watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
19:57:2128/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 1 - Anh Hùng Lĩnh Nam - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 1-10 - Trang 20
Chỉ mục bài viết
Tập 1 - Anh Hùng Lĩnh Nam - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 1-10
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Tất cả các trang
Trang 20 trong tổng số 21
Hồi 10a

Hoang bi cổ mộc thiên niên quốc

Hoang bi cổ mộc thiên niên quốc
0
Dịch nghĩa:
Bia tàn cây cỗi cố quốc nghìn thu hận

Chu Tường Qui kêu lên:
- Đào công tử, người có sao không?
Nàng chạy lại bên cạnh Đào Kỳ. Đào Kỳ giả vờ ôm ngực ngồi dậy, mặt nhăn nhó khổ sở:
- Cám ơn cô nương, tôi không sao cả.
Đào Kỳ ngồi dậy nói:
- Chu công tử, tôi còn thiếu công tử bảy chiêu nữa.
Minh Châu cản:
- Đào công tử, ngươi không địch nổi sư huynh tôi đâu, chịu thua đi cho xong chuyện.
Đào Kỳ lắc đầu:
- Cám ơn cô nương có lòng chiếu cố. Nhưng tôi còn thiếu Chu công tử bảy chiêu nữa.
Rồi nó đứng dậy thủ thế.
Chu Quang vọt người lên, đá một phi cước vào người nó. Chân trái vào ngực, chân phải vào mặt... Kình lực mạnh như vũ bão.
Đào Kỳ chờ cho chân Chu Quang sắp chạm vào người mình, nó mới thụp người xuống, loạng choạng như người say rượu, miệng đếm:
- Bốn chiêu.
Chu Quang thấy mình đá hụt, nổi giận, đánh một chưởng chiêu số rất kỳ ảo. Đào Kỳ cúi đầu xuống, hai tay che lấy mặt, vận sức chịu đòn. Miệng đếm:
- Năm chiêu.
Cứ thế đến chiêu thứ chín, nó nói:
- Chu công tử, còn một chiêu nữa.

Chu Quang móc trong túi ra hai vật đen thui như hai trái dưa màu vàng liệng xuống trước mặt Đào Kỳ. Minh Châu, Chu Tường Qui đồng kêu thét lên:
- Chết!
Đào Kỳ thấy ánh lửa loé lên. Nó biết là điều bất tường vội nhảy vọt người lên cao. Tai nó nghe hai tiếng nổ kinh hồn dưới chân, khói đen mờ mịt. Ở trên cao, nó đá gió một cái người rơi xuống đất. Chân chấm đất, nó ngửi thấy mùi khét rất khó chịu. Biết là trong khói có chất độc, nó vội nín hơi, nhảy liền ba bước, ra khỏi vùng khói.
Nó vận khí, hít một hơi dài, thấy chân khí lưu thông như thường, nó mới yên tâm nhìn Chu Quang.
Thấp thoáng bóng xanh, một người đã nhảy đến trước mặt Chu Quang tát y hai cái bốp, bốp mắng:
- Đồ hèn mạt!
Đào Kỳ trông nhận ra người đó là Lê Đạo Sinh, y chắp tay:
- Lục-trúc tiên sinh!
Minh Châu, Tường Qui cùng hành lễ:
- Thái sư phụ!

