ơn họ  một cách sâu sắc, tôi đã dẫn ra rất nhiều quan niệm và thực tiễn của họ  đối với vận mệnh đời người. Cho nên, quyển sách này cũng là nhận thức và  cảm thụ của tôi đối với quan niệm và thực tiễn của họ, ở đây vẫn có thể  còn có sai lầm. 
Như vậy, tôi vừa cầu mong không khí văn hóa khoan dung, vừa cầu mong bạn đọc chỉ ra những thiếu sót và sai lầm. 
Để  thức tỉnh niềm hưng phấn đọc các vấn đề khác nhau, phong cách hành văn  trong sách này không phải là một vẻ, một cách điệu, hầu như là có đủ mọi  phong cách pha trộn lẫn nhau - hoặc kiểu dẫn dắt, hoặc có tính biện  luận, hoặc có tính kể chuyện, hoặc có tính triết lý, từ đó xét về toàn  cục cũng đã hình thành một phong cách đặc biệt của quyển sách này.