Lê Đạo Sinh hỏi Đào Kỳ:
- Cháu thử hít hơi mạnh xem có sao không?
Đào Kỳ hít một hơi dài, không thấy có gì khác lạ. Nó lắc đầu. Lê Đạo Sinh chỉ mặt Chu Quang mắng:
- Mi là đồ hư thân. Đào công tử không thù, không oán, cũng không có lời lẽ xúc phạm tới mi, mà mi dùng võ công thượng thừa để đánh người. Mi đánh thua còn dùng ám khí. Ta phải đập chết mi mới được. Mi mau lại tạ lỗi với Đào công tử.
Đào Kỳ xua tay:
- Lão tiên sinh! Chúng cháu là ngoại hậu bối, qua lại với nhau mấy chiêu, không đáng để tiên sinh phải quan tâm.
Lê Đạo Sinh mặt đỏ lên:
- Mi thấy không, Đào công tử đây tác phong danh gia, nên không chấp với mi đó.
Bất đắc dĩ Chu Quang phải đến bên Đào Kỳ chắp tay tạ ba lễ.
Lê Đạo Sinh chỉ mặt Chu Quang nói:
- Mi phải đi về với ta. Ta sẽ phạt mi 36 roi đòn về tội hành sự vô thiên vô pháp hôm nay.

Nguyên Lê Đạo Sinh chế ra một thứ ám khí cực kỳ khủng khiếp là Hoả-lưu. Vỏ bên ngoài bằng chì pha với đồng, bên trong là mấy trăm hạt chì nhỏ, trộn với thuốc kịch độc và lưu hoàng thành một thứ chất nổ. Khi ném ra lưu hoàng chạm vỏ chì, phát thành tiếng nổ, làm cháy thuốc độc và mấy trăm viên cùng bắn ra. Người nào bị viên chì văng trúng là bị thương. Vết thương có chất độc, sẽ đau đớn rên la trong mười ngày rồi thịt thối ra mà chết cực kỳ thảm thiết. Trái Hoả- lưu này chỉ những đệ tử của Lê Đạo Sinh mới được giữ mỗi người một trái. Chu Quang là đệ tử đời thứ ba đáng lẽ không được giữ, nhưng vì đã học được bản lĩnh cao ngang hàng với sư thúc, sư bá, nên Lê Đạo Sinh đặc biệt cho y hai trái. Trong lúc sắp bị thua cuộc Đào Kỳ, phải làm nô bộc suốt đời theo lời hứa, y mới đem ra dùng, mong kết liễu tính mệnh nó. Nhưng nó dùng khinh công thượng thừa tránh được.
Lê Đạo Sinh dắt con ngựa của ông cho Đào Kỳ nói:
- Đào công tử, người với Minh Châu, Tường Qui tiếp tục dạo chơi, và cố quên chuyện hôm nay đi. Đây ngựa của lão phu, công tử cỡi mà đi chơi.
Thấy Đạo Sinh xử sự nghiêm cẩn, Đào Kỳ sinh ra kính phục. Với những hành động như thế hèn chi thiên hạ không tôn ông là Lục-trúc tiên sinh. Nhưng hình ảnh nhà tù giam Nguyễn Phan với Đặng Thi Kế lại trở về trong đầu nó, khiến nó tự hỏi:
- Lục-trúc tiên sinh là người xấu hay người tốt? Việc ông đối xử với ta phân minh: Khi ta thua phải làm nô bộc, thì ông bắt ta làm nô bộc. Khi hết hạn nô bộc, chịu lời uỷ thác của Nghiêm đại ca, ông coi ta là khách. Như vậy ông tốt với ta. Nhưng ông giam Đặng Thi Kế với Nguyễn Phan thì thực là trái với nghĩa hiệp. Hiện ta khó mà phân biệt được ông là người tốt hay xấu.

Đào Kỳ lên ngựa, cùng Tường Qui, Minh Châu rời trang Thái-hà dạo chơi. Ba người đến bờ sông nhỏ, giòng nước đục ngầu, vì sông thông với sông Hồng-hà. Tường Qui hỏi Đào Kỳ:
- Đào đại ca! Tôi gọi vậy cho thân nghe. Đại ca ở Thái-hà trang có buồn không? Hay là bây giờ chúng ta đi Long-biên hay Cổ-loa chơi đi. Đại ca là người phái Cửu-chân, thì phải đi Cổ-loa chơi một lần cho biết. Vì Cổ- loa là cố đô Âu-lạc, đại ca sẽ tìm lại di tích của An Dương vương, Vạn-tín hầu Lý Thân, Cao-cảnh hầu Cao Nỗ, Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung, là những vị anh hùng đất Việt thủa xưa, cũng là tổ sư phái Cửu-chân của đại ca.
Nghe tiếng nói trong trẻo, ngọt ngào của Tường Qui, Đào Kỳ nhận lời liền:
- Nếu Chu cô nương muốn vậy thì chúng ta cùng đi Cổ-loa. Từ đây đến Cổ-loa đâu có xa gì?
Minh Châu đề nghị:
- Tôi là sư muội của chị Tường Qui, ngôi thứ đã định sẵn. Còn công tử với chị em tôi, cứ một điều công tử, một điều cô nương mãi thì mất thân thiện đi. Bây giờ thế này, chúng ta so tuổi, ai lớn hơn là anh chị, như vậy chả hơn ư?
Tường Qui đồng ý. Nàng so tuổi, cả ba người ngang nhau, nhưng Đào Kỳ lớn hơn Tường Qui bốn tháng, nàng gọi nó:
- Đào đại ca, tôi ở vai dưới rồi.

Đào Kỳ ngây ngất:
- Như vậy từ nay tôi là anh của hai cô nương.
Ba người phi ngựa, hướng Cổ-loa. Ngựa của Thái-hà trang toàn tuấn mã, nên phi như bay. Đào Kỳ nghe thấy bên tai gió vù vù, cây cỏ bên đường một màu xanh biếc, giật lùi về phía sau. Chỉ hơn giờ đã tới một con sông chảy siết. Tường Qui phất tay dừng ngựa lại cho sải bước rồi nói:
- Con sông này trước kia vốn không có tên. Sau có thành Cổ-loa mới đổi gọi là sông Cổ-loa. Ngày nay sông Cổ-loa đổi thành sông Thuỷ-châu, lấy tên ghép của Trọng Thuỷ và Mỵ Châu mà thành.
Ba người tới bến đò. Nhà đò thấy ba người cỡi ngựa, đeo kiếm thì biết là thuộc giòng dõi cao sang, chạy ra tiếp. Minh Châu hỏi:
- Chúng tôi ba ngựa và ba người, nhà đò lấy bao nhiêu tiền?
Chủ đò nói:
- Ba ngựa thì đi một thuyền lớn. Ba vị một thuyền nhỏ. Xin cho 60 đồng. Nếu các cô, cậu muốn trở về thì chỉ tính 30 đồng nữa là 90 đồng.
Minh Châu gật đầu:
- Được tôi thưởng cho ông 10 đồng nữa là 100 đồng.

Ba người bước xuống đò. Đào Kỳ nhớ lại cách đây mấy năm nó với sư tỷ cũng qua sông Hồng-hà, rồi bị Nguyễn Tam Trinh nhận chìm đò bắt sống. Nên nó chú ý theo dõi nhà đò. Đò chưa ra sông thì hai người tấu nhạc đã làm việc. Đây là một cặp vợ chồng. Chồng khoảng 30, vợ khoảng 25 tuổi. Chồng thổi tiêu, vợ kéo nhị, và hát. Tiếng tiêu lên cao vút vọng đi khá xa, dội xuống mặt nước, hợp với sóng nước rung rinh, làm thành một điệu nhạc buồn thảm vô cùng. Tiếng nhị thánh thoát tỉ tê. Hai âm điệu hoà hợp nhau, khiến Đào Kỳ phải cau mày:
- Khúc hát này là khúc gì mà buồn như vậy?
Người đàn bà kéo nhị cất tiếng ngâm sa mạc:
Nhớ xưa tám tám vua Hùng,
Dựng thành đất Việt, anh hùng phương Nam.
Đào Kỳ chú ý nhìn ống tiêu, thấy một màu xanh biếc. Trên ống tiêu có khắc nhiều hình người. Nó nhìn kỹ thì rõ ràng đó là những chiêu thức đồ hình của võ thuật. Người đàn ông ngưng thổi tiêu, nó hỏi:
- Này bác ơi, ống tiêu của bác đẹp quá, bác cho tôi coi được không?
Người đàn ông không nói năng gì, đưa ống tiêu cho nó. Nó cầm lên xem, giật bắn người lên. Vì đó là những chiêu thức võ công của phái Cửu-chân.
Nó hỏi:
- Ống tiêu này bác mua của người ta, hay bác tự tay làm ra?
Người đàn ông trả lời:
- Thưa do chính tôi làm lấy.
Đào Kỳ càng tò mò hơn:
- Những đồ hình võ học này là ở... đâu?

Người đàn ông thổi tiêu lơ đãng:
- Nó là võ học ư? Công tử muốn thì tôi bán cho.
Đào Kỳ nói:
- Giá bao nhiêu?
Người đó nói:
- Bao nhiêu cũng không bán, nếu công tử kêu được tên chiêu thức đó thì tôi cho không.
Đào Kỳ ghé vào tai ông ta:
- Đó là chiêu Loa thành nguyệt hạ.
Người đàn ông trao tiêu cho Đào Kỳ:
- Tôi tặng công tử đấy.
Đào Kỳ cầm ống tiêu bỏ vào túi, thì thuyền đã đến bến. Người thổi tiêu nói:
- Tôi tên là Chu Thổ Quan, vợ tôi họ Quách tên Thiên Lý. Chẳng hay công tử thuộc giòng dõi Lạc-hầu nào?
Đào Kỳ đoán đây là người nhà mình, nên nó dùng giọng Cửu-chân trả lời:
- Tôi ở Cửu-chân.
Chu Thổ Quan á lên một tiếng nói:
- Chắc công tử tới đây lần đầu. Tôi đưa công tử đi thăm thành Cổ-loa, xin công tử trả cho tôi ít tiền sinh sống được không?
Đào Kỳ gật đầu:
- Được chứ, được chứ.

Tường Qui móc túi đưa cho Chu Thổ Quan 200 đồng:
- Chu tiên sinh, tôi tạ tiên sinh 200 để được tiên sinh đưa đi chơi, xin tiên sinh nhận cho.
Tiền mướn người hồi đó, giá cao nhất một ngày là mười đồng, thế mà Tường Qui trả đến 100 đồng một người, tức là gấp mười. Đã vậy nàng còn dùng danh từ tạ và gọi là tiên sinh thực ít có.
Chu Thổ Quan chắp tay:
- Cô nương cho như vậy là nhiều quá rồi, lại còn dạy quá lời thực chúng tôi không dám.
Minh Châu cười:
- Chu tiên sinh! Tiên sinh tấu nhạc trên con sông chở khách vãng lai. Người trần mắt thịt thì gọi tiên sinh là xẩm sáng, coi tiên sinh là một thứ ăn xin. Còn chúng tôi, chúng tôi nhìn cái hồn nhạc ở trong người tiên sinh. Khi tiên sinh tấu nhạc, là tiên sinh đem tất cả cái ảo diệu âm thanh dâng cho chúng tôi. Chúng tôi lắng tai nghe, nhận tất cả những ân huệ đó. Đã vậy còn được tiên sinh dẫn đi ngoạn cảnh Cổ-loa, dù tạ 100 đồng chứ đến một quan (600 đồng) cũng không xứng. Với 100 đồng, chúng tôi chỉ có thể nói rằng tạ tiên sinh mà thôi.
Đào Kỳ nghe Minh Châu nói, làm nó suy nghĩ:
- Hai thiếu nữ này là đệ tử danh gia có khác. Tư thái khác phàm. Dù đối với người nghèo khó, vẫn lịch sự. Khổng-tử dạy rằng lễ kính là kỷ cương của trời đất quả đúng vậy.
Nó đoán Chu Thổ Quan chắc chắn là người nhà rồi. Nếu ông không là người của chú cũng là người của bố nó. Nó phải tìm cách hỏi thăm tin tức bố và chú nó mới được.
Chu Thổ Quan chỉ tay về phía trước:
- Kìa là thành Cổ-loa, cố đô của Âu-lạc ta.

Tường Qui hỏi:
- Tôi nghe nói rằng, ngày xưa vua An-dương vương nhà Thục định xây thành Cổ-loa, cứ xây lại bị đổ. Sau được thần Kim-qui hiện lên trừ ma tà, yêu quái, thành mới xây xong. Thần còn dâng cho vua cái móng rùa để làm nẫy nỏ. Bắn một phát cả ngàn người chết, không biết có đúng không?
Chu Thổ Quan thở dài:
- Đó là sau khi Triệu Đà đánh chiếm Âu-lạc, rồi y bịa ra như vậy, để dân chúng quên những anh hùng Lĩnh Nam mà thôi. Câu chuyện như thế này: Sau khi thắng vua Hùng lập ra nước Âu-lạc, vua An-dương nhà Thục muốn xây một cái thành lớn cho kiên cố để chống giặc. Ngài ngỏ ý ấy với Vạn-tín hầu Lý Thân. Vạn-tín hầu vẽ một kiểu thành như hình trôn ốc dâng lên. Vua An-dương thuận, và nhờ Vạn-tín hầu tìm địa điểm. Ngài chu du khắp nơi, cuối cùng tìm ra nơi này, có con sông chảy uốn khúc. Xây thành như vậy hai mặt giáp sông, đã là hiểm trở, còn hai mặt do đường bộ đi vào. Ngài đào hào sâu, làm cổng để phòng vệ. Nếu địch do mặt sông để tấn công vào, thì ta ở trên thành bắn xuống, chúng sẽ bị bại. Còn do mặt bộ đánh vào, thuỷ quân theo hình trôn ốc từ trong thành tiến ra đánh mặt hậu. Thành chia ra làm ba khu vực. Khu bên ngoài là dân chúng ở. Khu này được bao bọc bởi lớp đê dài 16.000 trượng (32 cây số ngày nay).

Thổ Quan chỉ một bức tường cao dài, cỏ xanh trước mặt:
- Kìa là lớp đê ngăn nước. Đê cao cả chục thước như vậy, để nước sông khỏi tràn ngập. Đứng ở phía ngoài nhìn vào, chẳng thấy gì cả. Lát nữa ta vào trong sẽ thấy những đồn, ụ, phòng thủ rất kiên cố. Giả thử quân Thục bị thua, chạy về cố thủ. Giặc phải chiếm được cái đê này trước đã. Quân trú phòng phía trong để bắn tên ra. Quân ở ngoài tấn công, leo lên đốc đê, sẽ làm mồi cho cung tên.
Đoàn người vượt qua cái cổng thứ nhất lên mặt đê. Chu Thổ Quan chỉ phía trong đê:
- Kìa các vị nhìn xem, phía trong đê cứ một khoảng lại có một đồn nhỏ. Đồn đóng được gần 100 quân, để phòng thủ lớp đê. Sau khi giặc thắng tràn qua lớp đê này, đã mệt mõi, bị thương tích nhiều, làm sao còn sức đánh vào lớp thành thứ nhất. Quý vị hãy nhìn xem, với lớp thành cao thế kia, mà quân tấn công lớp mệt mỏi, lớp bị thương, làm sao mà công phá cho được.
Bọn Tường Qui nhìn theo tay chỉ của Chu, thấy một vòng luỹ cao vòi vọi:
- Chu tiên sinh, lớp luỹ này cao đến 20 trượng không?
Chu Thổ Quan gật đầu:
- Cô nương ước tính đúng, lớp luỹ ngoài cao trên 20 trượng (40 mét), chân luỹ rộng 15 đến 20 trượng. Mặt luỹ từ 6 đến 8 trượng. Lớp luỹ này bao bọc phần thứ nhất của thành chu vi khoảng 4.000 trượng. Trong lớp luỹ là nơi các quan ở.

Ba người đã vào đến cửa thành. Họ phải đi qua một cây cầu bắc ngang cái hào rộng đến mười trượng. Cầu có hai sợi dây lớn nối liền với cổng thành. Khi hữu sự thì quân trong thành quay cái bánh xe cuốn dây, cầu được kéo lên. Cổng thành đóng lại.
Ba người cảm thấy như nhỏ bé lại trước lớp luỹ đồ sộ. Trên mặt luỹ, quân lính Hán đi lại canh phòng, người ngựa rầm rập. Trong thành có nhiều nhà cửa cao lớn, khang trang.
Chu Thổ Quan chỉ những nhà đó nói:
- Đó là những dinh thự của các đại thần thời Âu-lạc. Ngày nay người Hán ở. Ngôi nhà có năm góc, ngói xanh kia là dinh của Cao-cảnh hầu Cao Nỗ. Cao-cảnh hầu là người chế ra thần nỏ Âu-lạc, bắn một phát hàng ngàn mũi tên, khiến cho 50 vạn quân Tần phải bỏ xác, và Triệu Đà kinh hồn động phách. Ngài là tổ sư của phái Hoa-lư. Trải qua 200 năm, dinh thự còn đó, nhưng con cháu ngài không được ở, mà bọn người Hán đến ở. Ôi đau xót biết bao, tủi nhục biết bao?
Chỉ sang phía trái, ông nói:
- Kia là dinh của Vạn-tín hầu Lý Thân, tổ sư của phái Long-biên. Dinh của ngài rất lớn. Vạn-tín hầu xưa đã từng đánh Hung-nô, ruổi ngựa khắp Vạn-lý trường thành, đánh thắng hết các anh hùng Trung-nguyên, oai danh một thời, nhưng nay thì dinh của ngài để cho người Hán ở. Thực là mối hận vạn cổ.
Đào Kỳ nhìn theo bốn dãy nhà bốn bên, ở giữa là một dinh thự rất đẹp. Trong dinh có người ở nhưng cây cối điêu tàn, cỏ cây xơ xác.

Chu Thổ Quan thở dài:
- Xưa kia đây là thủ đô Âu-lạc, oai linh một thủa. Nay vua An-dương vương ở đâu? Vạn-tín hầu ở đâu? Cao-cảnh hầu ở đâu? Trung-tín hầu ở đâu? Bia tàn cây cỗi, ngàn đời hận vong quốc. Tổ tiên ta xưa oanh liệt một thời. Vạn-tín hầu sang Lạc-dương đánh thắng các anh hùng của Tần Thuỷ-hoàng, sau đó lĩnh ấn nguyên soái đánh Hung-nô. Hung-nô sợ không dám nhập Trung-nguyên. Trung-tín hầu giết Đồ Thư tại trận, quân Tần vỡ mật rút lui. Thế mà chỉ vì một người con gái Âu-lạc nhẹ dạ, đến nỗi như thế này.
Chu Thổ Quan dẫn ba người đi thăm hết các dinh thự cũ cố đô, đến một góc thành có miếu thờ, hương khói nghi ngút.
Chu Thổ Quan nói:
- Kia là đền thờ vua An-dương và các anh hùng thời Âu-lạc. Chúng ta nên tới đó hành hương, để tưởng niệm.
Đền thờ vua Thục An-dương được xây tại một góc thành. Đào Kỳ thấy lối kiến trúc giống như đền thờ Cao-cảnh hầu Cao Nỗ mà nó đã đi qua. Đền được làm trên một khoảng đất rộng, xung quanh có hàng rào trúc, cắt xén rất tinh vi. Cổng vào, cột tô sơn đỏ, mái ngói xanh. Trên cột có rồng uốn khúc, đầu rồng trên nóc cổng nhả ra một viên châu. Cổng có ba cửa vào, cửa chính ở giữa lớn, lúc nào cũng đóng. Hai cửa hai bên vừa hai người đi thì mở cho khách tới lễ. Vào trong cổng là một cái hồ nhỏ trong trồng sen, có cá chép vàng bơi lội. Trên bờ hồ trồng đủ mọi loại hoa. Trước khi vào đền, phải qua một cái hàng hiên. Hai bên hiên có hai ngôi tượng rất lớn, tay cầm đao, đó là hai thần giữ cửa. Vào trong đền, ở giữa tượng An-dương đắp bằng đất, rất linh động, lưng đeo bảo kiếm, ngồi trên ngai. Bên phải một người cực kỳ cao lớn, đeo bảo kiếm, bên trái một người khác mặc quần áo võ quan, tay cầm cung, tay cầm tên. Phía trước một người cầm gậy đập xuống đầu ba người quỳ gối: Một nam, một nữ còn trẻ và một người già.

Chu Thổ Quan:
- Người ngồi giữa là vua Thục An Dương. Người to lớn hùng vĩ là Vạn-tín hầu Lý Thân, người đeo cung tên là Cao-cảnh hầu Cao Nỗ. Người cầm gậy đánh vào đầu kẻ gian là Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung. Ba người quỳ gối thì nữ là Mỵ Châu, nam là Trọng Thuỷ, còn lão già là Triệu Đà.
Trong đền hương khói nghi ngút, huyền ảo. Ông từ giữ đền thấy năm người vào lễ, vội bước ra chào:
- Quý khách ở phương xa tới lễ đức vua phải không?
Đào Kỳ gật đầu:
- Vâng, chúng tôi xin được lễ đức vua và các vị trung thần.
Ông từ gọi hai thiếu nữ mặc áo vàng lên điện. Một người đánh chuông, một người đánh trống. Đào Kỳ quỳ trước điện, Minh Châu, Tường Qui đồng quỳ xuống bên cạnh. Đào Kỳ lễ bốn lễ rồi khấn:
- Đệ tử là Đào Kỳ, thuộc phái Cửu-chân, xin khấn trước các vị tổ sư: Đệ tử nguyện xin dâng cả cuộc đời cho công cuộc phản Hán phục Việt. Xin các vị tổ sư linh thiêng, phò hộ cho đệ tử sớm được gặp những bậc anh tài để phò tá.
Bên cạnh Đào Kỳ, Minh Châu, Tường Qui cùng khấn theo, nhưng hai nàng khấn nhỏ quá, Đào Kỳ không biết các nàng khấn những gì.
Ba người cùng lấy tiền đưa cho ông từ để mua đèn hương và tu bổ đền. Đào Kỳ còn lưu luyến không muốn rời khỏi đền, nó hỏi ông từ:
- Lão bá, chẳng hay đền được xây từ hồi nào vậy?

Ông từ mắt mơ màng nhìn về xa xưa nói:
- Sau khi giòng họ Triệu bị người Hán đánh dẹp, dân chúng các nơi kéo về đây họp nhau, thu góp tài vật xây đền. Cho đến nay gần 100 năm rồi. Quý khách đây là con dân Việt hay đệ tử của Âu-lạc?
Đào Kỳ chỉ Tường Qui, Minh Châu giới thiệu:
- Hai vị cô nương đây coi như đệ tử của Vạn-tín hầu.
Còn chàng chỉ Chu Thổ Quan:
- Tiên sinh với tôi đều là đệ tử của Trung-tín hầu.
Ông từ mặt đầy vẻ thiện cảm:
- Thế thì mời quý vị viếng thăm giếng Trường hận là nơi Trọng Thuỷ nhảy xuống tự tử, sau khi đã chôn xác Mỵ Châu.
Ông dẫn năm người đến dưới gốc cây đa thực lớn, chỉ cái giếng khá sâu:
- Đây là cái giếng Trọng Thuỷ đã nhảy xuống tự tử chết theo Mỵ Châu. Từ ngày đó, trong thành Cổ-loa mọc ra một thứ hoa màu tím, có lấm tấm trắng. Trong nhuỵ quả hiện ra hình một người đàn ông cúi đầu như khóc. Người ta đồn đó là hình Trọng Thuỷ, hoa được gọi là hoa Trường-hận.

Tường Qui mắt phượng mở to quát:
- Trọng Thuỷ! Nếu hồn ngươi có sống quanh đây hãy nghe ta nói: Ta chỉ là một cô gái Việt nhỏ bé, tuổi chưa quá 17, nhưng ta đã trải qua nhiều đêm nhìn trăng uống hận vong quốc. Ngươi được vua An Dương thương yêu, cho ở rể. Được Mỵ Châu tin tưởng ngươi. Ngươi nỡ lòng nào dẫm lên đại lượng của vua An Dương, chà đạp lên tình yêu của Mỵ Châu, phá vỡ hết hệ thống nỏ thần trên thành, ăn cắp bí mật chế nỏ, rồi chiếm nước người... Dù ngươi hối hận chết đi một lần, chứ chết đi đến một trăm lần cũng không chuộc được tội ngươi.
Nàng rút kiếm lia một nhát, bao nhiêu hoa Trường-hận trên bờ giếng đứt sát hết tới tận gốc. Cơn giận hình như chưa hết, mắt phượng sắc như dao, còn nhìn vào những cây hoa nằm dưới đất như muốn băm vằm ra.
Chu Thổ Quan rút trong túi ra một ống tiêu, đưa lên miệng thổi, tiếng tiêu cao vút lên tận mây xanh, toả vào không gian vô tận, dài liên miên bất tuyệt. Đào Kỳ nhận ra tiếng tiêu đó là bản Cổ-loa di hận mà nó đã được nghe cách đây mấy năm ở trên bờ sông Hồng-hà do Nguyễn Tam Trinh tấu. Có điều Tam Trinh tấu trên sông nước mênh mông. Còn Chu thổ Quan lại tấu ngay trên cảnh điêu tàn của Cổ-loa, thành ra tiếng tiêu thê thảm như con mất cha, nức nở như tiếng vợ mất chồng và ai oán như thiếu phụ nhan sắc mặn nồng giữa ngày xuân phải xa tình lang, khiến người ngồi đó phải cúi đầu khổ não.

Tường Qui rút kiếm chỉ về phương Bắc nghiến răng:
- Đệ tử, Chu Tường Qui, xin thề trước Quốc-tổ, sẽ dùng cả đời để phản Hán phục Việt. Nếu đệ tử không giữ lời thề, sẽ như cây này.
Nàng rút kiếm chém vèo một cái, cây lúc lác bên cạnh bị tiện trọn từ gốc.
Quách Thiên Lý tay kéo nhị, miệng ca:
Lĩnh Nam anh hùng,
Lĩnh Nam địa linh,
Lĩnh Nam anh kiệt,
Đất Lĩnh Nam chừ! Đã hai trăm năm,
Giặc Hán đến,
Anh hùng đâu?
Điêu tàn thành cổ, nước sông trôi,
Cây cỏ khóc chừ! Người đời vô tình,
Ai đó nghe ta hát chừ! Tỉnh giấc đi thôi,
Ăn ngon chừ,
Mặc đẹp chừ,
Nhà đẹp chừ,
Vợ đẹp chừ,
Cúi đầu như trâu như ngựa,
Non nước điêu tàn, vong quốc mênh mang.
0

HOMECHAT
1 | 1 | 171
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com